Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

tiểu luận đặc thù của tranh chấp môi trường.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.23 KB, 10 trang )

MỤC LỤC.
ĐẶT VẤN ĐỀ 2
TÌM HIỂU VẤN ĐỀ 2
1, Về chủ thể của tranh chấp môi trường 2
2, Về đối tượng của tranh chấp môi trường 4
3, Thời điểm nảy sinh tranh chấp môi trường 6
4, Về giá trị thiệt hại trong tranh chấp môi trường 7
KẾT THÚC VẤN ĐỀ 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 10
1
ĐẶT VẤN ĐỀ.
Bản chất pháp lý của tranh chấp môi trường thể hiện qua bản chất của các
quan hệ xã hội mà từ đó làm phát sinh mâu thuẫn giữa các chủ thể tham gia
quan hệ pháp Luật môi trường. Tranh chấp môi trường có thể quy về dạng tranh
chấp hành chính hoặc tranh chấp dân sự nhưng chúng có những đặc thù riêng so
với những loại tranh chấp khác. Việc nhận thức rõ những đặc thù này không chỉ
giúp chúng ta nhận dạng đúng tranh chấp môi trường mà còn tìm ra cách thức
phù hợp để giải quyết tranh chấp môi trường một cách có hiệu quả.
Giống như các tranh chấp khác, tranh chấp môi trường cũng phát sinh từ
hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, gây ảnh hưởng tới trật tự pháp luật, đều có các chủ thể cụ thể, đều phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có. Dưới đây là một số đặc thù của
tranh chấp môi trường.
TÌM HIỂU VẤN ĐỀ.
1, Về chủ thể của tranh chấp môi trường.
Chủ thể của tranh chấp môi trường là các bên tham gia tranh chấp. Khi họ
cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp về mặt môi trường của mình bị xâm hại.
Đặc thù về mặt chủ thể của tranh chấp môi trường chính là phạm vi chủ thể và
tính khó xác định một cách nhanh chóng, cụ thể, chính xác các bên tham gia
tranh chấp.
Tranh chấp môi trường thường xảy ra với quy mô lớn, liên quan đến nhiều


tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư và các quốc gia. Tranh chấp quốc tế về môi
trường có thể xảy ra giữa hai hay nhiều quốc gia, chủ yếu là tranh chấp khu vực
giữa các quốc gia láng giềng trong việc khai thác, sử dụng các thành phần môi
trường quốc tế như nguồn nước chung, động vật hoang dã, quý hiếm hoặc tranh
2
chấp về hậu quả gây nên bởi sự cố ô nhiễm môi trường diễn ra ở diện rộng tại
một quốc gia. Nhưng ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Có thể chứng minh
vấn đề này bằng một sự kiện thực tế sau:
Tranh chấp nguồn nước quốc tế: theo thống kê, hiện nay trên thế giới có
200 con sông chính, quá 70% trong số đó do hai hay nhiều quốc gia cùng sử
dụng. Do đó, việc tranh giành tài nguyên nước, nguồn tài nguyên vô cùng quan
trọng đối với đời sống con người là không thể tránh khỏi và cũng là nguyên
nhân tiềm tàng dẫn đến những cuộc xung đột quốc tế. Năm 1989 Thổ Nhĩ Kỳ
tuyên bố cắt đứt dòng chảy của sông Infaradi chảy sang Irăc và Sulia. Pháp
tranh chấp với Tây Ban Nha về tài nguyên nước của hồ Diranô. Ai cập, Xu
Đăng, và Êtiopia cũng tranh chấp với nhau về nguồn nước sông Nin trong một
thời gian dài. Tranh chấp về sự cố môi trường gây ô nhiễm: trước hết phải kể
đến vụ rò rỉ chất phóng xạ tại nhà máy điện nguyên tử Checnôbưn của Liên Xô
cũ (năm 1986) làm bụi phóng xạ bay trùm lên hơn nửa Châu Âu. Thụy Điển đòi
Liên Xô phải bồi thường do nông sản của nước này bị ô nhiễm gây thiệt hại nên
tới mấy trăm triệu Cua-ron. Hà Lan, Na Uy, Anh, Áo cũng đưa ra yêu cầu
tương tự.
Tranh chấp môi trường thường liên quan tới rất nhiều chủ thể bởi nó có thể
diễn ra ở tầm hẹp trên phạm vi một địa bàn cụ thể hoặc trên phạm vi khu vực,
vùng hay cả nước. Chính vì vậy các chủ thể thường không được xác định một
cách cụ thể, chính xác vào thời điểm nảy sinh tranh chấp. Có nhiều trường hợp
khác nhau, trong một số trường hợp có thể xác định do bên bị hại nhưng không
thể xác định được bên cụ thể gây hại. VD: nhiều cơ sở sản xuất cùng thải chất
thải chất thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép vào một con sông làm ô nhiễm
nguồn nước gây thiệt hại cho những người nuôi trồng thủy sản ở con sông đó.

