Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

So sánh một số chủng giống nấm linh chi ganoderma lucidum (w curt fr )karst nuôi trồng ở hợp tác xã nông nghiệp phú lương 1, huyện phú vang, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.44 KB, 73 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nấm Linh Chi có tên khoa học là [Ganoderma lucidum
(W.Curt.:Fr.)Karst.] phiên âm theo tiếng Trung Quốc gọi là Ling zhi, theo
tiếng Nhật gọi là Reishi. Ở Việt Nam còn có tên gọi là nấm Lim, nhưng
thông dụng nhất vẫn gọi là nấm Linh Chi. Linh Chi đã được người xưa kể
lại với rất nhiều truyền thuyết, họ coi đó là tiên đan, linh dược, chữa được
bách bệnh, trường sinh bất lão, cải tử hoàn sinh .v.v
Ngày nay, khoa học càng phát triển nhưng Linh Chi vẫn được coi
như là một dược thảo quý, đã được nhiều người, cơ quan, viện nghiên cứu
chú ý đến loài nấm này.
Từ thời Hoàng đế (trên 4.000 năm về trước) cho đến nay Linh Chi
vẫn được coi là "Thượng dược" được xếp vào hàng siêu dược liệu, trên cả
nhân sâm, là loại thuốc quý trong y học cổ truyền đã được ghi trong "Thần
nông bản thảo" cách đây 2.000 năm và trong "Bản thảo cương mục" (thế
kỷ 16), nhưng nó mới thực sự chú ý nghiên cứu và sử dụng nhiều từ những
năm 1960 trở lại đây nhất là ở Trung Quốc, số lượng các loài nấm Linh
Chi được sử dụng trong công nghệ dược liệu ngày càng tăng, đặc biệt ở các
quốc gia Á Đông.
Ở Việt Nam từ thế kỷ 18 Hải Thượng Lãn Ông đã có bài thơ "Lên
núi hái Linh Chi" chứng tỏ nước ta đã sử dụng Linh Chi từ rất lâu đời.
Từ đầu thế kỷ 17 các loài nấm Linh Chi đã được nuôi trồng ở Trung
Quốc, chính bởi giá trị dược liệu cao của chúng như: tăng cường hệ thống
miễn dịch, điều trị suy nhược thần kinh, xơ cứng mạch máu, huyết áp cao,
giảm cholesterol trong máu, loét dạ dày, thấp khớp, ung thư
1
Do giá trị về mặt dược liệu cao nên giá trị về kinh tế của Linh Chi
cũng rất cao, giá bán tại thời điểm năm 1996 ở thị trường Nhật Bản lên tới
trên 200USD/kg quả thể khô đóng gói, giá xuất chính thức tại thành phố
Hồ Chí Minh khoảng từ 15 đến 20 USD/kg khô. Cho nên việc khai thác


nguồn nấm mọc hoang dại trong tự nhiên trở nên khó khăn và khan hiếm
dần. Từ đó người ta đã nghĩ đến việc nuôi trồng nấm Linh Chi trong điều
kiện môi trường nhân tạo, sử dụng các nguồn nguyên vật liệu có trong tự
nhiên hoặc các phế thải trong sản xuất Nông - Lâm nghiệp để làm cơ chất
nuôi trồng nấm Linh Chi.
Dựa vào đặc tính sinh học và sinh thái của nấm Linh Chi, Thừa
Thiên-Huế có các điều kiện tự nhiên thích hợp cho quả thể nấm Linh Chi
sinh trưởng và phát triển.
Vì vậy, việc "So sánh một số chủng giống nấm Linh Chi
[Ganoderma lucidum (W.Curt.:Fr.)Karst.] nuôi trồng ở Hợp Tác Xã
Nông nghiệp Phú Lương 1, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên- Huế "
sẽ chọn ra những chủng giống nấm cho năng suất cao, chất lượng tốt, thích
ứng rộng và có tính di truyền ổn định, bổ sung một số giống mới phục vu
cho sản xuất nuôi trồng nấm dược liệu, tăng hiệu quả kinh tế và cung cấp
nguồn dược liệu phong phú cho việc bào chế các loại dược liệu chữa bệnh
hiểm nghèo bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Việc hoàn chỉnh qui trình trồng
nấm Linh Chi góp phần vào ngành sản xuầt nấm nói chung và nấm dược
liệu nói riêng của tỉnh nhà phát triển nhanh, mạnh và bền vững.
1.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.2.1. Ý nghĩa khoa học
So sánh một số chủng giống nấm Linh Chi, được trồng trên 3 công
thức cơ chất trong điều kiện tự nhiên ở Thừa Thiên Huế, sẽ đóng góp cơ sở
khoa học cho các nghiên cứu về nấm Linh Chi, có ý nghĩa bảo tồn đa dạng
2
sinh học. Vì hiện nay nấm Linh Chi trong tự nhiên đã bị khai thác cạn kiệt
và có nguy cơ tuyệt chủng.
1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ kết quả nghiên cứu sẽ chọn lựa được một số chủng giống nấm
Linh Chi thích hợp cho sản xuất, góp phần xây dựng quy trình kỹ thuật sản
xuất hoàn chỉnh. Tăng thu nhập cho người dân, tận dụng được một số phế

