Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

KÍCH THƯỚC KHỐI U CÓ LIÊN QUANVỚI NGUY CƠ DI CĂN HẠCH VÀ TỶ LỆ SỐNG CÒN TRONG UNG THƯ PHỔI KHÔNG PHẢI TẾ BÀO NHỎ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.9 KB, 26 trang )

KÍCH THƯỚC KHỐI U CÓ LIÊN QUANVỚI NGUY CƠ DI
CĂN HẠCH VÀ TỶ LỆ SỐNG CÒN TRONG UNG THƯ PHỔI KHÔNG
PHẢI TẾ BÀO NHỎ

TÓM TẮT
Mở đầu: Kích thước khối u là một yếu tố trong hệ thống phân giai
đoạn ung thư TNM. Chúng tôi nhận thấy rằng kích thước của khối u có mối
liên quan với khả năng di căn hạch trung thất và tiên lượng tỷ lệ sống còn
trên bệnh nhân ung thư phổi. Nghiên cứu nhằm mục đích là để đánh giá giả
thuyết này trên những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu phân tích tất cả những bệnh nhân
giải phẫu bệnh xác định là ung thư phổi không tế bào nhỏ được mổ từ 2003
– 2006. Trong mổ, tất cả bệnh nhân được đánh giá kích thước u và nạo hạch
trung thất làm giải phẫu bệnh. Phân tích tỷ lệ sống còn theo Kaplan-Meier
được thực hiện trong thời gian nghiên cứu 47 tháng. Sự ảnh hưởng của tuổi,
giới tính, loại tế bào học và kích thước khối u lên tỷ lệ sống còn của bệnh
nhân được phân tích bằng các kiểm định Log-Rank (Mentel-Cox), Breslow-
Gehan-Wincoxon, Tarone-Ware trong phân tích Kaplan-Meier.
Kết quả: Có tất cả 117 bệnh nhân, tuổi trung bình 58 tuổi, 75% là
nam. Cắt một thùy phổi có 88 bệnh nhân, cắt phân thùy và cắt không điển
hình trong 20 bệnh nhân. Không có tử vong trong phẫu thuật. Phân theo loại
tế bào học có: ung thư tế bào tuyến 88%, ung thư tế bào gai 7%, ung thư tiểu
phế quản – phế nang 1,6%, tế bào lớn 3,4%. Thời gian theo dõi trung bình
của 93 bệnh nhân là 18 tháng. Thời gian sống trung bình 30 tháng. Tỷ lệ
sống 1 năm là 77,4% (68,4 – 86,4% với khoảng tin cậy 95%). Sống 2 năm
60,8% (49,6 – 71,9%). Trong 13 bệnh nhân có u < 30mm tỷ lệ sống 1 năm là
90% so sánh với 86,7%; 79,9%; 53,5% ở những bệnh nhân có u từ 31 – 40;
41 – 50; 51 – 60 mm, Log-Rank test p = 0,545. Trong 30 bệnh nhân không
có hạch di căn, tỷ lệ sống 1 năm là 88,6% so sánh với 70,5% ở 50 bệnh nhân
có di căn hạch, Log-Rank test p = 0,03.
Kết luận: Qua nghiên cứu này cho thấy rằng kích thước của khối u có


liên quan đến khả năng di căn hạch. Tỷ lệ sống sót liên quan rõ rệt với giai
đoạn ung thư phổi có di căn hạch, trong khi kích thước khối u chưa đủ giá trị
để tiên lượng tỷ lệ sống sót ở bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ.
ABSTRACT
Study Objectives: Tumor size is a factor in TNM classification
system. We recognize that tumor size have concern with capability
metastasis mediastinal lymph node and survival in lung cancer. Our study
aims to assess this hypothesis within non-small cell lung cancer patients.
Methos: A retrospective analysis of all patients with pathologically
confirmed non-small cell lung cancer operated from 2003 – 2006. During
operation, all patients were examined tumor size and mediastinal lymph
node dissection. Kaplan-Meier survival analysis was performed to estimate
the 47 months survival probability. The influence of age, gender, histology
and tumor size on survival was also analyzed using Log-Rank (Mentel-Cox),
Breslow-Gehan-Wilcoxon, Tarone-Ware tests.
Result: There were 117 patients, the mean age is 58 years, 75% were
men. Lobectomy was performed in 88 patients, segmentectomy and wedge
resection in 20 patients. There was no operative mortality. Histologic
breakdown was as follows: adenocarcinoma 88%, squamous cell 7%,
bronchioloalveolar carcinoma 1.6%, large cell 3.4%. The median follow-up
time for 93 patients was 18 months. The median survival time was 30
months. The 1-year survival probability was 77.4% (68.4 – 86.4% with 95%
confidence interval). The 2-year survival probability was 60.8% (49.4 –
71.9%). In 13 patients with tumor size < 30mm, The 1-year survival
probability was 90% in comparison with 86.7%; 79.9%; 53.5% in patients
with tumor size 31 – 40; 41 – 50; 51 – 60 mm (Log-rank test p = 0.545). In
30 patients with no node-metastasis, The 1-year survival probability was
88.6% in comparison with 70.5% in 50 patients with node metastasis (Log-
rank test p = 0.03).
Conclusion: These study suggest that tumor size has concern with

