Kiểm tra, chứng nhận đủ điều kiện
đảm bảo an toàn chịu lực và chứng
nhận sự phù hợp về chất lượng công
trình xây dựng
Công ty kiểm định Xây dựng Sài gòn
Kiểm tra, chứng nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn chịu lực
và chứng nhận sự phù hợp về chất lượng công trình xây dựng
Người soạn : Lê Văn Thịnh
Trưởng phòng Quản lý chất lượng công trình xây dựng 1
Cục Giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng
Chương 1
Đánh giá sự phù hợp
I. Khái quát
1. Định nghĩa
Để khẳng định một đối tượng nào đó thỏa mãn các yêu cầu trong các văn bản qui
định, cần tiến hành xem xét các khía cạnh có liên quan của đối tượng đó một cách
hệ thống. Hoạt động này gọi là đánh giá sự phù hợp. Nói chính xác hơn, đánh giá
sự phù hợp là sự xem xét một cách hệ thống để xác định mức độ mà một thực thể
có khả năng đáp ứng các yêu cầu quy định. Thực thể là đối tượng của việc đánh
giá, thực thể đó có thể là:
- sản phẩm (bao gồm cả dịch vụ);
- một hoạt động hay một quá trình;
- một tổ chức, một hệ thống hay con người;
- tổ hợp của các đối tượng trên.
Tùy theo chủ thể tiến hành việc đánh giá và khẳng định sự phù hợp, có thể phân
thành ba loại sau:
Đánh giá của bên thứ nhất: Theo hình thức này, người cung cấp (bên thứ nhất) tự
đánh giá sản phẩm (quá trình, hệ thống chất lượng ) của mình, kết quả việc tự
đánh giá sẽ là bản tự công bố của bên cung ứng.
Đánh giá của bên thứ hai: Theo hình thức này, khách hàng (bên thứ hai) tiến hành
đánh giá, kết quả của hoạt động này sẽ là sự thừa nhận của khách hàng.
Đánh giá của bên thứ ba: Theo hình thức này, một tổ chức trung gian (bên thứ ba)
tiến hành đánh giá. Tùy theo cách thức và nội dung đánh giá, hoạt động này có các
loại hình khác nhau như thử nghiệm, giám định (kiểm tra), chứng nhận, công
nhận. Kết quả của các quá trình này là các chứng chỉ cho đối tượng được đánh giá.
2. Yêu cầu chung đối với thủ tục đánh giá sự phù hợp
Cùng với sự toàn cầu hoá thị trường, có nhiều vấn đề nảy sinh do sự khác biệt về
chính sách tiêu chuẩn hoá và đánh giá sự phù hợp. Để giải quyết vấn đề này trước
tiên cần phải có tiêu chuẩn để căn cứ vào đó mà đánh giá và thủ tục đánh giá sự
phù hợp đối với các yêu cầu trong tiêu chuẩn. Tuy nhiên để tương ứng với xu
hướng toàn cầu hóa, tiêu chuẩn cũng như thủ tục đánh giá sự phù hợp không được
trở thành một loại hàng rào phi quan thuế. Bởi vậy yêu cầu hòa nhập giữa các yếu
tố trở nên một vấn đề quan trọng, nếu có thể cần phải hòa nhập ở cấp quốc tế.
Trong trường hợp này các cơ quan Tiêu chuẩn hóa quốc tế phải giải quyết bài toán
cân đối yêu cầu của các nước đã phát triển với các nước đang phát triển hay các
nước ít quan tâm đến bảo vệ người tiêu dùng.
Theo định nghĩa của Thỏa ước về Hàng rào Kỹ thuật đối với Thương mại (TBT)
của tổ chức Thương mại Quốc lễ (WTO), thì các thủ tục đánh giá sự phù hợp là
bất kỳ thủ tục nào được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp để xác định rằng yêu cầu
tương ứng trong các tiêu chuẩn hay chế định kỹ thuật (technical regulation) đã
được thực hiện. Chế định kỹ thuật là văn bản qui định những đặc tính của sản
phẩm hay các quá trình và phương pháp sản xuất có liên quan. Các chế định kỹ
thuật này được các tổ chức có thẩm quyền công bố, thông thường vì mục đích an
toàn bảo vệ sức khỏe, môi trường, ngăn ngừa các qui tắc gây nên sự nhầm lẫn. Sự
phù hợp với các chế định là yêu cầu bắt buộc trong khi sự phù hợp với tiêu chuẩn
nói chung là không bắt buộc trừ trường hợp do một cơ quan có thẩm quyền qui
định. Nói chung, việc đảm bảo sự phù hợp với các chế định kỹ thuật cần được
thực hiện trước khi đưa sản phẩm đó vào thị trường.
Thủ tục đánh giá sự phù hợp có thể bao gồm phương pháp lấy mẫu, thử nghiệm,
kiểm tra, đăng ký, chứng nhận và công nhận được sử dụng để đưa ra sự đảm bảo
đối với các cơ quan có thẩm quyền và người tiêu dùng rằng các yêu cầu qui định
đã được thực hiện. Kết quả là việc đánh giá sự phù hợp có thể giảm các cuộc tranh
chấp có thể xảy ra về các qui định hay chất lượng của sản phẩm.
Việc đánh giá phù hợp đối với các tiêu chuẩn tự nguyện đang ngày càng trở nên
quan trọng do sự toàn cầu hóa và sự mở rộng thị trường thế giới vì nó cho phép
người tiêu dùng có thể an tâm lựa chọn mặt hàng. Hoạt động chứng nhận, nhãn
hiệu, dấu hiệu có thể cung cấp thông tin và đem lại lòng tin tưởng cần thiết cho
khách hàng. Kết quả là việc đánh giá sự phù hợp có thể được các nhà sản xuất và
xuất khẩu sử dụng làm công cụ tiếp thị và đem lại thành công trên thương trường.