3
Trong nhiều trường hợp khác, người ta xác định được bên gây hại nhưng
không thể xác định được cụ thể bên bị hại. VD: một tổ chức cá nhân nào đó gây
ra sự cố chàn dầu, thử vũ khí hạt nhân dẫn đến ô nhiễm chất phóng xạ…tác
động xấu đến người và tài sản của một số rất đông dân cư sinh sống ở khu vực
xung quanh. Phức tạp hơn cả là trường hợp bên vi phạm có nhiều người đồng
thời gây thiệt hại cho nhiều người khác và không thể xác định cụ thể, chính xác
cả hai bên vào thời điểm nảy sinh tranh chấp. VD: tranh chấp giữa nhiều nhà
máy và lò gạch trong một vùng với cộng đồng dân cư ở vùng đó do khói bụi
của các cơ sở sản xuất này thải ra làm ô nhiễm môi trường không khí.
Sở dĩ nói đây là điểm đặc thù của tranh chấp môi trường bởi vì các dạng
tranh chấp khác như tranh chấp kinh tế, tranh chấp đất đai… chủ yếu phát sinh
từ hợp đồng. Vì thế căn cứ vào hợp đồng ta có thể dễ dàng xác định các bên
tranh chấp. Đặc thù này cũng đặt ra một thách thức đối với việc giải quyết tranh
chấp môi trường, bởi vì muốn các tranh chấp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
được giải quyết triệt để, đảm bảo quyền lợi các bên thì cần xác định đúng các
chủ thể. Hơn nữa nó còn liên quan đến việc xác định tư cách pháp lý để thực
hiện quyền khiếu nại, khiếu kiện.
2, Về đối tượng của tranh chấp môi trường.
Tranh chấp trong các lĩnh vực khác nhau có những đối tượng hoàn toàn
khác nhau nên đây là dấu hiệu cho phép ta phân biệt các loại tranh chấp. Đối
tượng của tranh chấp môi trường là các quyền và lợi ích hợp pháp về mặt môi
trường của các chủ thể bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại như: quyền được
sống trong môi trường trong lành, quyền được khai thác, sử dụng thành phần
môi trường vào mọi mục đích theo quy định của pháp luật, quyền được bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, tài sản khi có hành vi làm ô nhiễm, suy thoái, gây sự cố
4
môi trường, quyền được tác động đến môi trường trong thời gian pháp luật cho
phép.
Không chỉ là quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể mà tranh chấp môi