thải Nông-Lâm nghiệp để sản xuất nấm, sau đó làm nguồn phân hữu cơ cho
trồng trọt, góp phần bảo vệ môi trường, tận dụng thời gian nhàn rỗi của
nông dân.
1.3 Mục đích của đề tài
Dựa vào các chỉ tiêu nghiên cứu theo dõi và so sánh bốn chủng
giống nấm Linh Chi để lựa chọn một số chủng giống thích hợp, góp phần
xây dựng một quy trình sản xuất nấm hoàn chỉnh nhất, đơn giản, dễ áp
dụng đối với sản xuất nấm đại trà, với điều kiện tự nhiên ở Thừa Thiên Huế.
3
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
2.1.1. Sơ lược lịch sử về nuôi trồng nấm Linh Chi
Linh Chi có nhiều tên gọi: Nấm vạn năm, Nấm thần tiên, Cây điềm
lành, Cỏ huyền diệu Nhưng tên Linh Chi là được dùng phổ biến nhất.
Trong "Thần nông bản thảo" cách đây 2.000 năm đã đề cập 365 dược thảo
thì Linh Chi được xếp vào loại thượng dược. Đến thời nhà Minh, Lý Thời
Trân đã viết "Bản thảo cương mục" gồm 2.000 loại thuốc thì Linh Chi vẫn
được xếp hàng đầu, ông còn phân biệt Linh Chi theo màu sắc: Đỏ, Vàng,
Đen, Tím, Trắng, Xanh (Lục bảo Linh Chi).
Linh Chi phân bố khắp nơi trên thế giới, hoại sinh hoặc ký sinh
rộng khắp ở các loài cây lá rộng đến lá kim, thậm chí ở các tre trúc, dừa,
cau, cọ dừa và nho đều có cả. Linh Chi tiết ra các men phân giải màng tế
bào endopolygalacturonase và endopectin methyl-translinase có tác dụng
làm nhũn tế bào thực vật rất mạnh gây nên tình trạng các loại gỗ và rễ cây
bị mủn ra.[
Theo Wang nấm Linh Chi được nuôi trồng ở Trung Quốc năm 1621
chính bởi giá trị dược liệu cao của chúng [10]. Ngay từ thời kỳ hoàng đế
trong các thư tịch cổ đã ghi chép về giá trị của Linh Chi (Zhao Ji Ding và
Zhang Xiao - Quing, 1994) cách nay đã trên dưới 4.000 năm.

Trong "Bản thảo cương mục" các ghi chép đã chuẩn mực hơn và
nấm Linh Chi càng được coi trọng hơn. Các nhà Y dược Việt Nam đã kế
tục Lý Thời Trân phát hiện Linh Chi ở nước ta như Lê Quý Đôn đã chỉ rõ
là "nguồn sản vật quý hiếm của đất rừng Đại Nam". Gần đây người ta lại
tìm thấy một tấm bia đá khắc năm 1124 ghi chép về 36 loại Linh Chi
(Ganodermataceae) ở núi Mai Ji, tỉnh Gan Su, tỉnh Gui Zhou ở Tây nam
4
Trung Quốc có tới 37 loài trong đó có 34 loài Ganoderma, 2 loài
Amauroderma và một loài Humphreya (He Zhaochang Linan Bing, 1994)
[10].
Chính vì công nghệ dược học Linh Chi mà các nhà nghiên cứu
Trung Quốc đã đạt được các thành tựu lớn về điều tra, sưu tầm, bảo tồn và
khai thác triệt để họ Ganodermataceae. Cho đến nay đã có ít nhất 10 loài
được chính thức nuôi trồng làm thuốc: G. applanatum, G. ambonense,
G. gorninose, G. capense, G. japonicum, G. lucidum, G. tsugae, G. tenue,
G. formosarum, và vài loài Amauroderma [10].
Theo nghiên cứu của Ngô Anh ở Việt Nam, riêng ở Thừa Thiên
Huế họ Ganodermataceae Donk rất đa dạng phong phú có đến 39 loài thuộc
3 chi Amauroderma, Ganoderma và Haddowia. Trong đó có 5 loài được
làm dược liệu: G. amboinense, G. applanatum, G. capense, G. lucidum và
G. sinense [1].
Người nuôi trồng nấm Linh Chi đầu tiên ở Việt Nam là kỹ sư
Nguyễn Thanh, ông đã đưa được nấm Linh Chi chuẩn từ Trung Quốc về
Việt Nam. Nhờ đó vào cuối năm 1978 dưới sự hướng dẫn của giáo sư Trịnh
Tam Kiệt lần đầu tiên nấm Hồng Chi Trung Quốc đã ra quả thể trong
phòng thí nghiệm, nhưng mãi đến năm 1987 sau khi kỹ sư Nguyễn Thanh,
TS Nguyễn Thiện Tịch cùng với thạc sĩ Cổ Đức Trọng đi tìm Linh Chi
mọc hoang ở vùng rừng núi tỉnh Lâm Đồng để tìm nguồn giống ban đầu thì
Linh Chi mới thực sự được đưa vào nghiên cứu trồng trọt và sản xuất .
Đến năm 1988, xí nghiệp dược phẩm Trung ương 24 đã nghiên cứu

các dạng thành phẩm, cùng sự khảo sát về dược lý của giáo sư Bùi Chí
Hiếu tại viện y học thành phố Hồ Chí Minh và khảo sát về lão khoa lâm
sàng của giáo sư Nguyễn Thiện Thành tại bệnh viện Thống Nhất, đã đưa ra
những kết luận bước đầu rất quan trọng về giá trị của Linh Chi Việt Nam từ
năm 1993.
5
Trên thế giới việc phân tích tiến hoá của họ Linh Chi đã đạt được
những thành tựu rất quý giá. Theo tiến sĩ Jean Marc Moncalvo ở đại học
Ducke, bắc Calorina ông đã phân tích về quan hệ chủng loại phát sinh của
các nhóm loài Ganodermataceae (15 loài) bằng kỹ thuật chẩn đoán cấu trúc
DNA ribosome (1995). Đáng lưu ý là tiến sĩ Hseu ở Đại học Quốc gia Đài
Loan cũng dùng phân tích phổ izozyme và đặc điểm hệ sợi, sự phát sinh
bào tử màng dày trong nuôi cấy thuần khiết của các chủng, loài Ganoderma
để đánh giá mức quan hệ họ hàng của chúng (khoảng 9 loài) trong luận án
tiến sĩ năm 1980 [5].
2.1.2. Đặc tính sinh học của nấm Linh Chi
2.1.2.1. Mũ nấm
Nấm Linh Chi hay còn gọi là nấm Lim, quả thể có cuống dài, ngắn
hay hầu như không có cuống và mũ đính lệch hay đính bên, có màu nâu đỏ
bóng.
Mới sinh có dạng cục lồi, tròn, sau phát triển thành dạng thận, dạng
tâm lượn sóng nhiều hay ít, hơi có vân răn dạng phóng xạ. Mép nấm mỏng
hoặc hơi tù, lượn sóng, hơi chia thuỳ ở những mũ nấm có kích thước lớn.
Mũ mới sinh có mầu trắng, có sắc thái vàng lưu huỳnh, sau chuyển sang
màu vàng, vàng rỉ sắt, nâu, nâu đỏ, nâu hồng tím tạo nên một lớp vỏ
bóng nhoáng như quét sơn hoặc vécni. Kích thước mũ 2 - 25 x 3 - 30 cm,
dày 0,5 - 1,5 cm.
2.1.2.2. Thể sinh sản
Là dạng ống màu nâu nhạt đến nâu, một lớp, dày 0,1 đến 0,7cm.
Mô của ống và thịt nấm đồng nhất. Miệng ống lúc non có màu trắng sau có