Khó hình dung có thể tiến hành hoạt động thương mại mà không có các thủ tục
đánh giá sự phù hợp.
Tuy nhiên cũng cần chú ý đến những điểm sau đây, nếu không các thủ tục đánh
giá sự phù hợp lại trở thành một rào cản đối với thương mại.
Thứ nhất, việc thiếu sự rõ ràng minh bạch về thông tin cần thiết để đáp ứng các
yêu cầu đánh giá sự phù hợp sẽ khiến các nhà sản xuất nước ngoài ở vị trí bất lợi
khi bước vào thị trường mới.
Thứ hai, sự phân biệt đối xử nhằm giảm thế cạnh tranh của sản phẩm nhập khẩu,
ví dụ như đòi hỏi chi phí đánh giá cao hơn. Điều này là mối lo ngại đối với các
nhà sản xuất và xuất khẩu đặc biệt đối với các nhà xuất khẩu từ các nước đang
phát triển vì các quốc gia này thường thiếu cơ sở hạ tầng về thử nghiệm, công
nhận và chứng nhận.
Thứ ba, việc qui định những biện pháp, phương tiện đánh giá quá phức tạp, thời
gian xử lý dài và thông tin thừa không cần thiết cũng là những rào cản cho thương
mại.
Các cơ quan quản lý quốc gia phải xem xét để các chính sách và cơ cấu tổ chức
của họ thích nghi với các áp lực mới này. Sự công khai, rõ ràng trong quá trình
xây dựng tiêu chuẩn là một yêu cầu quan trọng để người tiêu dùng chấp nhận các
tiêu chuẩn. Sự hòa nhập của các hệ thống đánh giá sự phù hợp đóng vai trò then
chốt để đem lại sự tin tưởng của người sử dụng.
Sự bùng nổ về các loại dấu phù hợp cũng gây không ít nỗi băn khoăn cho các nhà
sản xuất và làm cho chính người tiêu dùng cũng bị rối loạn. Người cung cấp phải
tốn kém nhiều để thỏa mãn các yêu cầu quốc gia khác nhau. Việc thử nghiệm,
kiểm tra và chứng nhận nhiều lần không chỉ gây tốn kém cho các nhà sản xuất mà
còn gây hoang mang cho người tiêu dùng nhất là khi các kết quả lại trái ngược
nhau. Bởi vậy nhu cầu "Bị đánh giá một lần và được thừa nhận mọi nơi" trở nên
cấp thiết. Đó cũng là nhiệm vụ của tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan đến
vấn đề này.
Nói tóm lại các thủ tục đánh giá sự phù hợp phải đảm bảo không có sự phân biệt
đối xử, phải rõ ràng minh bạch, hòa nhập và để không trở thành rào cản đối với
thương mại . Đó cũng chính là những nguyên tắc chủ yếu trong "Thỏa ước của
WTO về Rào cản Kỹ thuật đến Thương mại đối với các Thủ tục Đánh giá sự Phù
hợp" được 121 quốc gia thành viên nhất trí áp dụng tại vòng đàm phán Uruguay.
II. Tự công bố của người cung cấp
1. Khái quát
Tự công bố của người cung cấp là một thủ tục theo đó người cung cấp đảm bảo
dưới dạng văn bản rằng một đối tượng nào đó phù hợp với các yêu cầu qui định, ở
đây người cung cấp có thể là người sản xuất, phân phối, nhập khẩu, lắp đặt hay tổ
chức dịch vụ
Hoạt động tự công bố nhằm mục đích chứng tỏ rằng sản phẩm, quá trình hay hoạt
động được xét là phù hợp với văn bản đã xác định và nói rõ ai là người chịu trách
nhiệm về sự phù hợp này. Việc tự công bố có thể áp dụng cho cả trường hợp tự
nguyện hay bắt buộc. Trong trường hợp thứ nhất, tự công bố coi như một công cụ
tiếp thị. Trường hợp thứ hai, liên quan đến các yêu cầu bắt buộc như sức khỏe, an
toàn, môi trường, tương thích điện từ trường, Trong hầu hết mọi trường hợp, tự
công bố là do yêu cầu của khách hàng, thị trường.
Việc tự công bố của người cung cấp có lợi ích là tiết kiệm thời gian và kinh phí,
đáp ứng nhanh chóng yêu cầu của người tiêu dùng và khuyến khích việc áp dụng
tiêu chuẩn. Nhược điểm của hình thức này là thiếu sự thuyết phục, và nếu không
có những qui định rõ ràng về trách nhiệm pháp lý của người công bố thì rất dễ xảy
ra sự lạm dụng và gây lẫn lộn cho người tiêu dùng, bởi vậy người ta thường kết
hợp với những hệ thống đánh giá khác, việc tự công bố chỉ là một giai đoạn trong
hệ thống này.
2. Yêu cầu chung khi tự công bố
Khi tự công bố người cung cấp phải chịu trách nhiệm về các chỉ tiêu/đặc trưng của
đối tượng được xét. Các chỉ tiêu/đặc trưng này được quy định trong văn bản đã
xác định. Để có giá trị khách quan và đem lại lòng tin tưởng cho người sử dụng,
việc công bố phải dựa trên các phép thử nghiệm hay xem xét đánh giá, ngoài ra hệ
thống chất lượng có liên quan phải đảm bảo phù hợp với các văn bản quy định.