trường là xung đột trong đó lợi ích tư và lợi ích công thường gắn chặt với nhau.
Điều này bắt nguồn từ chỗ lợi ích mà các bên tham gia quan hệ pháp luật môi
trường hướng tới mang tính đa chiều. Khác với các quan hệ pháp luật dân sự,
thương mại, lao động, đất đai, hôn nhân gia đình- lợi ích mà các bên đương sự
hướng tới thường có tính chất đơn nhất. Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường các
bên tham gia quan hệ, dù tham gia vì lợi ích tư thì vẫn hướng tới lợi ích chung
của cộng đồng của xã hội. Lợi ích của cộng đồng của xã hội mà mỗi người quan
tâm là chất lượng môi trường sống chung của con người, gồm: chất lượng
không khí, chất lượng đất, nước, âm thanh, hệ sinh vật… Khi lợi ích này bị xâm
hại thì yêu cầu trước tiên mà người thụ hưởng đưa ra là chất lượng môi trường
sống của họ phải được phục hồi, cải thiện. Bên cạnh đó, từng cá nhân trong
cộng đồng, ngoài mối quan tâm kể trên còn là những lợi ích gắn liền với tình
trạng sức khỏe, tài sản của họ bị ảnh hưởng bởi chất lượng môi trường sống
giảm sút. Họ yêu cầu được đền bù những tổn thất về người và tài sản mà họ
phải gánh chịu. Như vậy, đặc thù của tranh chấp môi trường là sự gắn kết hai
loại lợi ích công và tư.
Đối với các loại tranh chấp khác, tranh chấp kinh tế có đối tượng tranh chấp
là quyền và lợi ích hợp pháp về kinh tế như quyền tự do kinh doanh trong
khuôn khổ luật định… Đối tượng của tranh chấp lao động là quyền và lợi ích
hợp pháp trong lĩnh vực lao động… như: quyền tuyển chọn lao động, bố trí,
điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất kinh doanh, quyền được trả lương
không thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước quy định. Việc xác định đối
tượng của tranh chấp môi trường có vai trò rõ nét hơn khi phân biệt tranh chấp
5
môi trường với tranh chấp đất đai trong trường hợp cùng liên quan tới tài
nguyên đất, nhưng tranh chấp đất đai hướng tới việc bảo vệ quyền để chiếm
giữ, khai thác đất hợp pháp của chủ thể, còn tranh chấp môi trường hướng tới
việc bảo vệ đất với tư cách là một thành phần của môi trường, bảo về lợi ích của
cá nhân tổ chức sống trong môi trường đó.
Ngoài ra vị thế của các bên trong tranh chấp môi trường thường không cân

bằng. Phần lớn tranh chấp môi trường có một bên tham gia là chủ thể các dự án
phát triển hoặc các cơ quan quản lí, trong khi phía bên kia chỉ là những thường
dân với những yêu cầu, đòi hỏi về chất lượng môi trường sống chung của con
người. Điều này dễ nhận thấy là bên thứ nhất thường ít động cơ hơn trong việc
tìm giải pháp để điều hòa lợi ích xung đột. Sự bất tương xứng về vị thế giữa các
bên là một trong những trở ngại lớn của quá trình giải quyết tranh chấp. Trở
ngại này càng bộc lộ rõ hơn ở những quốc gia phải chịu nhiều áp lực từ mục
tiêu phát triển kinh tế, giảm đói nghèo, do mối quan tâm đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế thường được đẩy lên trước mối quan tâm đến chất lượng môi trường
sống. Trong những hoàn cảnh như vậy “ưu thế” của quá trình giải quyết xung
đột thường nghiêng về phía gây hại cho môi trường.
3, Thời điểm nảy sinh tranh chấp môi trường.
Tranh chấp môi trường có thể nảy sinh từ rất sớm, nó không chỉ xảy ra khi
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên mới đang ở trong tình trạng bị đe dọa
xâm hại. Khác với tranh chấp môi trường, tranh chấp trong các lĩnh vực khác
chỉ nảy sinh khi quyền lợi hợp pháp của đương sự bị xâm hại.
Tình trạng bị đe dọa xâm hai được hiểu là vào thời điểm nảy sinh tranh
chấp thiệt hại chưa xảy ra, nhưng có cơ sở để cho rằng thiệt hại chắc chắn sẽ
xảy ra nếu không được ngăn chặn kịp thời, tức là không chỉ dựa vào suy đoán
cảm tính mà còn phải dựa vào kết luận khoa học để xác định.
6
Khả năng xâm hại đến môi trường mà con người có thể dự báo thường liên
quan đến các dự án đầu tư, thậm chí ngay khi dự án chưa đi vào hoạt động.
Điều này lý giải cho việc nhiều mâu thẫn, xung đột trong lĩnh vực môi trường
đã nảy xinh ngay từ giai đoạn khi các dự án đầu tư chưa đươc triển khai hoặc
mơi đi vào hoạt động. Vào giai đoạn nay, mặc dù thiệt hại thực tế còn chưa xảy
ra nhưng các bên xung đột môi trường cho rằng nguy cơ nội tại sẽ xảy ra thiệt
hại đối với môi trường, nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
VD: nhân dân phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh yêu
cầu chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu công