capability mediastinal lymph node metastasis. Tumor size hasn’t value for
prognoses survival probability in non-small cell lung cancer patients.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các loại ung
thư. Ở Hoa Kỳ, có xấp xỉ 172.000 mắc bệnh ung thư mới được chẩn đoán
hàng năm và tử vong 159.000 trường hợp trong năm 2005. Ở Bắc Mỹ, <15%
bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn I được phẫu thuật với kết quả sống 5 năm
60 – 80%. Có mối liên quan giữa kích thước khối ung thư với tỷ lệ sống đã
được công nhận trong hệ thống phân giai đoạn ung thư hiện hành, có sự
khác biệt rõ rệt về khả năng sống còn giữa kích thước khối ung thư > 30mm
và < 30mm. Mặc dù vậy có ít những thông tin để xác định sự liên quan của
kích thước những khối u lớn hơn 30mm với tỷ lệ sống còn của bệnh nhân.
Nghiên cứu này, nhằm mục đích đánh giá mối liên quan giữa kích thước
khối u với khả năng di căn hạch trung thất và tỷ lệ sống còn trên những bệnh
nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Là hồi cứu phân tích. Thời gian từ 06/2003 đến 06/2006.
Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ được mổ
cắt khối ung thư kết hợp kiểm tra lấy mẫu hạch trung thất làm giải phẫu
bệnh học.
Khối u được xác định kích thước và chia thành những phân nhóm,
biến số kích thước khối u và các yếu tố tiên lượng khác được đánh giá bởi
kiểm định chi bình phương cho giới tính và loại tế bào học, kiểm định
student (t-test) cho tuổi bệnh nhân. Phân tích Kaplan-Meier được thực hiện
để so sánh thời gian sống tích lũy 1 đến 3 năm với kích thước khối u bằng
log-rank test, Breslow-Gehan-Wilcoxon test, Tarone-Ware test
Phương pháp nghiên cứu
Là xác định mối liên quan giữa thời gian sống của bệnh nhân với tuổi,

giới tính, loại tế bào và kích thước khối ung thư.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Có 117 bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu. Thời gian theo dõi trung
bình 30 tháng. Có 93/117 (79,5%) bệnh nhân theo dõi sau mổ liên tục đến
khi thực hiện nghiên cứu.
Bảng 1: Tuổi – giới:
N
=
Kho
ảng
dao động
Tu
ổi
trung bình

Độ
lệch chuẩn
Toàn
bộ
117

19 – 81

58 ±
3
12,49

Nam
87 24 – 79


59 ±
3
11,9
Nữ 30 19 – 81

53 ±
6
13,2
t-test
Tuổi trung bình cho cả nam nữ là 58 tuổi, dao động từ 19 đến 81 tuổi.
Nam có tuổi trung bình 59 tuổi, cao hơn tuổi trung bình ở nữ 53 tuổi.
t-test về tuổi trung bình cho hai nhóm nam và nữ cho thấy sự khác
nhau có ý nghĩa thống kê, nghĩa là ở nữ thường bị bệnh sớm hơn.
Tỷ lệ mắc bệnh nam/nữ là 3/1.
Bảng 2: Dấu hiệu lâm sàng:

Số
lượng
BN
Tỷ
lệ (%)
G
ầy
sút
27 23%

Ho
khan
61 53%


Ho
ra máu
41 35%

Lâm
sàng
Đau
ngực
106

90%

Tế
bào học
Ung
thư tế b
ào
tuyến
(TBT)
103

88%

Ung
thư tế b
ào
gai (TBG)

8 7%
Ung

thư tế b
ào
lớn (TBL)

4 3,4%

Ti
ểu
ph
ế quản
PN (TPQ-
PN)
2 1,6%

* TBT: Adenocarcinoma, ung thư tế bào tuyến; TBG: Squamous cell,
ung thư loại tế bào gai;
TBL: Large cell, ung thư tế bào lớn; TPQ-PN: Bronchioloalveolar, ung
thư tiểu phế quản-phế nang.
Triệu chứng lâm sàng quan trọng nhất là đau ngực, 90% bệnh nhân có
triệu chứng này. Mức độ đau ngực từ vài tuần đến nhiều tháng, thời gian đau
ngực trung bình 2,3 tháng. Kiểm định mối liên quan giữa đau ngực với kích
thước khối u và giai đoạn ung thư thấy sự khác biệt chưa đủ có ý nghĩa
thống kê. Vì triệu chứng đau ngực là chủ quan, sự chịu đựng mức độ đau
của bệnh nhân là khác nhau nên sự so sánh có sai số lớn.
Ho khan và ho ra máu là những triệu chứng quan trọng thường gặp
trong ung thư phổi.
Để xác định mối liên quan giới tính và loại tế bào ung thư, phân tích
ANOVA-test về giới tính và loại tế bào ung thư, so sánh mẫu nghiên cứu với
kết quả của JerfreyError! Bookmark not defined. chúng tôi thấy không có
sự tương tác giữa giới tính và loại tế bào ung thư.

Bảng 3: Phân bố vị trí ung thư phổi và liên quan với loại tế bào.
V
ị trí tổn
thương
TB
T
TB
G
TB
L
TPQ_P
N
Tổ
ng số
Th
ùy trên
20 2 22
Th
ùy giữa
8 8
Ph
ổi phải
Th
ùy dưới
21 2 2 25
V
ị trí tổn
thương
TB
T

TB
G
TB
L
TPQ_P
N
Tổ
ng số
Th
uỳ trên
44 3 4 51
Ph
ổi trái
Th
uỳ dưới
10 1 11
Tổng số 103 8 4 2 117

Tần suất xuất hiện tổn thương ung thư phổi là tương đương nhau cho
cả hai bên (55 và 62).
Tuy nhiên bên phổi trái ung thư thùy trên chiếm hơn 82,2% so với
thùy dưới, trong khi bên phổi phải phân bố ung thư giữa thùy trên với thùy
giữa so với thuỳ dưới cao hơn nhưng không cao như bên trái.
Bảng 4: Các phương pháp điều trị phẫu thuật trong ung thư phổi.
Phươn
g pháp ph
ẫu
thuật
TB
T

TB
G
TB
L
TPQ_P
N
Tổn
g số
Cắt
không đi
ển
hình
8 8
Sinh
thiết U
10 4 14
Cắt
thùy phổi
79 3 4 2 88
C
ắt 2
thùy phổi
1 1 2
Cắt
phổi
5 5
Tổng số

103


8 4 2 117
Có 81,2% trường hợp điều trị phẫu thuật triệt để loại bỏ hoàn toàn
khối u ra khỏi lồng ngực, 5 trường hợp cắt một bên phổi, 88 trường hợp cắt
bỏ một thùy phổi.
Trong 18,8% trường hợp điều trị không triệt để, có 14 trường hợp
không cắt được u chỉ lấy mẩu u làm xác định chẩn đoán. Tỷ lệ mở ngực
thám sát 12% là cao.
Bảng 5: Phân bố kích thước u xác định trong khi mổ
Kíc
h thư
ớc u
(mm)
< 30
mm
31

40
41

50
51 -
60
61

70
> 70
mm
Số
lượng
13 21


38 24 3 18
Tỷ
lệ (%)
11,1
%
18
%
32,5
%
20,5
%
2,5
%
15,4
%
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 88,9% khối u lớn hơn 30mm (từ T
2
-
T
3
). U có kích thước càng lớn thì khả năng di căn hạch càng cao. Và như vậy
giai đoạn ung thư phổi theo TNM khi bệnh nhân nhập viện cũng càng muộn
làm cho tỷ lệ tử vong tăng lên.
Bảng 6: So sánh kích thước khối u qua XQ, CCLĐT và trong khi mổ
Kích S