Tuy nhiên, không yêu cầu hệ thống chất lượng của người cung cấp phải được
chứng nhận. Người cung cấp có thể nêu trong công bố của mình mọi loại chứng
chỉ đã được cấp hay trạng thái của phòng thí nghiệm có liên quan đến việc thử
nghiệm, ví dụ như đã được công nhận hay chưa.
3. Nội dung công bố
Bản công bố phải có đủ thông tin để các sản phẩm, quy trình hay dịch vụ được đề
cập có thể kiểm chứng lại được. Nói chung, tối thiểu phải có các thông tin sau:
- Tên, địa chỉ người công bố;
- Nhận dạng đối tượng (tên, loại, số hiệu, kiểu nhãn, các thông tin thích hợp khác);
- Công bố về sự phù hợp;
- Các tiêu chuẩn hay văn bản được áp dụng;
- Ngày, tháng, nơi công bố;
- Chữ ký người có trách nhiệm;
- Các thông tin bổ sung, phòng thí nghiệm hay tổ chức chứng nhận có liên quan,
số hiệu bản kết quả thí nghiệm, hệ thống chất lượng được áp dụng
Các chi tiết về việc tự công bố của người cung cấp sẽ được quy định cụ thể trong
từng quốc gia hay khu vực.
III. Chứng nhận
Chứng nhận là một thủ tục mà bên thứ ba áp dụng để đảm bảo rằng một đối tượng
nào đó phù lợp với các yêu cầu qui định. Bên thứ ba là một tổ chức độc lập với
người cung cấp và khách hàng và được gọi là "tổ chức chứng nhận ".
Đối tượng để chứng nhận có thể là sản phẩm, hệ thống hoạt động, con người, từ đó
có thể phân thành các dạng chứng nhận sau:
- Chứng nhận sản phẩm;
- Chứng nhận hệ thống quản lý;
- Chứng nhận kỹ thuật viên chuyên ngành.
Hoạt động chứng nhận có những lợi ích cơ bản sau:
- Đem lại lòng tin cho khách hàng.
- Nâng cao uy tín doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Chứng chỉ về sự phù hợp trong nhiều trường hợp là một đòi hỏi để các doanh
nghiệp vào được các thị trường chủ yếu trên thế giới.
Với một số loại sản phẩm ở những thị trường nhất định, việc được chứng nhận
theo các tiêu chuẩn qui định là một yêu cầu bắt buộc.
1. Chứng nhận sản phẩm
1.1. Các yêu cầu cần chứng nhận của sản phẩm
Khi cung thấp hơn cầu, khách hàng/người tiêu dùng không có điều kiện để lựa
chọn. Tình trạng này ngự trị cả thế giới sau đại chiến thứ hai. Mặc dù vậy, các
quốc gia quan tâm đến bảo vệ cho người dân đã ban hành các chế định đảm bảo sự
an toàn cho người tiêu dùng. Trên cơ sở đó đã hình thành các thủ tục đánh giá sự
phù hợp của sản phẩm.
Như vậy, lĩnh vực đầu tiên của đánh giá sự phù hợp là an toàn. Trong phạm vi
quốc gia, khu vực và quốc tế, có những chế định về các vấn đề an toàn, và các chế
định này được dùng để đánh giá sự phù hợp của sản phẩm. Các dụng cụ điện, khí
đốt, thiết bị bảo vệ cá nhân là những đối tượng đầu tiên được yêu cầu đánh giá về
phương tiện an toàn.
Khi sự an toàn đã được đảm bảo, người ta quan tâm đến chất lượng theo quan
điểm sử dụng, từ đó nảy sinh nhu cầu đánh giá chất lượng nói chung. Và sự phù
hợp với các yêu cầu chung về chất lượng, hay thích hợp với sử dụng, trở thành
một vũ khí thương mại. Thủ tục chứng nhận sản phẩm cũng ngày càng hoàn thiện,
từ chỗ chỉ yêu cầu bản thân sản phẩm phải phù hợp với các phép thử nghiệm, các
tổ chức chứng nhận thấy cần phải đảm bảo tính ổn định của chất lượng sản phẩm
đó, từ đó đã đặt vấn đề phải xem xét, đánh giá điều kiện đảm bảo chất lượng.
Khi vấn đề an toàn và quan điểm sử dụng đã được thoả mãn, các tổ chức quản lý,
bao gồm cả các tổ chức người tiêu dùng và bản thân người tiêu dùng bắt đầu quan
tâm đến môi trường. Từ năm 1990, các hoạt động đánh giá sự phù hợp của các sản
phẩm có tác động đến sinh thái đã phát triển rất nhanh ở quy mô quốc gia, khu vực
và toàn cầu.
Tiểu ban số 3 của Ban Kỹ thuật ISO TC 207 chịu trách niệm về nhãn hiệu liên
quan đến sinh thái - nhãn sinh thái - đã xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề
này.
Bên cạnh các tiêu chuẩn về nhãn sinh thái liên quan đến yêu cầu đối với sản phẩm,
cần đánh giá sự phù hợp môi trường của hệ thống quản lý sản xuất các sản phẩm.
Từ đó nảy sinh nhu cầu đánh giá hệ thống quản lý môi trường. Việc đánh giá hệ
thống quản lý môi trường không đáp ứng nhu cầu trực tiếp của người tiêu dùng.
Tuy nhiên quản lý môi trường gắn với việc sản xuất ra những sản phẩm phải thỏa
mãn các yêu cầu về sinh thái, và bản thân quá trình sản xuất cũng không được gây
ô nhiễm môi trường, nên việc đánh giá hệ thống quản lý môi trường đáp ứng một
cách gián tiếp sự mong đợi của những người tiêu dùng có quan tâm đến việc giảm
ô nhiễm trên hành tinh.