nghiệp Cai Lân, tỉnh Quảng Ninh (là công ty xi măng và xây dựng Quảng Ninh)
không cho phép công ty khai thác đá (thuộc công ty than Việt Nam) thực hiện
hợp đồng kinh tế đã ký kết với công ty xây dựng các công trình giao thông. Vì
trong hợp đồng điều khoản là công ty khai thác đá được dùng thuốc nổ để phá
những vỉa đá ngầm trong vùng vịnh nhằm tạo độ sâu cần thiết cho việc xây
dựng cầu cảng. Nhân dân ở khu vực này cho rằng việc dùng thuốc nổ để phá
đá như vậy sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường nước cũng như hệ sinh
thái vùng cửa biển. Họ yêu cầu công ty khai thác đá phải tìm phương án khác
khả thi để không gây ảnh hưởng xấu về mặt môi trường. Qua ví dụ trên có thể
nhận thấy tranh chấp môi trường đã phát sinh trước khi hợp đồng được thực
hiện và dĩ nhiên thiệt hại chưa xảy ra. Thiệt hại môi trường nếu xảy ra thường
để lại hậu quả vô cùng to lớn, lâu dài, thậm chí không thể khắc phục được vì thế
nguyên tắc phòng ngừa và ngăn chặn luôn được đề cao trong pháp Luật môi
trường.
4, Về giá trị thiệt hại trong tranh chấp môi trường.
Giá trị thiệt hại trong tranh chấp môi trường thông thường rất lớn, các lợi
ích bị xâm hại thường rất khó xác định. Chúng có thể là tài sản, tính mạng, sức
7
khỏe của con người có thể là các giá trị mang tính nhân văn như: cảnh quan
thiên nhiên bị phá vỡ, di tích lịch sử bị hủy hoại do bị nhiễm bẩn, ô uế… hoặc
các yếu tố khác của môi trường như rừng tự nhiên bị tàn phá, nguồn nước cạn
kiệt, đa dạng sinh học suy giảm… Các lợi ích này thường đồng thời cùng bị
xâm hại trên diện rộng, kéo theo giá trị thiệt hại lớn, muốn phục hồi lại không
phải chuyện đơn giản. VD: Sự cố cháy rừng không chỉ tàn phá cánh rừng tự
nhiên, làm suy thoái đa dạng sinh học mà sức nóng, khói bụi còn làm ảnh
hưởng tới sức khỏe con người, gây thiệt hại cho mùa màng. Sự cố nhà máy điện
Checnôbưn là một minh họa thực tế, rõ nét có 56 người chết, hàng trăm người
bị thương, tổn thất về kinh tế là 15 tỷ đôla, 135 nghìn dân phải rời bỏ nhà cửa,
quê hương đến cư trú ở vùng khác. Tính dến cuối thế kỷ 20 đã có hơn 9 vạn
người chết vì các bệnh phóng xạ do sự cố này. Các chuyên gia dự tính nếu

