Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THUỶ SẢN CỦA NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.32 KB, 9 trang )

CHƯƠNG HAI:
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THUỶ SẢN CỦA
NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ.
2.1. HÀNG THUỶ SẢN TRONG HỆ THỐNG CÁC MẶT HÀNG XUẤT
KHẨU CHỦ LỰC
2.1.1 Thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam
Đến nay , hàng thuỷ sản xuất khẩu của việt nam đã có mặt ở 150
nước trên thế giới. Tuy nhiên, gần 80% trị giá xuất khẩu thuỷ sản
tập trung vào 4 thị trường chủ lực là Nhật bản, Mỹ, EU, Trung quốc
và Hồng kông.
Mỹ đang là một thị trường nhiều triển vọng mà Việt nam cần
khai thác. Thị trường này có sức mua rất lớn và giá cả tương đối ổn
định, tuy nhiên trong thời gian qua, hàng thuỷ sản Việt nam xuất
khẩu sang thị trường Mỹ vẫn còn rất khiêm tốn so với nhu cầu nhập
khẩu mặt hàng này của Mỹ.
Với GDP bình quân đầu người năm 2000 là 32000USD, mức
tăng trưởng trung bình của nền kinh tế là 4%/năm, Mỹ là một thị
trường có sức tiêu dùng rất cao, đặc biệt là hàng thuỷ sản. Trung
bình mỗi năm người Mỹ tiêu dùng 4,9 pounds thuỷ sản tương đương
8 kg, tăng 44,6% so với năm 19960 và 19,5% so với năm 19980.
Trong tương lai, mức tiêu thụ thuỷ sản ngày càng tăng mạnh do xu
hướng ngày càng có nhiều người Mỹ chuyển sang sử dụng sản phẩm
thuỷ sản cho bữa ăn chính trong gia đình. Theo thống kê của Bộ thuỷ
sản Mỹ, người Mỹ hiện sử dụng xấp xỉ 20% tổng sản lượng thuỷ
sản thế giới, trong số đó thì hơn một nửa là thuỷ sản nhập khẩu.
Tại Mỹ có nhiều cơ sở chế biến phải sử dụng nguyên liệu ngoại
nhập. Có khoảng 1000 cơ sở chế biến cả nước phụ thuộc hoàn toàn
vào nguyên liệu ngoại nhập. Do đó, Mỹ trở thành thị trường xuất
khẩu thuỷ sản hấp dẫn đối với tất cả các nước trên thế giới trong đó
có Việt nam. Chỉ cần tăng lên 1% trong kim ngạch nhập khẩu thuỷ
sản của Mỹ cũng đã mở ra cơ hội vàng cho Việt nam tăng kim ngạch


xuất khẩu thuỷ sản lên gấp hai lần.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó, trong thời gian vừa
qua, Ngành thuỷ sản Việt nam cũng gặp không ít khó khăn trong
việc xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ.Suy thoái kinh tế thế
20
giới có thể sẽ tác động tiêu cực đến kim ngạch xuất khẩu thủy
sản Việt Nam năm 2009.Tuy tổng sản lượng thủy sản năm
2008 ước đạt 4,58 triệu tấn, tăng 9,2% so với năm 2007, mức
cao nhất từ trước tới nay nhưng theo dự báo của Hiệp hội
Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), kim ngạch
tăng trưởng năm 2009 sẽ giảm khoảng 15-20 % so với năm
2008.Nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút này được
Vasep đưa ra là do khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế
thế giới nên những khó khăn về tín dụng, tỷ giá hối đoái, nhu
cầu tiêu dùng sẽ tác động mạnh đến thương mại thủy sản
năm 2009.