Trong những năm gần đây, mối quan tâm đến chất lượng dịch vụ ngày càng tăng.
Bởi vậy cần có hoạt động chứng nhận các hoạt động dịch vụ. Chẳng hạn tại Pháp,
dịch vụ dọn nhà đã được AFNOR chứng nhận. Việc đánh giá sự phù hợp của dịch
vụ bao gồm một mặt là khả năng cung cấp dịch vụ đã qui định, mặt khác là sự hài
lòng của khách hàng/người tiêu dùng là người mua dịch vụ. Trong quá trình đánh
giá dịch vụ, bản thân người tiêu dùng phải tham gia quá trình giám sát việc duy trì
chất lượng của dịch vụ.
Một lĩnh vực khác cũng đang phát triển mạnh mẽ liên quan đến đánh giá sự phù
hợp của các sản phẩm về lương thực thực phẩm về các khía cạnh vệ sinh, sức
khỏe. Ngành công nghiệp lương thực thực phẩm mong muốn có sự xác nhận giá
trị các sản phẩm của họ nhờ các chương trình chứng nhận sự phù hợp.
Hệ thống chứng nhận sản phẩm được xây dựng và đưa vào hoạt động với nhiều
mục đích: cải tiến chất lượng, đơn giản hóa hoạt động thương mại, thúc đẩy việc
áp dụng tiêu chuẩn, trong nhiều quốc gia, hoạt động chứng nhận đã góp phần
quan trọng cho sự phát triển công nghiệp thúc đẩy thương mại và nâng cao mức
sống.
1.2. Các hệ thống Chứng nhận sản phẩm
Hệ thống chứng nhận sản phẩm được hiểu là một tập hợp các thủ tục được sử dụng
để xác định sự phù hợp của sản phẩm đối với tiêu chuẩn được áp dụng.
Một hệ thống chứng nhận tốt phải một mặt đáp ứng được các yêu cầu của quản lý
nhà nước, mặt khác phải đem lại lợi ích cho người được chứng nhận và người sử
dụng kết quả chứng nhận. Theo quan điểm này, có thể có hai hình thức chứng
nhận: bắt buộc và tự nguyện, chứng nhận bắt buộc được áp dụng cho những qui
định về an toàn, sức khỏe, môi trường.
Một trong những yêu cầu của hoạt động chứng nhận là phải làm cho người sử
dụng an tâm đối với chất lượng sản phẩm được chứng nhận trong suốt thời hạn
chứng nhận. Để yêu cầu này được thực hiện, việc chứng nhận phải đảm bảo chất
lượng sản phẩm được ổn định trong thời hạn chứng nhận có hiệu lực. Để đảm bảo
điều này, cơ quan chứng nhận, ngoài việc kiểm tra bản thân sản phẩm xin chứng
nhận (thông qua thử sản phẩm), cần phải xem xét điều kiện đảm bảo chất lượng, là
yếu tố giúp cho chất lượng sản phẩm được ổn định, và giám sát sau khi chứng
nhận. Tùy theo thể thức chứng nhận nói trên người ta chia thành 8 hệ thống chứng
nhận, thể hiện trong bảng.
Hệ thống chứng nhận sản phẩm Việt Nam do Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất
lượng điều hành về cơ bản là theo hệ thống 5, trong đó điều kiện đảm bảo chất
lượng được đánh giá theo một số yếu tố của tiêu chuẩn ISO 9001, có sự thay đổi
linh hoạt tùy theo yêu cầu chất lượng đối với từng loại sản phẩm cụ thể.
Trong nhiều quốc gia, việc chứng nhận bắt buộc được thay thế bằng các hệ thống
có chức năng tương tự nhưng không phải là thuộc hoạt động chứng nhận. Ví dụ,
hệ thống ghi dấu "CE" trên các sản phẩm đòi hỏi phải thỏa mãn các yêu cầu về an
toàn Hội đồng Liên minh Châu âu (EU).
Phương pháp đánh giá
1 2 3 4 5 6 7 8
Thử điển hình + + + + +
Kiểm tra lô +
Kiểm tra 100% +
Đánh giá điều kiện đảm bảo chất lượng + +
Giám sát sau chứng nhận
Kiểm tra mẫu tại cơ sở sản xuất + + +
Kiểm tra mẫu trên thị trường + + +
Với ý định nhất thể hoá thị trường Châu Âu, năm 1985 Uỷ ban Châu Âu đã chấp
nhận cách tiếp nhận mới đối với tiêu chuẩn sản phẩm. Khối EC đã ban hành các
chỉ thị (Directive) trong đó nêu những yêu cầu cốt yếu đối với sản phẩm trước khi
đượcc lưưu hành trên thị trường. Các tiêu chuẩn quốc gia và Châu Âu có liên quan
phải hài hoà dựa trên các yêu cầu cốt yếu này. Theo cách tiếp cận này, yêu cầu đối
với sản phẩm chia thành 2 loại: bắt buộc (phải thoả mãn chỉ thị và các chế định
quốc gia), và tự nguyện (thoả mãn các tiêu chuẩn). Từ đó cũng hình thành hai thị
trường, có chế định (regulated market) và không có chế định (unregulated market).
Thị trường có chế định được kiểm soát bởi các chính phủ và chỉ thị của EC. Mỗi
chỉ thị của EC liên quan đến sản phẩm đề ra những yêu cầu cho việc đánh giá sự
phù hợp và sản phẩm thoả mãn những yêu cầu này được gắn dấu CE. Dấu CE
khẳng định đã đáp ứng các yêu cầu luật pháp.