Trung
Độ
thước U lượng bình (mm) lệch chuẩn


Xquang

94

52,20

20,04

CCLĐT

94

50,95

19,79

Phẫu
thuật
94

50,53

20,89

t-test với giá trị trung bình cho mẫu sóng đôi: xác định kích thước
trung bình của theo Xquang, CCLĐT và trong mổ cho thấy sự sai biệt là
chưa đủ ý nghĩa thống kê, P > 0,05.
Bảng 7: Tỷ lệ có hạch ác tính so với kích thước khối u
H

ạch rốn
phổi
H
ạch trung
thất
Kích
thước U
Lành
tính
Ac
tính
Lành
tính
Ac
tính
T
ổng
cộng
< 30
mm
9 3 10 2 12
31 – 8 6 9 5 14
40 mm
41 –
50 mm
13 12

13 12

25

51 –
60 mm
1 14

0 15

15
> 60
mm
1 13

1 13

14
T
ổng
cộng
32 48

33 47

80
X
2
–test đánh giá liên quan kích thước khối u và di căn hạch.
Kiểm định X
2
về mối liên quan giữa kích thước khối u và di căn hạch
rốn phổi cho thấy sự liên quan rất rõ rệt với p = 0,0002. Khối u càng lớn thì
khả năng di căn hạch càng cao.

Tương tự kiểm định c
2
cũng cho thấy mối liên quan giữa kích thước
khối u và di căn hạch trung thất là rất rõ rệt với p < 0,0001. Khối u càng lớn
thì khả năng di căn hạch trung thất càng cao. Độ mạnh của giá trị p (p value)
trong hạch trung thất cao hơn hạch rốn phổi.
Phép kiểm c
2
và kiểm định chính xác Fisher đều cho thấy có mối liên
quan rất chặt chẽ giữa di căn hạch rốn phổi và di căn hạch trung thất với p <
0,0001. Những công trình nghiên cứu nước ngoài cũng ghi nhận điều này và
Asamura và CS cũng đưa ra kết luận rất khó phân biệt đường ranh giới giữa
hạch rốn phổi và hạch trung thất mặc dù về mặt lý thuyết người ta lấy ranh giới
này là màng phổi trung thất và phế quản thùy trên làm mốc.
Phân tích tỷ lệ sống còn Kaplan-Meier liên quan đến các biến số
nghiên cứu
Kết quả phân tích tỷ lệ sống còn Kaplan-Meier được kiểm định bằng
phương pháp Log-Rank test, Breslow-Gehan-Wilcoxon.
Tính chung cho toàn bộ nhóm nghiên cứu, tỷ lệ sống 1 năm là 77,4%,
sống 2 năm 60,8%, sống 3 năm chỉ còn 44,2%.
Về tuổi
Tỷ lệ sống còn không liên quan đến tuổi người bệnh (p = 0,78 – 0,88).
Trên lâm sàng thực hành, tỷ lệ tử vong có tăng lên khi tuổi càng cao, điều này
có thể do bệnh liên quan hoặc thể trạng và sức chịu đựng người nhiều tuổi là
yếu hơn.
Về giới tính
Kiểm định Log-Rank (Mentel-Cox) cho thấy có ý nghĩa thống kê,
nghĩa là tỷ lệ sống còn có liên quan đến giới tính ngưới bệnh ung thư (p =
0,0495). Khả năng sống còn ở nữ giới mắc bệnh ung thư phổi là cao hơn
nam giới. Tuy nhiên khả năng này là không rõ rệt lắm, kiểm định Breslow-