2.2 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THUỶ SẢN VÀO THỊ
TRƯỜNG MỸ TRONG THỜI GIAN VỪA QUA.
2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu.
Từ năm 1994, Ngành thuỷ sản Việt nam đã nhận thấy việc mở
rộng thị trường xuất khẩu là rất quan trọng trong việc gia tăng giá trị
xuất khẩu cũng như hình thành thế chủ động và cân đối về thị
trường, tránh không lệ thuộc vào thị trường truyền thống Nhật Bản.
Do đó, Ngành đã chủ trương mở rộng xuất khẩu sang nhiều thị
trường khác như EU, Trung Quốc,... và đặc biệt là thị trường Mỹ.
Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối quý II, chi phí sản xuất tăng cao
và kinh tế thế giới sa sút đã ảnh hưởng tới thị trường thuỷ
sản. Nhu cầu đối với thuỷ sản trên thế giới thường tăng lên
vào tháng 11 và đầu tháng 12. Tuy nhiên, năm 2008, các

nhà xuất khẩu chứng kiến số lượng đơn hàng giảm bớt. Tình
hình trở nên tồi tệ hơn khi một số khách hàng yêu cầu hạ
giá bán ngay cả khi hàng đã được chuyển tới. Nhiều nhà
nhập khẩu thì cố gắng đàm phán ký lại hợp đồng. Sau khi
đồng USD tăng giá trở lại so với đồng EUR và nhiều đồng
tiền khác, khách hàng Châu Âu đều muốn giá thuỷ sản hạ
xuống. Trong khi EU lại là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn
trên thế giới. Xuất khẩu thuỷ sản trên toàn cầu có thể giảm
20-30% về khối lượng trong giai đoạn quý IV/2008 - quý
I/2009 do kinh tế toàn cầu suy thoái khiến nhu cầu đối với
thuỷ sản sụt giảm. Thị trường thuỷ sản thế giới chịu ảnh
hưởng bởi sức mua giảm, đặc biệt ở các thị trường tiêu thụ
21
hàng đầu thế giới do giá cao và kinh tế khó khăn, đồng thời
cũng chịu tác động bởi tình hình khai thác, đặc biệt là hải
sản tự nhiên. Người tiêu dùng có xu hướng tiêu thụ các mặt
hàng giá rẻ và cũng ít đi ăn hàng hơn.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP), tính
chung 9 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ đạt 534,5
triệu USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nguyên nhân sụt giảm kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Mỹ thời gian
trước được cho là do nền kinh tế Mỹ suy thoái, sức mua của người dân bị
hạn chế, đồng đôla Mỹ mất giá. Thêm vào đó, có thời điểm đồng Việt Nam
khan hiếm, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản gặp khó trong việc chuyển
đổi tiền, doanh nghiệp và người nuôi trồng thủy sản đều thiếu vốn đầu tư.
Ngoài ra, việc Mỹ áp thuế chống bán phá giá một số mặt hàng của Việt Nam
cũng khiến xuất khẩu thủy sản sang Mỹ chịu tác động tiêu cực.
Ngày 19/9 , Bộ Thương Mại Mỹ (DOC) đã thông báo lùi thời hạn công bố
kết quả sơ bộ của đợt xem xét hành chính thuế chống bán phá giá đối với
tôm Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ tới ngày 2/3/2009, thay vì trước 31/10

năm nay như dự kiến.
Riêng đối với mặt hàng cá tra, basa philê đông lạnh, Uỷ ban Thương mại
Quốc tế Mỹ đã biểu quyết việc tiến hành đợt xem xét hành chính 5 năm áp
thuế chống bán phá giá để đi đến quyết định tiếp tục áp thuế hay xóa bỏ.
Trước những khó khăn này, VASEP vẫn cho rằng phán quyết của DOC cũng
không làm các nhà nhập khẩu Mỹ e ngại hàng Việt Nam và dự kiến năm nay
kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường này sẽ đạt khoảng
850 triệu USD.
22