Các sản phẩm chịu sự điều chỉnh của cơ chế dấu CE được chia thành 8 loại
(môđun), ký hiệu bằng A, B, H. Quá trình đóng dấu CE thay đổi tuỳ theo từng
môđun, từ rất đơn giản, chỉ cần sự công bố của người sản xuất quá phép thử điển
hình, đều phải thực hiện hệ thống đảm bảo chất lượng đầy đủ. Quá trình gắn dấu
CE và yêu cầu tương ứng cho từng môđun được minh hoạ như sau:
Đánh giá sự phù hợp khu vực chế định của EU
Mô đun A . Công bố sự phù hợp với các yêu cầu
Người sản xuất
• Công bố sự phù hợp về thiết kế và sản xuất
• Duy trì các tài liệu, chứng cứ và gắn dấu CE lên sản phẩm
Cơ quan được chỉ định hay bên thứ ba được thừa nhận
• Thử các yêu cầu cốt yếu trên mẫu sản phẩm
• Cấp chứng chỉ
Mô đun B. Thử điển hình
Người sản xuất
• Gửi sản phẩm mẫu và tài liệu
Cơ quan được chỉ định hay bên thứ ba được thừa nhận
• Thử và cấp chứng chỉ
Mô đun C. Mô đun B cộng với sự phù hợp với kiểu loại trong sản xuất
Người sản xuất
• Công bố sự phù hợp về kiểu loại
• Trình tài liệu và gắn dấu CE lên sản phẩm
Cơ quan được chỉ định hay bên thứ ba được thừa nhận
• Thử nghiệm và kiểm tra ngẫu nhiên
Mô đun D. Mô đun B cộng đảm bảo chất lượng trong sản xuất
Người sản xuất
• Công bố sự phù hợp về kiểu loại
• Trình tài liệu và gắn dấu CE lên sản phẩm
Có hệ thống chất lượng được đăng ký theo ISO 9002
• Cơ quan được chỉ định hay bên thứ ba được thừa nhận
• Đánh giá, chứng nhận, giám sát
Mô đun E. Mô đun B cộng hệ thống kiểm tra/thử nghiệm
Người sản xuất
• Công bố sự phù hợp về kiểu loại
• Trình tài liệu và gắn dấu CE lên sản phẩm
• Có hệ thống chất lượng được đăng ký theo ISO 9003
Cơ quan được chỉ định hay bên thứ ba được thừa nhận
• Đánh giá, chứng nhận, giám sát
Mô đun F. Mô đun B cộng xác nhận sản phẩm
Người sản xuất
• Công bố sự phù hợp về kiểu loại
• Trình tài liệu và gắn dấu CE lên sản phẩm
• Có hệ thống chất lượng được đăng ký theo ISO 9003
Cơ quan được chỉ định hay bên thứ ba được thừa nhận
• Xác nhận sự phù hợp và cấp chứng chỉ
Mô đun G. Sự phù hợp của thiết kế và sản xuất cho một sản phẩm
Người sản xuất
• Công bố sự phù hợp với các yêu cầu cốt yếu
• Trình tài liệu, sản phẩm và gắn dấu CE lên sản phẩm
• Có hệ thống chất lượng được đăng ký theo ISO 9003
Cơ quan được chỉ định hay bên thứ ba được thừa nhận
• Xác nhận sự phù hợp và cấp chứng chỉ
Mô đun H. Đảm bảo chất lượng đầy đủ
Người sản xuất
• Công bố sự phù hợp với các yêu cầu cốt yếu
• Trình tài liệu và gắn dấu CE lên sản phẩm
• Có hệ thống chất lượng được đăng ký theo ISO 9001
Cơ quan được chỉ định hay bên thứ ba được thừa nhận
• Xác nhận sự phù hợp và cấp chứng chỉ
• Đánh giá, đăng ký, giám sát
2. Chứng nhận các hệ thống quản lý
Như đã trình bày ở phần trên các hệ thống quản lý chất lượng theo mô hình ISO
9000, QS 9000, Q-base, cũng là một đối tượng chứng nhận. Nhu cầu của người
tiêu dùng không phải là nguồn gốc duy nhất để sinh ra các lĩnh vực mới trong
đánh giá sự phù hợp. Chính quá trình giao lưu trong công nghiệp, kinh doanh đã
nảy sinh nhu cầu cần có sự đảm bảo tính ổn định của chất lượng hàng hoá, đồng
thời giảm chi phí kiểm tra trong giao nhận và lưu kho. Điều này đã khiến các công
ty, đặc biệt là các công ty lớn có nhu cầu đánh giá và chứng nhận sự phù hợp của
hệ thống chất lượng của các nhà thầu phụ hay người cung cấp sản phẩm cho họ.
Ngay cả đối với người tiêu dùng, trong đó việc đánh giá hệ thống chất lượng
không đáp ứng nhu cầu trực tiếp đối với chất lượng sản phẩm, cũng có sự quan
tâm đến điều này.
Ngoài các hệ thống đảm bảo chất lượng các hệ thống nhằm đảm bảo tính vệ sinh,
an toàn trong lĩnh vực lương thực, thực phẩm cũng lần lượt ra đời như hệ thống
Qui tắc Sản xuất Tốt (GNIP), Xác định các điểm Kiểm soát Trọng Yếu bằng Phân
tích Mối nguy (HACCP). Từ đó cũng đặt ra nhu cầu xác nhận các hệ thống này
theo một hình thức nào đó.