muốn làm sạch môi trường sau sự cố Checnôbưn thì phải mất hàng trăm năm
và tốn kém khoảng vài chục tỷ đô la.
Dấu hiệu nay xuất phát từ đặc tính của môi trường là một thể thống nhất
bao gồm nhiều thành phần có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại với nhau. Nếu
một thành phần môi trường bị tổn hại có thể gây tổn hại trực tiếp cho một hoặc
một số thành phần môi trường khác. Nguy hiểm hơn, chúng có thể gây hại hoặc
tiềm ẩn nguy cơ gây hại cho tính mạng, sức khỏe của con người. Các thiệt hại
này thường đan xen với nhau nên rất khó xác định.
Như vậy, lợi ích bị xâm hại trong tranh chấp môi trường rất đa dạng. Quan
điểm của nhiều nước về lợi ích bị xâm hại có phạm vi rộng hơn, ngoài những
lợi ích trên còn đề cập những lợi ích khác. Cụ thể: lợi ích về kinh tế, nói cách
khác là lợi ích trong kinh doanh của chủ thể kinh tế. VD: tính lịch sử bị hủy
hoại làm giảm lượng du lịch, ảnh hưởng đến doanh thu của các nhà hàng,
8
khách sạn, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch trong vùng, lợi ích văn hóa cũng
được tính đến…
Tính đa dạng của lợi ích bị xâm hại khiến cho tranh chấp môi trường không
chỉ gắn với lợi ích riêng biệt của các chủ thể mà còn gắn liền với lợi ích chung
của cả xã hội. Đây là điểm khác biệt giữa tranh chấp môi trường với các tranh
chấp khác. Bên cạnh đó, trong tranh chấp môi trường ngoài thiệt hại trực tiếp và
trước mắt còn bao gồm thiệt hại gián tiếp và nhất là thiệt hại lâu dài- loại thiệt
hại rất khó xác định.
VD: đối với thiệt hại vật chất; thiệt hại trước mắt gồm diện tích nông sản bị
giảm năng suất, đầm bị hủy hoại làm giảm số lượng các loài thủy sản, gia súc
bị chết, số người phải nghỉ việc do ngừng sản xuất; thiệt hại như thời gian bị
ảnh hưởng tiếp theo cho đến khi sản xuất và sinh hoạt trở lại bình thường,
năng suất trở lại ổn định, hiện trạng môi trường được khôi phục. Đối với thiệt
hại về sức khỏe là những thiệt hại lâu dài và để lại những di chứng và bệnh
mãn tính….
Đặc trưng này đòi hỏi phải có phương pháp cụ thể hợp lý để xác định các

lợi ích bị xâm hại, mức độ thiệt hại. Do đó, nếu chỉ đơn thuần áp dụng các quy
định chung của pháp luật như hiện nay e rằng chưa phù hợp.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Từ những đặc thù nêu trên chúng ta phần nào hiểu rõ hơn về tranh chấp môi
trường, một vẫn đề diễn ra trên phạm vi toàn cầu cũng như tại Việt Nam.
Những đặc thù này sẽ góp phần vào việc giải quyết triệt để, tận gốc những tranh
chấp môi trường phát sinh trong đời sống xã hội.
Phân tích đặc thù của tranh chấp môi trường cũng là một hình thức nghiên
cứu khoa học trong lĩnh vực Luật môi trường, giúp nâng cao kiến thức và khả
9
năng nhận biết các tranh chấp khác nhau phát sinh trong đời sống xã hội. Từ đó
đi đến giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực đó.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
• Giáo trình Luật Môi Trường- Trường Đại học Luật Hà Nội.
• Giải quyết tranh chấp môi trường tồn tại và giải pháp- Khóa luận tốt
nghiệp 2012_Bùi Thị Thảo.
• Tranh chấp môi trường và vấn đề giải quyết tranh chấp môi trường
tại Việt Nam- Luận án tiến sĩ Luật học_Phạm Hữu Nghị.
• Http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%a3m_h%E1%BB
%8Da_Chernobyl.
10

×