Theo số liệu thống kê của Tổng Cục Hải quan, trong tháng 1 năm 2009, Việt
Nam đã xuất khẩu hàng hải sản sang 39 thị trường, đạt kim ngạch
212.162.171 USD (giảm 88.634.831 triệu USD, tức giảm 29,47 % so cùng
kỳ).
Trong đó, xuất khẩu Nhật đạt kim ngạch cao nhất 40.156.600 USD (chiếm
18,93% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước tháng 1), tiếp đến
thị trường Mỹ đạt 31.236.691 triệu USD (chiếm 14,72%), sau đó là các thị
trường Hàn Quốc, Đức, Tây Ban Nha, Trung Quốc…
Trong tháng 1, riêng tôm xuất khẩu sang các thị trường truyền thống giá
trung bình 1 kg giảm trên 10% so cùng kỳ. Giảm mạnh nhất là giá tôm xuất
sang Trung Quốc giảm 28%, sang Thuỵ Sĩ giảm 25%, sang Canada giảm
24%, sang Australia giảm 17%… Tuy vậy, vẫn có vài điểm sang là XK tôm
sang Trung Quốc tăng 550% khối lượng và 300% giá trị, Hàn Quốc tăng
33% và 25%, Bỉ tăng 66% và 50%, Thuỵ Sĩ tăng 73% và 30%; Italia tăng
5% và 33%; XK tôm sang Nhật tuy giảm nhưng giá XK trung bình tăng
13%.
Theo nhận định, tình hình sản xuất tôm trong nước và XK thời gian tới chủ
yếu phụ thuộc vào khả năng phục hồi kinh tế của các thị trường truyền thống
là Mỹ, Nhật, EU. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu tôm năm 2009 có thể giảm
ít nhất 30% so năm 2008

Thị trường xuất khẩu thủy sản tháng 1 năm 2009:
STT Thị trường ĐVT Tháng 1
1 Ai Cập USD 1.829.899
2 Anh USD 3.236.218
3 Ả Rập Xê út “ 154.440
4 Ba Lan “ 1.870.756
5 Bỉ “ 5.940.229
6 Bồ Đào Nha “ 1.509.544
7 Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất “ 1.679.276
8 Campuchia “ 854.245
23
9 Canada “ 5.102.624
10 Đài Loan “ 3.121.189
11 Đan Mạch “ 609.481
12 Đông Timo “ 460.979
13 CHLB Đức “ 14.098.553
14 Hà Lan “ 5.487.158
15 Hàn Quốc “ 17.298.099
16 Hoa Kỳ “ 31.236.691
17 Hồng kông “ 5.647.331
18 Hy Lạp “ 875.026
19 Indonesia 387.874
20 I rắc “ 246.965
21 Italia “ 5.483.132
22 Israel “ 711.861
23 Malaysia “ 1.941.727
24 Mexico “ 3.246.555
25 Newzealand “ 182.438
26 Nhật Bản “ 40.156.600
27 Nigieria “ 375.000

28 Australia “ 5.944.237
29 Pháp “ 4.127.667
30 Philippines “ 645.649
31 Rumani “ 1.258.065
32 CHSéc “ 558.778
33 Singapore “ 3.968.058
34 Tây Ban Nha “ 9.240.067
35 Thái Lan “ 3.819.411
36 Thuỵ Điển “ 749.621
37 Thuỵ Sĩ “ 2.331.042
38 Trung Quốc “ 6.241.746
39 Ucraina “ 4.787.650
Tổng cộng “ 212.162.171
(tổng hợp-vinanet)
2.2.4. Phương thức xuất khẩu
Hiện nay đa số các nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt nam chủ yếu
ký kết hợp đồng bán hàng cho các nhà thương mại bán buôn của
Mỹ, theo giá FOB, rồi từ đây thuỷ sản mới được cung cấp cho các
nhà chế biến và hệ thống kinh doanh ban lẻ của Mỹ. Việc tìm kiếm
khách hàng, xây dựng hợp đồng, xác định giá cả mua bán thuỷ
sản,... phía Việt nam luôn ở thế bị động, phụ thuộc vào các đối tác
Mỹ ( khoảng 120 đối tác). Trong khi đó, các doanh nghiệp Mỹ là
những người mua hàng rất chủ động: họ tham quan, khảo sát tận nơi
24

×