Việc chứng nhận hệ thống quản lý như một hình thức đảm bảo rằng công ty sẽ
cung cấp sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng các yêu cầu người mua. Khách hàng cũng
muốn người cung cấp có một sự đảm bảo rằng chất lượng đã được kiểm tra xác
nhận sẽ phù hợp với một tiêu chuẩn được thừa nhận rộng rãi. Các công ty lớn cũng
có yêu cầu tương tự. Các công ty này, có thể tự mình tiến hành đánh giá người
cung cấp. Tuy nhiên điều này sẽ khiến người cung cấp phải chi phí rất nhiều nếu
như họ phải cung cấp sản phẩm cho nhiều công ty khách hàng khác nhau. Hoạt
động chứng nhận của bên thứ ba cũng sẽ đáp ứng nhu cầu của bên cung cấp và
khách hàng với chi phí ít nhất. Ngoài ra việc đánh giá được tiến hành bởi một tổ
chức chứng nhận có chuyên môn nghiệp vụ và uy tín sẽ đem lại hiệu quả đáng tin
cậy và được chấp nhận ở mức độ cao hơn.
Trong những năm gần đây, vấn đề môi trường ngày càng được người tiêu dùng,
các tổ chức quốc gia và quốc tế quan tâm. Một sản phẩm nếu gây ảnh hưởng đến
môi trường rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Bộ tiêu chuẩn ISO
14000 ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu này. Cho đến nay rất nhiều quốc gia trên thế
giới đã triển khai mạnh mẽ hoạt động chứng nhận hệ thống quản lý môi trường
theo tiêu chuẩn ISO 14000. Hoạt động này được tiến hành song song với việc
chứng nhận liên quan đến tác động trực tiếp của sản phẩm lên môi trường như đã
trình bày trong phần chứng nhận sản phẩm.
3. Chứng nhận chuyên viên trong lĩnh vực đặc biệt
Trong mọi hoạt động, bao gồm cả hoạt động đánh giá sự phù hợp, trình độ người
tác nghiệp đóng vai trò quyết định. Cán bộ quản lý muốn biết các nhân viên đang
tiến hành một công việc xác định có đủ năng lực cần thiết hay không. Từ tình hình
trên nảy sinh nhu cầu chứng nhận người tác nghiệp một số quá trình đặc biệt ví dụ
như các chuyên gia đánh giá trong các hoạt động chứng nhận, kỹ thuật viên trong
những ngành đặc biệt (hàn , thử siêu âm, ).
Riêng trong lĩnh vực chuyên gia đánh giá hệ thống quản lý, các tổ chức chứng
nhận đăng ký như IATCA (International Auditor Training and Certification
Association) hay IRCA (lnternational Register of Certificated Auditors) đã đưa
những chuẩn mực cụ thể. Các tổ chức chứng nhận trong lĩnh vực này cũng đòi hỏi
phải thoã mãn các yêu cầu riêng, ví dụ như tiêu chuẩn Châu âu EN 45013
IV. Giám định
Giám định/kiểm tra là quá trình xem xét, đo lường, thử nghiệm các đặc trưng nào
đó và so sánh với các chuẩn mực qui định, đồng thời tiến hành các dịch vụ khác
liên quan đến sản phẩm. Các dịch vụ liên quan này bao gồm không chỉ việc lựa
chọn và đánh giá sản phẩm, cấp các chứng chỉ phù hợp theo các chuẩn mực xác
định mà còn có thể bao gồm việc đánh giá năng lực của người sản xuất, hoạt động
của hệ thống chất lượng và khuyến nghị về việc chấp nhận hệ thống chất lượng
của bên cung cấp. Ngoài ra, người cung cấp có thể thuê các giám định viên hoạt
động tại công ty của mình để xác định sự phù hợp, hỗ trợ cho việc tự công bố sự
phù hợp.
Hoạt động giám định có thể tiến hành như một chức năng riêng biệt bởi một tổ
chức giám định, hoặc có thể xem như một phần của hệ thống chứng nhận và do tổ
chức chứng nhận tiến hành. Nói chung việc kiểm tra đơn thuần không phải là
phương pháp hoàn toàn thoả đáng để xác định sự phù hợp của sản phẩm đối với
tiêu chuẩn hay chế định kỹ thuật. Tuy nhiên việc kiểm tra hoàn toàn thích hợp khi
một cơ quan nhà nước tiến hành kiểm tra định kỳ hay đối với từng chuyến hàng cụ
thể.
Nói chung, nội dung giám định bao gồm:
- Giám định chất lượng: Xem xét, kiểm tra chất lượng hàng hoá, thiết bị, các chỉ
tiêu kỹ thuật, bảo quản, thời hạn sử dụng, mức độ mới, cũ và các vấn đề khác có
liên quan.
- Giám định số lượng: Kiểm tra số lượng, chủng loại, sự đồng bộ, mọi sự vi phạm
do cố tình hay vô ý của bên bán, bên mua nhằm trông tránh sự kiểm soát, trốn
thuế,
- Giám định về giá cả: xem xét, kiểm tra về giá cả, tránh việc cố tình nâng hay
giảm giá, giúp các tổ chức có thẩm quyền xác định đúng để có những biện pháp xử
lý cần thiết.
Do hoạt động giám định bao trùm một phạm vi rộng lớn, đa dạng nên khó có thể
mô tả đủ chính xác các hoạt động để đem lại một phương pháp tiến hành thống
nhất. Mặc dù vậy, các hoạt động này cũng có những yêu cầu chung. Các tổ chức
quốc tế như ISO đ• ban hành hướng dẫn ISO/IEC Guide 39, bao gồm các yêu cầu
đối với nhân viên, hệ thống chất lượng, lấy mẫu, duy trì hồ sơ, tính bảo mật và an
toàn. Văn bản này được sử dụng để đánh giá và chấp nhận tổ chức giám định.