sắc thái màu vàng lưu huỳnh, màu trắng vàng khi già khô hoặc khi bị sờ
mó thì chuyển sang màu nâu, nâu rỉ, sẫm, miệng ống hình tròn, trong 1mm
có 4-5 ống.
6
2.1.2.3. Cuống nấm
Cuống nấm có thể dài hoặc ngắn, hay gần như không có cuống,
thường đính ở bên phần lõm vào của mũ nấm. Cuống mới hình thành có
màu trắng sau chuyển sang màu vàng đến nâu và phủ vỏ bóng, có màu
sắc và cấu trúc tương tự như mũ nấm. Cuống hình trụ, gần như tròn hoặc
hơi dẹp, chiều dài có kích thước 3-20 x 0,5-2 cm. Mô của cuống đồng nhất
với mô của mũ
2.1.2.4. Bào tử
Hình trứng hoặc hình trứng cụt đầu, có phần phụ không màu phát
triển bao quanh lỗ nẩy mầm có màu vàng rỉ sắt, bào tử có vỏ với cấu trúc 2
lớp màng, màng ngoài nhẵn, không màu, màng trong màu nâu rỉ, phát triển
thành những gai nhọn vươn sát màng ngoài. Kích thước 5-6,5 x 8,5-11 µm
[8], [14].
Mặt dù hình thái bên ngoài rất biến đổi đa dạng song về cấu tạo
hiển vi của bào tử đảm thì có độ ổn định rất cao dù là chủng nuôi trồng ở
Nhật, Trung Quốc, chủng nấm Lim Hà Bắc hay chủng Đà Lạt.
Lớp vỏ bóng trên mặt mũ được tạo nên do một lớp sợi nấm dạng
chuỳ không có vách ngăn ngang (phần phình lớn đạt 8 - 10 µm đường kính)
sắp xếp theo dạng bờ rào tạo nên. Hệ thống sợi của quả thể thường do sợi
cứng (không vách, màng dày) và sợi bện phân nhánh nhiều, kích thước nhỏ
hơn tạo nên. Kích thước sợi 1,5-6,5 µm đường kính. Hệ sợi khi nuôi cấy
thuần khiết lúc đầu có màu trắng sau có màu sáng, màu vàng có hình thành
sợi nguyên thuỷ vách mỏng có màng ngăn ngang và hình thành bào tử vô
tính với kích thước 9,5-11 x 12,5-15 µm [8].
Cây gỗ bộ đậu (Fabales) là những cây chủ ưa thích của các loài
Linh Chi. Ở Việt Nam, thường gặp Linh Chi trên các cây Lim (nấm Lim),

phượng vĩ (Delonix regia), cây so đũa (Sesbania grandiflora) v.v Ngoài ra
7
còn gặp trên nhiều loài cây khác đã chết mục hoặc có cả trên cây sống:
xoài, mít, mãng cầu, phi lao, dừa, liễu đuôi sóc những loài thoạt trông
như mọc từ đất, nhưng thực ra chúng phát triển hệ sợi theo các rễ cây
ngầm, rồi thể quả vượt lên trên mặt đất. Ở miền Bắc dễ gặp từng nấm Lim,
ở rừng Lâm Đồng dưới tán rừng thông, cũng dễ gặp Linh Chi mọc từng
đám.
2.1.3. Chu kỳ sống của nấm Linh Chi
Bào tử đảm đơn bội trong điều kiện thuận lợi nảy mầm tạo nên hệ
sợi sơ cấp, trong thực nghiệm tỉ lệ nẩy mầm khá thấp ở nhiệt độ 28 - 30
0
C
chỉ đạt 2-10%. Hệ sợi sơ cấp đơn nhân, đơn bội mau chóng phát triển phối
hợp với nhau tạo thành hệ sợi thứ cấp (tức hệ sợi song hạch), phát triển và
phân nhánh rất mạnh tràn ngập khắp giá thể.
Lúc này thường có hiện tượng hình thành bào tử vô tính màng dày,
chúng dễ dàng rụng ra và khi gặp điều kiện phù hợp sẽ nẩy mầm cho ra hệ
sợi song hạch tái sinh. Hệ sợi thứ cấp sẽ phát triển mạnh đạt đến giai đoạn
cộng bào tức là các vách ngăn được hoà tan.
Tiếp đó là giai đoạn sợi bện kết chuẩn bị cho sự hình thành mầm
mống thể quả. Đây chính là giai đoạn phân hoá hệ sợi từ hệ sợi nguyên
thuỷ hình thành các sợi cứng màng dày, ít phân nhánh, bện kết lại thành các
cấu trúc bó, được cấu kết bởi các sợi bện phân nhánh rất mạnh. Từ đó hình
thành các mầm nấm màu trắng mịn vươn dài thành các trụ tròn mập, phần
đỉnh trụ bắt đầu xoè tán, trong lúc lớp vỏ đỏ cam xuất hiện. Tán lớn dần
hình thành bào tầng và bắt đầu phát tán bào tử đảm liên tục cho đến khi
nấm già sẫm màu, khô tóp và lụi dần trong vòng 3 - 4 tháng.
8
Thể quả