Gehan-Wilcoxon cho thấy p = 0,065, cần phải theo dõi thêm với số lượng
lớn hơn.
Về loại tế bào ung thư
Chiếm đại đa số là ung thư tế bào tuyến (88,2%). Trong ung thư tế bào
tuyến, sống sót trong năm đầu là 82,1%, năm thứ 2 tỷ lệ sống sót còn 64,5%.
Trong ung thư tế bào gai 75% tử vong trong năm đầu. Tiên lượng sống cho
ung thư tế bào gai là rất xấu. Kiểm định Log-Rank với p = 0,0085, Breslow-
Gehan-Wilcoxon với p = 0,005 rất có ý nghĩa thống kê, chứng tỏ tỷ lệ sống
còn liên quan rất chặt chẽ với loại tế bào ung thư.
Về hoá trị sau mổ
Nhóm 1 gồm 45 bệnh nhân không dùng hoá trị sau mổ, nhóm 2 có 48
bệnh nhân hoá trị với các phác đồ trị liệu bao gồm Parlitaxen + Carboplatin,
Gemcitabin + Carboplatin, Docetaxen + Carboplatin v.v tỷ lệ sống sót
trong năm thứ nhất không có sai biệt đáng kể giữa hai nhóm không hoá trị và
có hóa trị lần lượt là 78,8% và 76,7%. Tỷ lệ sống 2 năm lần lượt là 59,7% và
61,9% và và sống 3 năm lần lượt là 32,6% và 53%. Mặc dù có sai biệt lớn,
tuy nhiên kiểm định Log-Rank (Mentel-Cox) p = 0,537, Breslow-Gehan-
Wilcoxon p = 0,723. Nghĩa là sự khác biệt giữa hoá trị và không hoá trị liên
quan với tỷ lệ sống còn là chưa có ý nghĩa thống kê.


Bảng 8: Tỷ lệ sống còn 1 năm, 2 năm và 3 năm theo các biến số
nghiên cứu.
S

BN

Tỷ lệ sống còn (%)
1
năm

2
năm
3
năm
Toàn bộ 93

77,4 60,8 44,2
< 50 19

86,9 69,5 11,4
50 -
70
58

75,7 57,3 57,3
Tuổi

> 70 16

73,3 65,2 0,0
Nam 68

72,4 55,8 35,6
Giới

Nữ 25

91,1 74,6 74,6
TB
Tuyến

82

82,1 64,5 50,2
TB
Lớn
3 66,7 66,7 0,0
Loại
mô b
ệnh
học
TB
Gai
8 25,0
Tỷ lệ sống còn (%)

S

BN
1
năm
2
năm
3
năm
Không

45

78,8 59,7 32,6
Hóa

trị

hóa trị
48

76,7 61,9 53,0
< 30
mm
12

90,0
31 -
40
16

86,7 86,7 86,7
41 –
50
32

79,9 64,3 43,8
51 –
60
19

53,3 36,6
K
ích
thư
ớc khối

u
> 60 14

82,5 59,0 0,0
Tỷ lệ sống còn (%)

S

BN
1
năm
2
năm
3
năm
Không
di căn
30

88,6 72,4 63,4
Di
căn hạch
Di căn

50

70,5 52,8 32,9
Không
di căn
32


89,3 73,9 64,7
H
ạch
Rốn phổi
Di căn

48

69,3 51,1 31,8
Không
di căn
33

89,8 68,2 59,7
H
ạch
Trung thất

Di căn

47

68,3 54,8 31,1
IIB 10

100,0

100,0 66,7
IIIA 55


88,0 67,9 49,6
Giai
đo
ạn ung
thư
IIIB 18

49,6 28,3 21,2
Tỷ lệ sống còn (%)

S

BN
1
năm
2
năm
3
năm
IV 10

45,0
Về kích thước khối ung thư
Chúng tôi chia kích thước u thành từng lớp với khoảng cách độ rộng
là 10mm (bảng 8), phân tích Kaplan-Meier cho thấy khả năng sống 1 năm
giảm dần khi kích thước khối u tăng dần. Tuy nhiên kiểm định Log-Rank
(Mentel-Cox) với p = 0,085 và Breslow-Gehan-Wilcoxon với p = 0,100
nghĩa là mối liên quan giữa kích thước khối ung thư với khả năng sống còn
là chưa chặt chẽ, chưa đủ mạnh về mặt thống kê. Thực tế dựa đơn thần vào