V. Thử nghiệm, hiệu chuẩn
Thử nghiệm, hiệu chuẩn cũng là một hoạt động đánh giá sự phù hợp. Hoạt động
này cung cấp các bằng chứng về sự phù hợp của sản phẩm so với các yêu cầu qui
định, phục vụ cho hoạt động chứng nhận, kiểm tra/giám định. Mức độ chặt chẽ và
tổng quát của các yêu cầu đối với một phòng thử nghiệm hay hiệu chuẩn (có thể
gọi chung là tổ chức thí nghiệm) tuỳ thuộc vào mục đích của việc thí nghiệm, khối
lượng phép thử được tiến hành, cũng như trách nhiệm pháp lý về tính đúng đắn
của kết quả thử.
Trong các xí nghiệp công nghiệp hay dịch vụ có thể cần các phòng thí nghiệm
phục vụ cho các nhu cầu nội bộ, cung cấp các bằng chứng về chất lượng sản phẩm
hay dịch vụ phục vụ cho nhu cầu tự công bố hay cho các mục đích khác như
chứng nhận. Yêu cầu chung đối với các phòng thí nghiệm này là phải cung cấp các
kết quả đảm bảo tính đúng đắn, chuẩn xác phù hợp với yêu cầu phép đo. Muốn
vậy, các phòng thí nghiệm này phải thoả mãn các yêu cầu nhất định dù cho là
phòng thí nghiệm của xí nghiệp hay được thầu phụ. Nếu việc thí nghiệm lại dùng
cho mục đích như tự công bố hay cung cấp dữ liệu cho việc chứng nhận, thì phòng
thí nghiệm này phải thoả mãn các yêu cầu nhất định tuỳ theo qui định của từng hệ
thống.
Các tổ chức chứng nhận sản phẩm cũng thường sử dụng các phòng thí nghiệm độc
lập bên ngoài. Khi đó tổ chức chứng nhận phải có sự tin tưởng vào chất lượng của
phòng thí nghiệm đó. Tuỳ theo bản chất của việc chứng nhận, vào tính nghiêm
trọng của sản phẩm cần chứng nhận, mà tổ chức chứng nhận có những mức độ yêu
cầu khác nhau đối với phòng thí nghiệm được sử dụng. Tuy nhiên, dù ở mức độ
nào, cũng tưng tự như các tổ chức chứng nhận và giám định, các tổ chức thử
nghiệm và hiệu chuẩn cũng phải thỏa m•n các yêu cầu nhất định, ví dụ như các qui
định trong ISO/IEC 17025
VI. Công nhận các tổ chức đáng giá sự phù hợp
Như các phần trên đ• trình bày, để có sự hòa nhập trong các hệ thống đánh giá sự
phù hợp cần có sự thống nhất về các chuẩn mực đối với các tổ chức đánh giá và
thủ tục đánh giá. Ngoài ra, một yêu cầu khác cũng rất quan trọng đối với các tổ
chức cung ứng sản phẩm và dịch vụ cũng như đối với khách hàng là làm thế nào
để tránh đánh giá nhiều lần, điều này sẽ làm tăng chi phí sản xuất sản phẩm, các
chi phí tăng thêm này cuối cùng sẽ đổ lên đầu người tiêu dùng mà không đem lại
cho họ lợi ích gì theo nghĩa làm tăng thêm khả năng bảo vệ cho họ.
Có một số biện pháp để thực hiện yêu cầu này. Cách làm thông thường là các tổ
chức chứng nhận tiến hành các thỏa thuận song phương hoặc đa phương. Theo các
thỏa thuận này thì chứng chỉ được một tổ chức chứng nhận cấp, sẽ được sự chấp
nhận của các tổ chức tham gia ký thỏa thuận.
Biện pháp trên chưa thể đáp ứng triệt để phương châm đ• nêu nên phạm vi tác
dụng còn rất hạn chế. Nếu muốn được chấp nhận ở nhiều quốc gia hay khu vực, tổ
chức chứng nhận phải ký nhiều thỏa thuận song phương hoặc đa phương, gây tốn
kém không ít thời gian và chi phí.
Một cách khác có hiệu quả hơn là tại mỗi quốc gia thành lập cơ quan công nhận
quốc gia để công nhận các tổ chức đánh giá sự phù hợp. Tổ chức đánh giá nào
được tổ chức công nhận quốc gia công nhận thì chứng chỉ chứng nhận sẽ được
thừa nhận tại quốc gia đó. Tuy nhiên giải pháp này muốn phát huy hiệu quả, nghĩa
là muốn dấu chứng nhận vượt được biên giới quốc gia thì giữa các tổ chức công
nhận quốc gia phải ký các thỏa thuận song phương và đa phương. Phương thức
này đ• giảm chi phí và thời gian khá nhiều việc thừa nhận các kết quả đánh giá sự
phù hợp. Tuy nhiên vẫn chưa triệt để. Người ta dự định hình thành các tổ chức
công nhận quốc tế. Nếu như tổ chức này đi vào hoạt động thì các tổ chức đánh giá
sự phù hợp chỉ cần được một thành viên của tổ chức nói trên công nhận thì các
chứng chỉ phát ra sẽ có giá trị khắp nơi.