Hình thành bào tầng sống
Mầm quả thể
Bào tử
Hệ sợi sơ cấp (đơn nhân)
Hệ sợi thứ cấp (song hạch)
Hệ sợi bện kết
Sơ đồ chu trình sống của nấm Linh Chi
2.1.4. Đặc tính dược học của Linh Chi
2.1.4.1. Thành phần hoá dược cơ bản và đặc tính dược lý của nấm Linh
Chi.
Với các phương pháp cổ điển trước đây người ta đã phân tích các
thành phần hoá dược tổng quát của Linh Chi như sau:
+ Nước: 12 - 13%
+ Cellulose: 54 - 56%
+ Lignin: 13 - 14%
+ Hợp chất Nitơ: 1,6 - 2,1%
+ Chất béo (kể cả dạng xà phòng): 1,9 - 2%
+ Hợp chất Phenol: 0,08 - 0,1%
+ Hợp chất Sterol toàn phần: 0,11 - 0,16%
+ Saponine toàn phần: 0,3 - 1,23%
+ Alcaloide và Glucoside tổng số: 1,82 - 3,06% [5].
Từ những năm 1980 đến nay, bằng các phương pháp hiện đại đã
xác định chính xác gần 100 hoạt chất và dẫn xuất trong nấm Linh Chi. Dẫn
liệu từ Medline cho thấy cũng có đến gần 200 công trình nghiên cứu trong
lĩnh vực này (từ 1983 - 1993) (Bảng 1).
Trong số các hoạt chất, nhóm có bản chất protein nổi bật với Ling
Zhi - 8 do các nhà khoa học Nhật Bản tìm ra (Kino, K. et al 1989, 1991 )
được chứng minh là một tác nhân chống dị ứng phổ rộng và điều hoà miễn
dịch rất hữu hiệu, đồng thời duy trì tạo kháng thể chống các kháng nguyên
viêm gan B.

9
Nhóm Steroide khá phong phú ở các nấm Linh Chi với tác dụng chủ
đạo ức chế sinh tổng hợp cholesterol.
Bảng 1: Thành phần hoạt chất cơ bản ở nấm Linh Chi
Hoạt chất Nhóm Hoạt tính dược lý
Cyclooct asulsus
Ức chế giải phóng nhóm Histamine
Adenosine Nuceotide
Ức chế kết dính tiểu cầu, thư giãn
cơ, giảm đau
Dẫn xuất Proteine
Chống dị ứng phổ rộng, điều hoà
miễn dịch
Linh Zhi-8 Ancaloide
Trợ tim
Ganodosterone Steroide
Giải độc gan
Lanosporeric acid A Steroide
Ức chế sinh tổng hợp
Lanosterol Steroide
Choesterol
II, III, IV, V Steroide
Choesterol
Ganoderans A, B, C Polysaccharide
Hạ đường huyết
Beta - D-Glucan Polysacc
Chống ung thư, tăng tính miễn dịch
BN- 3B: 1, 2, 3, 4 Polysacc
D-6 Polysacc
Tăng tổng hợp Protein, tăng chuyển

hoá acid nucleic
Ganoderic acid R, S Tritepenoide
Ức chế giải phóng histamine
Ganoderic acid B, D,
F,H, K, Y
Triterpen
Hạ huyết áp, ức chế ACE
Ganoderic acids Triterpen
Ức chế sinh tổng hợp chol
Ganodermadiol Triterpen
Hạ huyết áp, ức chế ACE
Ganodermic acids Mf Triterpen
Ức chế sinh tổng hợp chol
Ganodermic acids T.O Triterpen
Ức chế sinh tổng hợp chol
Lucidone A Triterpen
Bảo vệ gan
Lucidenol Triterpen
Bảo vệ gan
Ganosporelacton A Triterpen
Chống khối u
Ganosporelacton B Triterpen
Chống khối u
Oleic acid dẫn xuất Acid béo
Ức chế giải phóng histamine
10
(Theo Medline,1993; Kino và CTV 1989)
Nhóm các ester với acid béo không no linoleic ghi nhận vào 1991
có hoạt tính chống ung thư với công trình của Lin, C, N. et al, đồng thời
các tác giả còn tìm ra một Lanostaroid và một Steroid mới cũng có tác

dụng ức chế các tế bào ung thư [10].
Hikino,H et al từ 1985 - 1989 chứng minh hoạt lực hạ đường huyết
của nhiều polysaccharid đó là các heteroglycan có cả hoạt tính chống ung
thư [10].
Các nghiên cứu về polysaccharid không tan trong nước của các tác
giả Nhật Bản (Sone, H. H. et al, 1985; Takashi, M. et al 1985 và Trung
Quốc (Cheng, H. H. et al 1982, Liu G. T. et al, 1998 ) chứng tỏ hiệu lực
chống khối u rất rõ, thậm chí làm tan khối u với các loài G. applanatum và
G. lucidum [10], [16].
Trong các nhóm hoạt chất của nấm Linh Chi có tác dụng dược lý
mạnh nhất là Saponine - Triterpenoids - các acid ganoderic. Trong đó có
Ganoderic acid B. Chúng thể hiện hoạt lực ức chế giải phóng histamine, ức
chế Angiotensine Conversion enzyme (ACE) ức chế sinh tổng hợp
cholesterol và hạ huyết áp [10], [16].
2.1.4.2. Tác dụng trị liệu cơ bản của nấm Linh Chi
Trên thực tế, có thể coi Linh Chi không có độc tính. Quá trình kiểm
tra đã được thực hiện ở Việt Nam, tại một số cơ sở sau (Theo GS. Bùi Chí
Hiếu et al 1993).
+ Phân nghiệm kiểm viện dược phẩm - Bộ y tế.
+ Trung tâm nghiên cứu và đào tạo y dược học dân tộc.
11
+ Viện dược liệu, Hà Nội (Đàm Nhận 1994 - 1995).
Kết quả cho thấy dùng liều cao (gấp 50 - 150 lần liều dùng thông
thường cho người) cũng không gây nhiễm độc cấp tính, hay trường diễn
[5].
Bệnh gan và tiết niệu cũng được điều trị khả quan bằng chế phẩm từ
Linh Chi. Bệnh viện ở Sơn Đông - Trung Quốc dùng một loại "súp" Linh
Chi để giải độc và bổ gan có kết quả tốt (> 90%) cho 70.000 ca (Lui Xing
Ja 1994) [5].
Theo kết quả thí nghiệm của Nguyễn Thị Chính (1999) trên chuột