kích thước khối u thì không đủ tiên lượng sống còn như phân giai đoạn ung
thư theo TNM đã đề cập. Khi so sánh hai loại kích thước u < 30mm và > 30
mm như các tác giả nước ngoài, chúng tôi cũng nhận thấy mối liên quan
giữa kích thước u và tỷ lệ sống còn là không chặt chẽ, Log-Rank p = 0,691
và Breslow-Gehan-Wilcoxon p = 0,609. Nghiên cứu của Patz và CS là
nghiên cứu lớn nhất hiện nay, đã xác nhận mối liên quan giữa kích thước và
loại tế bào học với tỷ lệ sống còn trên những bệnh nhân ung thư phổi. Tác
giả đã phân tích 510 bệnh nhân có giai đoạn ung thư IA. Tất cả được theo
dõi trong 18 năm, có một điều ngạc nhiên là không tìm thấy mối liên quan
giữa kích thước khối u với tỷ lệ sống còn của bệnh nhân, không tính đến
việc xác định kích thước u là biến số rời rạc hay liên tục. Có một vài biến số
gây nhiễu đã giải thích kết quả không mong đợi này.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng ghi nhận rằng mối liên quan giữa kích
thước u và tỷ lệ sống còn là không rõ ràng.


Những nghiên cứu khác cũng gợi ý sự ảnh hưởng của kích thước khối
u lên sự sống còn. Martini và CS, trong một hồi cứu 598 bệnh nhân có khối
ung thư giai đoạn I đã chứng minh rằng kích thước khối u ảnh hưởng lên tỷ
lệ sống còn của bệnh nhân; tỷ lệ sống của bệnh nhân với những tổn thương
nhỏ < 10mm cao hơn những bệnh nhân có u từ 10 – 30mm. Padilla và CS
cũng đã có những thông báo kết quả tương tự. Tuy nhiên, theo chúng tôi so
sánh tỷ lệ sống còn giữa u < 10mm và u 10 – 30 mm thì kết quả có được là
không đủ sức thuyết phục.
Về vấn đề di căn hạch
Khi so sánh hai nhóm, nhóm hoàn toàn không có di căn hạch (30 bệnh
nhân) và nhóm có di căn hạch không phân biệt hạch N
1
hay hạch N
2

(50
bệnh nhân), chúng tôi thấy tỷ lệ sống 1 năm lần lượt là 88,6% và 70,5%
(bảng 8), sống 2 năm là 72,4% và 52,8%. Kiểm định ở bảng 9 về biến số di
căn hạch có p = 0,03 và p = 0,019, nghĩa là có mối liên quan rõ rệt giữa tỷ lệ
sống còn với bệnh nhân ung thư phổi có di căn hạch.
Bảng 9: kiểm định mối liên quan giữa kích thước u với di căn hạch
Có di căn
hạch
Di căn h
ạch
RP
Di căn h
ạch
TT
Lo
ại
kiểm định

Đ

t
ự do
X
2
P-
value
X
2
P-
value

X
2
P-
value
Log-
Rank
(Mentel-
Cox)
1
4,
710
0,0
300
5,
842
0,0
157
7,
892
0,0
050
Bres
low-
Gehan-
Wilcoxon
1
5,
492
0,0
191

6,
727
0,0
095
8,
234
0,0
041
Taro
ne-Ware
1
5,
210
0,0
225
6,
439
0,0
112
8,
217
0,0
041


Kết quả phân tích cho từng loại di căn hạch rốn phổi và hạch trung
thất được tổng kết ở bảng 8 và bảng 9 đều cho thấy mối liên quan rất chặt
chẽ giữa tỷ lệ sống còn với nguy cơ di căn hạch rốn phổi và hạch trung thất.
Về giai đoạn ung thư
Chúng tôi nhận thấy mối liên quan rất chặt giữa hai yếu tố này, giai

đoạn ung thư càng thấp thì khả năng sống sót càng cao và ngược lại giai
đoạn ung thư càng cao thì tiên lượng sống còn là rất dè dặt (bảng 8).
Giai đoạn IIIA sống 1 năm 88%, sống 2 năm 68,9% (nghĩa là tử vong
năm đầu từ 12% tăng 32,1%). Giai đoạn IIIB sống 1 năm 49,6%, sống 2 năm
28,3% (tử vong từ 50,4% tăng lên 71,7%) và giai đoạn IV, sống 1 năm chỉ
có 45% (tử vong 55% trong năm đầu).
Kiểm định Log-Rank (Mentel-Cox) với p = 0,0008 và Breslow-
Gehan-Wilcoxon với p = 0,0002; cho thấy tỷ lệ sống sót liên quan rất chặt
chẽ với giai đoạn ung thư.
KẾT LUẬN

×