Chương II
Kểm tra, chứng nhận đều kiện đảm bảo an toàn chịu lực à chứng nhận sự
phù hợp về chất lượng công trình xây dựng
I. Khái niệm chung
1. Kiểm tra, chứng nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn chịu lực và chứng
nhận sự phù hợp về chất lượng công trình xây dựng
Sản phẩm đầu tư xây dựng là các công trình xây dựng đ• hoàn chỉnh ( bao gồm cả
việc lắp đặt thiết bị công nghệ ở bên trong ). Sản phẩm đầu tư xây dựng là kết tinh
của các thành quả khoa học – công nghệ và tổ chức sản xuất của toàn x• hội ở một
thời kỳ nhất định. Nó là sản phẩm có tính liên ngành, trong đó những lực lượng
tham gia chế tạo sản phẩm chủ yếu : chủ đầu tư; nhà thầu khảo sát xây dựng, nhà
thầu thiết kế xây dựng công trình, nhà thầu thi công xây dựng ; các nhà sản xuất
các yếu tố đầu vào cho dự án như thiết bị công nghệ, vật tư, thiết bị xây dựng ;
các nhà cung ứng ; các tổ chức dịch vụ ngân hàng và tài chính ; các cơ quan quản
lý nhà nước có liên quan. Nói cách khác thì công trình xây dựng chính là sản phẩm
được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt
vào công trình, được liên kết định vị với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất,
phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt nước, được xây dựng theo
thiết kế. Công trình xây dựng bao gồm công trình xây dựng công cộng, nhà ở,
công trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi, năng lượng và các công trình khác.
Để khẳng định một công trình xây dựng thỏa m•n các yêu cầu thiết kế, yêu cầu của
các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật thì cần tiến hành xem xét các khía cạnh có liên
quan của công trình xây dựng đó một cách hệ thống. Tùy theo mức độ và yêu cầu
đánh giá mà quyết định kiểm tra, xác nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn chịu lực
hoặc kiểm tra, chứng nhận sự phù hợp về chất lượng
1.1. Chứng nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn chịu lực
Chứng nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn chịu lực là kiểm tra, xác nhận công tác
khảo sát, thiết kế và thi công xây dựng tuân thủ các quy định của pháp luật về
quản lý chất lượng đáp ứng các yêu cầu đảm bảo an toàn chịu lực của công trình
hoặc hạng mục công trình trước khi đưa vào sử dụng.
1.2. Chứng nhận sự phù hợp về chất lượng công trình xây dựng
Chứng nhận sự phù hợp về chất lượng công trình xây dựng là việc đánh giá, xác
nhận công trình hoặc hạng mục, bộ phận công trình xây dựng được thiết kế, thi
công xây dựng phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và các yêu cầu kỹ thuật
áp dụng cho công trình.
Hoạt động này gọi là kiểm tra và chứng nhận sự phù hợp về chất lượng công trình
xây dựng mà theo cách nói đối với các loại sản phẩm nêu ở phần trên thì đó là ô
đánh giá sự phù hợp ằ.
1.3. Xử lý chuyển tiếp
Các công trình đ• và đang thực hiện việc chứng nhận sự phù hợp về chất lượng
công trình xây dựng theo quy định của Thông tư 11/2005/TT-BXD ngày
14/7/2005 của Bộ Xây dựng “Hướng dẫn kiểm tra và chứng nhận sự phù hợp về
chất lượng công trình xây dựng” (viết tắt là Thông tư 11/2005/TT-BXD) trước
ngày Thông tư 16/2008/TT-BXD có hiệu lực vẫn tiếp tục được thực hiện theo quy
định của Thông tư 11/2005/TT-BXD.
2. Tổ chức chứng nhận chất lượng công trình xây dựng
Trong quá trình thi công xây dựng, nhà thầu thi công xây dựng luôn luôn phải tự
khẳng định về chất lượng vật liệu, thiết bị do mình cung cấp cũng như chất lượng
các công tác xây dựng, chất lượng các hạng mục công trình và chất lượng toàn bộ
công trình xây dựng do mình thực hiện. Nhà thầu thi công xây dựng tự đánh giá
sản phẩm xây dựng của mình bằng chính biên bản nghiệm thu nội bộ. Đây chính
là sự Đánh giá của bên thứ nhất .
Chủ đầu tư, người sử dụng tiến hành đánh giá, kết quả của hoạt động xây dựng
chính là đánh giá công trình xây dựng. Đây chính là dự Đánh giá của bên thứ hai.
Tuy nhiên để bảo đảm sự khách quan về chất lượng công trình xây dựng thì cần
phải có sự Đánh giá của bên thứ ba. Theo hình thức này, một tổ chức trung gian
(bên thứ ba) tiến hành đánh giá. Tùy theo cách thức và nội dung đánh giá, hoạt
động này có các loại hình khác nhau như thử nghiệm, giám định (kiểm tra), chứng
nhận, công nhận. Kết quả của các quá trình này là các chứng chỉ cho đối tượng
được đánh giá.
Như vậy, tổ chức kiểm tra, chứng nhận chính là tổ chức trung gian thực hiện việc
chứng nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn chịu lực hoặc chứng nhận sự phù hợp về
chất lượng công trình xây dựng. Tổ chức này là tổ chức tư vấn có chức năng hành
nghề một trong các lĩnh vực thiết kế xây dựng, giám sát thi công xây dựng, kiểm
định chất lượng công trình xây dựng hoặc chứng nhận sự phù hợp về chất lượng
công trình xây dựng phù hợp với loại công trình được chứng nhận chính.
II. Mục đích và hình thức chứng nhận sự phù hợp về chất lượng công trình