nhắt trắng có trọng lượng 18-22 gam với liều cho chuột uống 160g/kg trọng
lượng. Liều sử dụng của chuột như vậy là gấp 800 lần so với liều sử dụng
cho người 0,2 gam/kg trọng lượng. Với liều cao như trên, chuột uống trong
một tuần nhưng không chết chứng tỏ nấm không có độc tố của latoxin và
an toàn đối với người sử dụng [8]. Công trình của GS. Zhi bin Lin et al
(1994) về tác dụng chống ung thư của các chế phẩm từ Linh Chi chứng tỏ
phổ tác dụng rộng. Nguyên lý hiệu dụng là tăng khôi phục hệ miễn dịch đã
thử nghiệm lâm sàng trên hàng chục bệnh nhân tại bệnh viện Xanh pôn, Hà
Nội cũng cho kết quả tương tự.
Trong tình hình nhiễm HIV càng gia tăng, Linh Chi đã được đưa
vào chữa cho các bệnh nhân nhiễm HIV tại bệnh viện Quan Yin Chine ở
Fransico và đã có những kết quả tốt (1987). Được cơ quan quản lý thực
phẩm và dược phẩm (FDA) của Hoa Kỳ cho phép sử dụng trong khi chờ
các loại thuốc công hiệu hơn ra đời [10].
Theo kết quả nghiên cứu của Kim. B. K (1996), trong quả thể của
G. lucidum có một số hoạt chất như Methanol, Hexane, Ethyl acetate và
những chất cơ bản khác có tác dụng kìm hãm quá trình phát triển của viruc
HIV [17]. Các chế phẩm từ Linh Chi có khả năng hạn chế và loại trừ những
12
tổn thương do phóng xạ ở mô và tế bào bởi Linh Chi có khả năng đào thải
phóng xạ [1].
2.1.5. Các công nghệ nuôi trồng nấm Linh Chi trong nước và trên
thế giới
Hiện nay có hai công nghệ chính được áp dụng phổ biến: Trồng
trên gỗ khúc và trồng trên cơ chất hỗn hợp.
Tuỳ điều kiện từng nước và từng vùng khí hậu mà người ta chọn
cách trồng phù hợp. Ở Việt Nam hoàn toàn trồng bằng mùn cưa cao su.
Các thí nghiệm trồng trên gỗ khúc và trên các mùn cưa khác đã được tiến
hành ở một số trại nấm cho thấy có thể trồng ra được nhưng không thể sản
xuất lớn và khó khăn về nguồn nguyên liệu phục vụ trong xử lý cơ chất và

đất nền.
Biện pháp phủ đất cũng thường được khuyến cáo. Ngoài ra công
nghệ nuôi cấy chìm hệ sợi thu sinh khối cũng được thử nghiệm ở nhiều nơi,
song chất lượng vẫn chưa được thuyết phục.
Việc nuôi trồng quy mô lớn hiện đại có thể coi như bắt đầu từ 1936
với công trình của GS. Dật Kiến Vũ Hưng. Cho đến nay, ở Nhật Bản người
ta vẫn ưa trồng trên gỗ vùi dưới đất và cho rằng quả thể lớn và chất lượng
hơn. Tuy vậy công nghệ này dẫn đến tình trạng suy kiệt nguồn gỗ, nhất là ở
Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc
Công nghệ tận thu các phế thải Nông - Lâm nghiệp tỏ ra thích hợp
hơn vì giúp cho xử lý các phế thải gây ô nhiễm môi trường như các loại
mùn cưa, vỏ bào, cành cây, rơm rạ, trấu, bã mía, vỏ cà phê, vỏ lạc đều có
thể trở thành giá thể tốt cho nuôi trồng nấm Linh Chi.
2.1.5.1. Quy trình nuôi trồng trên gỗ khúc
13
Trong quy trình này, kỹ thuật vùi đất là rất cần thiết, rất tiếc là ở
Việt Nam chưa được phổ biến lắm và cũng có ý kiến e ngại về nguồn gỗ
khúc, trong tình trạng phá rừng hiện nay. Theo kỹ thuật của Trung Quốc
cây gỗ chặt hạ bỏ cành nhánh, cưa thành khúc 80 - 120cm mặt cắt quét vôi,
chất đống ủ khoảng 1 tháng sau đó tiến hành các bước sau:
- Cấy giống: Giống sản xuất thường là hỗn hợp mùn cưa, cám, bột
bánh dầu ít khi dùng giống hạt ngũ cốc vì dễ bị chuột mối mọt cắn phá,
dùng búa hoặc khoan đục những hành lỗ so le đường kính 1 - 1,5cm dọc
theo khúc gỗ, cách nhau 5cm, sâu 3 - 5cm. Gieo meo giống cho đầy lỗ cấy,
sau đó đậy lại bằng chính miếng gỗ đục từ lõi ra. Dán giấy parafin hoặc
nhỏ sáp lên bịt kín lỗ cấy. Các thao tác làm kế tiếp nhau và nhanh để tránh
nhiễm tạp.
- Nuôi ủ gỗ: Sau khi gieo meo giống, gỗ được xếp đống quây vuông
hoặc hình chữ nhật cao 50 - 80cm. Phủ vải nhựa hoặc bạt lên trên, tránh
bọc chặt vào các dầu của gỗ. Độ ẩm trong đống ủ 75 - 80%, nhiệt độ

khoảng 25 - 30
0
C. Sau khoảng 15 - 20 ngày kiểm tra sự lan toả của sợi nấm
và chuyển sang ủ trong đất + cát. Gỗ cũng xếp đống chồng lên nhau và phủ
đất + cát đã khử trùng bằng Formalin kỹ. Tưới phun ẩm trong khoảng 30 ngày.
- Vùi đất: Các khúc gỗ được cưa thành đoạn 15 - 20cm. Vùi cắm
các khúc gỗ xuống nền đã làm kỹ và khử trùng diệt mối, kọt, sâu bọ. Bên
trên là mái vòm che mưa nắng và ánh sáng trực xạ. Người ta vùi các khúc
gỗ để nhô lên cỡ 5 - 7cm, ở Nhật thì người ta dùng cát sạch + đất mịn phủ
kín lên dày trên lớp gỗ khoảng 2 -3 cm. Tưới phun sương ẩm giữ độ
khoảng 80 - 95% và thông thoáng. Sau 15 - 20 ngày sẽ xuất hiện mầm quả
thể. Từ giai đoạn này nấm rất hay bị sâu, mối, sên ăn phá, cần chăm sóc
cẩn thận. Tai nấm phát triển sau 50 - 69 ngày thì trưởng thành xuất hiện
bào tử và lớp vỏ láng lan sát mép tán nấm.
14
- Thu hoạch: Hái tán nấm chín, đem phơi, sấy ở nhiệt độ 40 - 45
0
C
trong 2 - 3 ngày. Như vậy theo quy trình này, từ lúc gieo meo giống cho tới
khi thu hoạch đợt I có thể từ 4 - 5 tháng. Nếu chăm sóc tốt khoảng 2 - 2,5
tháng sẽ thu tiếp đợt sau và có thể thu hái trong vòng ba năm.
2.1.5.2. Quy trình nuôi trồng trên giá thể tổng hợp
Thường được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và đã
được áp dụng ở Việt Nam.
- Phối trộn cơ chất: Tận dụng mùn cưa các loại, cần lưu ý tránh mùn
cưa mủn mốc. Tỷ lệ mùn cưa nên đạt 30-60%, phần còn lại dùng rơm rạ
băm nhỏ, trấu, bã trà khô, vỏ hạt bông, vỏ lạc, cành thân cây nhỏ xử lý
hỗn hợp cơ chất này với nước vôi 1,5% trong một ngày.
Nguồn dinh dưỡng bổ sung quan trọng là các loại cám ngũ cốc, tỷ lệ
nên phối trộn khoảng 15 - 20%. Nên cho thêm (NH

4
)
2
SO
4
(0,5%),
Superphosphate (1 - 1,5%) và MgSO
4
. 7H
2
O (0,05%). Căn cứ vào hàm
lượng Kali rất cao trong nấm nên cần bổ sung thêm Kali (KCl hoặc K
2
SO
4
),
độ ẩm sau cùng đạt 65 - 70%.
- Khử trùng giá thể: Sau khi cơ chất hỗn hợp được nhồi vào bịch
PP hay chai PP với trọng lượng 0,5 - 1,5kg, việc tiếp theo hết sức quan
trọng là hấp khử trùng. Vì độ nhiễm tạp ban đầu của cơ chất hỗn hợp rất
lớn do vậy phải khử trùng kỹ hoặc 3 lần x 45 phút trong nồi Autoclave
(121
0
C, 1atm) hoặc bằng lò hơi nước không áp suất cao (85 - 95
0
C) trong 5
- 6 giờ , sau đó để nguội.
- Cấy giống: Cấy giống vào giữa khối cơ chất (khoảng 3 - 5% khối
lượng so với cơ chất), nuôi ủ trong phòng tối (25 - 30
0

C), sau 25 - 35 ngày
hệ sợi sẽ lan hầu hết khắp giá thể.
15
- Tưới đón nấm: Hệ sợi bắt đầu bện kết sau 25 - 30 ngày, cần
chuyển bịch (chai) vào nhà trồng có ánh sáng khuếch tán nhẹ, nhiệt độ hạ
thấp 21 ± 3
0
C có thể vùi dưới đất hoặc treo, xếp trên giàn, kệ mở nút bịch
cho mầm nấm vươn ra dễ dàng. Độ ẩm phòng duy trì 80 - 90%. Nên thông
thoáng phòng nuôi cho tán nấm xoè lớn, hình quạt chuẩn, ít bị dị dạng.
• Sơ đồ quy trình trồng nấm Linh Chi:

Pha thu hái
(Theo Lê Duy Thắng, 1995)
Theo quy trình này tán nấm sẽ thành thục 35 - 45 ngày tức là 2 - 2,5
tháng kể từ khi cấy giống. Mỗi bịch (chai) thường cho một tán nấm lớn
khoảng 20g tươi (với 350 - 500g cơ chất tươi) như vậy hiệu suất đạt 4 - 9%.
Nếu dùng cơ chất tới 1-1,5kg có thể thu được 2 tán thường > 20g tươi song
hiệu suất thu được lại nhỏ: 2,5-3,5%. Thực tế các nước trong vùng cũng đạt
hiệu suất 5-8%.
16
Mùn cưa gỗ Mẫu nấm tươi Cây gỗ mềm
Trộn
nhồi cơ
chất
Cưa,
đục
lỗ
Giống gốc
Giống sản xuất Gỗ khúcBịch nấm

Tơ trắng Tơ trắng
Quả thể Quả thể
Pha sợi
Cấy giống
Bảo quản
Cấy giống
ủ 26±2
0
C
ủ 26±2
0
C
Aïnh sáng khuếch tán nhẹ 350 lux
Nhiệt độ 22 ± 2
0
C
2.1.6. Tiềm năng của huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên- Huế với
việc trồng nấm
2.1.6.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa ly ï
Phú Vang là huyện đồng bằng ven biển, nằm về phía Đông Bắc của
tỉnh Thừa Thiên Huế, có vị trí địa lý như sau:
+ Phía Bắc giáp biển Đông.
+ Phía Nam giáp huyện Hương Thuỷ và Thành phố Huế.
+ Phía Đông giáp huyện Phú Lộc
+ Phía Tây giáp huyện Hương Trà
Phú Vang được đánh giá là một trong những huyện có vị trí địa lý
khá thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế bởi tài
nguyên phong phú, có biển và đồng bằng thích hợp để phát triển kinh tế
toàn diện và tổng hợp.

Ranh giới của huyện được bao bọc bởi biển Đông, sông Hương, sông
Như Ýï, sông LơÜi Nông và đầm Cầu Hai. Ngoài ra còn nằm trên trục
đường giao thông quan trọng của vùng và của tỉnh như: Quốc lộ 49 A, B, tỉnh
lộ 10.
Toàn huyện có một thị trấn ( Thuận An ) và 19 xã với tổng diện tích
tự nhiên là 280,32 km
2
. Dân số đến cuối năm 2005
Địa hình
17
Huyện Phú Vang có dạng địa hình khá bằng phẳng, với độ dốc < 1%
và cao trình biến thiên từ 0 m đến 2,5 m so với mặt nước biển, phổ biến từ
0,8 m đến 1,5 m. Nhìn chung địa hình toàn huyện thấp dần từ Tây Bắc sang
Đông Nam nhưng không lớn, tuy nhiên có những khu vực địa hình trũng
hay gò cao hơn địa hình chung, có thể chia làm ba vùng chính như sau:
Vùng cồn cát ven biển: Đây là khu vực có địa hình cao nhất, được
hình thành do các cồn cát ven biển khá nổi bật so với các khu vực xung
quanh, vùng đất này có dạng địa hình sống trâu được giới hạn bởi phía
Đông là Biển và phía Tây là phá Tam Giang nên rất thuận lợi cho phát triển
nông nghiệp.
Vùng đồng bằng: Được hình thành bởi vùng đồng bằng ven sông và
đầm phá nên khá bằng phẳng rất thuận lợi cho phát triển sản xuất nông
nghiệp.
Vùng đầm phá: Chủ yếu là phá Tam Giang được hình thành bởi đầm
Thuỷ Tú và đầm Thanh Lam.
Khí hậu
Huyện Phú Vang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai
mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 năm trước và kết thúc
tháng 3 năm sau, mùa nắng từ tháng 4 đến tháng 8. Đồng thời, chịu ảnh
hưởng trực tiếp hoạt động của hai loại gió mùa chính, đó là gió mùa Đông

Bắc và gió Tây Nam. Gió Đông Bắc hoạt động bắt đầu từ tháng 10 và kết
thúc vào tháng 3 năm sau thường gây mưa, lụt vào tháng 10, 11. Gió Tây
Nam hoạt động từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 8, thường gây nóng và khô
hạn. Mặt khác, Huyện Phú Vang còn chịu ảnh hưởng gió lục địa và gió đại
dương, thường xuyên hoạt động làm thay đổi đến chế độ nhiệt ẩm trong các
mùa.

18
Bảng 2. Số liệu thời tiết khí hậu trung bình 10 năm của
huyện Phú Vang (1996- 2005)
Tháng
Nhiệt độ (
0
C) Ẩm độ (%) Mưa (mm)
Giờ
T.B max min T.B min SN R
1 20,3 30,7 15,8 91,2 57,8 12,1 1206 108,0
2 20,7 31,9 16,5 90,4 55,4 12,3 75,0 96,70
3 23,2 35,6 18,1 89,7 51,2 10,1 59,5 141,4
4 26,0 37,1 20,8 86,2 51,2 9,8 67,5 161,0
5 27,9 37,4 23,0 82,7 46,3 13,7 142,3 214,8
6 28,9 37,4 24,2 78,8 43,8 8,8 92,1 234,1
7 28,9 38,1 24,0 77,3 41,8 9,4 64,6 234,5
8 28,6 38,0 24,5 78,7 40,5 9,7 158,3 205,0
9 26,6 35,6 23,2 87,5 49,8 17,7 462,2 134,6
10 25,2 32,8 21,3 90,4 55,9 19,8 756,8 125,5
11 23,8 31,6 19,4 91,9 57,20 20,1 854,4 97,8
12 20,3 28,5 16,3 92,6 58,80 21,1 472,2 58,7
(Nguồn: Trung tâm KTTV Thừa Thiên Huế.)
19

0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
II IV VI VIII X XII
NHIÃÛT ÂÄÜ (0C)
ÁØM ÂÄÜ (%)
MÆA (mm)
NÀÕNG
(giåì)
Đồ thị 1: Đồ thị biểu diễn lượng mưa và nhiệt độ

Từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau nhiệt độ trung bình thấp, thấp nhất
vào tháng 1, nhiệt độ trung bình các tháng còn lại đạt trên 26
0
C, cao nhất là
các tháng 6 và 7. Nhiệt độ tối cao tuyệt đối là 38,1
0
C vào tháng7 và tối thấp
tuyệt đối là 15,8
0
C vào tháng 1.
Ẩm độ trung bình 10 năm qua các tháng đều >77,3%, cao nhất vào
tháng 12 và thấp nhất vào tháng 7.

Lượng mưa trung bình 10 năm thấp ở các tháng 2,3,4 và lượng mưa
thường tập trung vào các tháng 9, 10,11. Trong đó, lượng mưa đo được ở
tháng cao nhất là tháng 11 đạt 854,47mm, thấp nhất là 59,5mm vào tháng 3.
Số giờ nắng trung bình 10 năm qua các tháng biểu hiện thấp nhất vào
tháng 12 (58,77giờ) và cao nhất vào tháng 7 (234,5giờ).
20
Kh nng bc hi trung bỡnh nm l 977 mm/ nm. Lng bc hi
nhiu nht t thỏng 5 n thỏng 8 ( thỏng 7 l 138 mm ), thỏng cú lng
bc hi thp nht l thỏng 2 cng t 39,6 mm.
Bng 3. Din bin khớ hu thu vn ca huyn Phỳ Vang
t thỏng 12/2005 n thỏng 6/2006
Thỏng Nhit (
0
C) m (%) L.Ma
(mm)
Gi nng
(gi)
T.B max min T.B min Ngy R
12/200
5
19,2 27,2 14 95 56 27 500 9
01/200
6
19,9 33,5 14,8 92 60 14 179 89
02/200
6
21,6 30,8 17,1 91 64 17 88 81
03/200
6
22,7 35,3 14,8 90 65 9 19 108

04/200
6
26,4 37,5 18,6 85 53 11 52 186
05/200
6
27,3 36,0 18,7 80 39 11 60 239
06/200
6
30,1 39,6 24,3 73 41 4 13 279
(
Nguọửn: Trung tỏm KTTV Thổỡa Thión Huóỳ, 2005-2006.)
Qua caùc sọỳ lióỷu vóử khờ tổồỹng ta thỏỳy nhióỷt õọỹ trung bỗnh vaỡ ỏứm õọỹ
trung bỗnh thờch hồỹp cho nỏỳm Linh Chi sinh trổồớng vaỡ phaùt trióứn.
Chóỳ õọỹ thuyớ vn
21
Dng chy ca säng ngi trãn âëa bn huûn l sn pháøm trỉûc tiãúp
ca mỉa nãn phán bäú khäng âäưng âãưu theo khäng gian v thåìi gian. Vng
mỉa nhiãưu thç dng chy nhiãưu, dng chy ch úu táûp trung vo ma l
( thạng 9, thạng 12 ). Täøng lỉåüng dng chy l chiãúm 80 - 85 %/ nàm âäúi
våïi nàm nhiãưu nỉåïc âàûc biãût, 65 - 70 %/ nàm âäúi våïi nàm trung bçnh,
45-50%/ nàm âäúi våïi nàm êt nỉåïc.
Khu vỉûc huûn Phụ Vang chëu nh hỉåíng trỉûc tiãúp ca chãú âäü thu
vàn Säng Hỉång v cọ cạc chãú âäü thu vàn nhỉ sau:
+ Diãûn têch lỉu vỉûc: 3.000 km
2

+ Lỉu lỉåüng ma l l 12.000 m
3.
/s
+ Lỉu lỉåüng ma kiãût l 1 m

3
/ s
Thỉûc tãú cho tháúy lỉu lỉåüng ngy thạng kiãût thỉåìng råi vo thạng 4
hồûc thạng 8, âäi khi xút hiãûn såïm hån hồûc mün hån, dao âäüng trong
khong 1 thạng. Theo kãút qu tênh så bäü lỉu lỉåüng kiãût nháút ngy trong
nàm ca lỉu vỉûc säng Hỉång l 8 m
3
/s. Vç váûy, nhỉỵng biãûn phạp têch cỉûc
trong ma mỉa âãø âiãưu tiãút phủc vủ dng nỉåïc trong ma khä l cáưn thiãút.
Ngoi ra con säng chênh cáúp nỉåïc cho vng Nam säng Hỉång âäø
qua huûn Phụ Vang l säng Låüi Näng- Âải Giang di 27 km v mäüt nhạnh
r låïn khạc ca säng Hỉång l säng La - Chåü N, lỉu vỉûc ca säng ny
bao gäưm thë tráún Thûn An v X Phụ Thanh.
Nhạnh r ca säng Låüi Näng l säng Nhỉ cọ chiãưu di 12 km. Lỉu
vỉûc ca säng ny bao gäưm cạc x nhỉ: Phụ Dỉång, Phụ Thanh, Phụ Máûu,
Phụ Tán, Phụ An v Phụ M. Tỉì säng ny cọ nhiãưu rảch nỉåïc dáùn vo khu
vỉûc sn xút nhỉ vng Mäüc Hng, Phụ Khã, Vinh Vãû, Cáưu Läng v Xn
Lỉång Häư.

22
2.1.6.2. Tình hình kinh tế- xã hội
Dân số và lao động
- Tổng số dân đến năm 2004: 181.149 người, mật độ 647người/km
2
- Tổng số lao động: 84.757 người, chiếm 46,78% dân số của
huyện.
Lao động đang làm việc ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản có mức
độ thu hút đông nhất ,chiếm 89% .Tuy nhiên phần lớn người dân ở khu vực
làm nghề cá có trình độ văn hoá thấp,tỷ lệ thất nghiệp cao và đây là một
trong những điểm khó khăn làm cản trở quá trình phát triển kinh tế xã hội.

Tình hình sản xuất và cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp năm 2001- 2005
Bảng 4. Diện tích một số cây trồng qua các năm (ha)
Năm
Diện tích
2001 2002 2003 2004 2005
1. Cây lương thực
- Lúa
+ Đông Xuân
+ Hè Thu
- Ngô:
- Khoai lang
- Sắn
10.297
5.815
4.482
100
1.480
644
10.287
5.704
4.583
102
1.453
685
10.293
5.647
4.646
82
1.188
816

10.254
5.535
4.719
82
1.100
860
10.211
5.410
4.801
82
1.120
1.235
2. Cáy thæûc pháøm
-Rau các loại
- Đậu các loại
850
418
856
425
1.019
437
1.100
440
1.150
440
3. Cây CN hàng năm
- Lạc:
- Væìng
424
129

432
174
450
175
517
175
530
180
4.Cáy àn quaí
7 42 42 42 42
23
(Nguồn: Phòng NN & PTNT huyện Phú Vang, TT Huế 2001-2005)
24
Bảng 5: Năng suất một số cây trồng chính 2001-2005( tạ/ha)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Lúa cả năm
- Đông Xuân
- Hè Thu
37
35,52
38,92
38,41
41
35,2
44,54
46,55
42,1
47,01
47,60
46,32

44,03
40,33
48,22
Ngô 18 18 20,24 20 22,07
Khoai lang 55,54 55,45 56,48 56,08 57,7
Sắn 59,1 68 104 105 205
Lạc 15,57 16,59 17,61 17,36 18,1
Væìng
1,63 1,60 1,64 1,64 1,65
Rau các loại 85,44 84,5 91,27 87,51 88,30
Đậu các loại 3,83 3,83 4,05 4,09 40
(Nguồn: Phòng NN & PTNT huyện Phú Vang, TT Huế 2001-2005)
Bảng 6: Sản lượng một số cây trồng chính qua các năm ( Tấn )
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Lúa: Caí nàm
- Âäng Xuán
- Heì Thu
38.097
20.655
17.442
39.522
23.393
16.129
45.843
26.287
19.556
48.207
26.349
21.858
44.969

21.819
23.150
Ngô 180 184 167 164 181
Khoai lang 8.220 8.058 6.710 6.618 6.462
Sắn 3.860 4.658 8.470 9.030 7.875
Lạc 660 717 793 897 959
Vừng 20,99 28,11 29,0 29,01 29,70
Rau các loại 7.262 7.233 9.300 9.626 10.155
Đậu các loại 160 163 177 180 176
(Nguồn: Phòng NN & PTNT huyện Phú Vang, TT Huế 2001-2005)
25

×