Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Phương thuốc đặc biệt từ một Sinh Vật Rất Độc Đáo docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.26 KB, 11 trang )

Phương thuốc đặc biệt từ một Sinh
Vật Rất Độc Đáo

Cá ngựa, gọi theo tên Hán-Việt, Hải mã (tên gọi này có thể gây nhầm
lẫn với một động vật khác, cũng gọi là Hải mã = Morse thuộc loài có vú, rất
lớn trong họ hải cẩu (Odobenidae).
Trong một bản phúc trình đặc biệt, đưa ra vào năm 1995, tại Hội nghị
Quốc tế về Cá ngựa tổ chức tại Cebu, Philippines, nhà nghiên cứu người
Canada, Amanda Vincent đã báo động về số lượng cá ngựa đã và đang bị sụt
giảm quá mức trong vùng biển Đông Nam Á. Riêng tại Phi, số lượng cá
ngựa sụt đến 70% (Phi cung cấp mỗi năm khoảng 5 triệu con cá ngựa cho thị
trường Trung Hoa, HongKong, Nhật, Đài loan, Singapore và Nam Hàn).
Nhu cầu cá ngựa mỗi năm trên thị trường thế giới lên đến 20 triệu con đa số
do Phi, Việt Nam, Ấn độ, Thái lan và Indonesia cung cấp ở cả hai dạng cá
ngựa sống và cá phơi khô.
Theo văn hóa của người Seri (vùng Tây Bắc Mexico) thì Cá ngựa là
một người, khi chạy trốn kẻ thù đang đuổi bắt, đã trốn xuống biển, nhét đôi
dép vả thắt lưng nơi ngang bụng Văn hóa Hawaii xem cá ngựa như tượng
trưng cho một tình bạn bất diệt.
Cá ngựa được một số tổ chức dùng làm biểu tượng như Hiệp hội
những người bệnh bị Kinh phong (National Society for Epilepsy) có một con
thú đại diện (mascot) là chú cá ngựa mang tên Caesar (Julius Caesar là vị
vua La mã, bị bệnh kinh phong). Tổ chức đã chọn cá ngựa vì tuyến yên ngựa
(hippocampus) trong óc dễ tổn thương khi có những cơn co giật do kinh
phong.
Cá ngựa hay Hải mã, loài Hippocampus thuộc họ cá Syngnathidae. Họ
này gồm cả các loài Cá chìa vôi (Pipefish), Cá rồng lá (Leafy sea dragon) và
một số cá ít được biết đến như flute mouths, shrimp-fish.
Cá ngựa, theo tên gọi, có hình dạng của đầu giống như ngựa: đầu nằm
ngang vuông góc với thân hoặc gập xuống, được xem là một loài cá thân dẹt
có xương, không vẩy, da cá mỏng và kéo dãn để bao bọc chuỗi xương xếp


theo từng vòng hay đốt trên toàn thân. Số đốt thay đổi tùy loài. Cá có một
vòng 'triều thiên' trên đầu, vòng này là đặc điểm riêng của từng con, khác
nhau gần như vân tay nơi người. Mắt có thể di động riêng từng bên theo kiểu
mắt tắc kè. Cá có mõm hình trụ, kéo dài như một cái ống hoạt động theo
kiểu ống chích, hút con mồi rất mạnh. Bụng cá phình, không vây. Cá ngựa
không có vi đuôi, chúng bơi rất kém bằng cách sử dụng các vi lưng, vẫy qua
lại thật nhanh tạo sức đẩy và các vi ngực, gắn sau mắt, dùng để bẻ hướng
bơi.
Cá ngựa còn có một đặc tính rất độc đáo, được giới Phụ nữ rất ưa
thích vì đây là loài cá mà con đực mang bầu và đẻ con! Trước khi kết hợp,
Cá ngựa có những cách thức ve vãn nhau bằng cách cuốn đuôi và bơi lội
quanh nhau hàng giờ, và thân thay đổi màu rất đẹp. Lúc kết hợp, cá ngựa
mái đặt vào túi nơi bụng của con đực khoảng 600 trứng màu đỏ xậm và cá
ngựa đực mang bầu đến khi sanh nở (thời gian mang bầu, tùy loài, kéo dài từ
2 đến 4 tuần). Bọc nơi bụng là một loại tử cung và trứng được nuôi bằng
dưỡng chất từ máu của cá ngựa đực. Sau đó cá ngựa con sẽ được sanh từ bọc
(cá ngựa đực cũng trải qua thời gian đau khi sanh, có thắt bọc để đảy cá
ngựa con ra khỏi bọc) và cá ngựa con sẽ trưởng thành sau 3 tháng.
Cá ngựa thường sinh sống trong những vùng biển nhiệt đới và ôn đới,
nơi vũng nước tương đối cạn, tại khắp nơi trên thế giới. Do khả năng bơi lội
kém nên chúng sống tập trung tại những khu vực kín được bảo vệ như các
vùng đồng cỏ nơi thềm biển, rặng san hô và đầm đáy biển, dùng đuôi quấn
vào những giá thể. Cá ngựa thường sống tụ quanh một vùng riêng trong đó
các con đực quanh quẩn trong vùng diện tích chừng 1m vuông và con mái
trong vùng chừng 100 lần rộng hơn. Chúng ăn tép nhỏ, cá bột và phiêu sinh
vật, rong, vi tảo.
Có khoảng 35 loài cá ngựa trong đó 5-6 loài sống trong vùng biển
Việt Nam. Dọc duyên hải Thái bình dương Hoa Kỳ, từ Bắc xuống đến Nam
Mỹ cũng có 4 loài cá ngựa, kích thước từ rất nhỏ, chỉ dài 2.5 cm đến lớn cỡ
33cm Tại khu vực Địa trung hải, có khoảng 3 loài cá ngựa.

Cá ngựa tại Âu châu và Hoa Kỳ:
Tại Âu-Mỹ, cá ngựa ít được chú ý, hiện nay cá chỉ được khai thác,
nuôi làm thú cảnh. Cá bắt trong thiên nhiên tương đối khó nuôi trong các hồ
cá cảnh vì chúng ăn các thực ăn sống như tép nhỏ, khi nuôi trong hồ hẹp dễ
bị trầm cảm, làm suy nhược hệ miễn nhiễm, gây mắc bệnh dễ dàng. Gần
đây, do kỹ thuật nuôi và tạo giống nhân tạo, cá ngựa đã sinh sản nhiều hơn
trong các điều kiện môi trường bị bắt giữ nên cá 'nuôi' khỏe hơn, ít bệnh.
Chúng được nuôi bằng thực phẩm đóng gói, vi sinh vật đông lạnh nên việc
nuôi trong hồ tại gia trở thành tương đối dễ dàng hơn.
Cá ngựa tại Âu châu: Trong vùng Địa trung hải có loài Hippocampus
hippocampus mõm dài, H. brevirostris mọm ngắn và H. fuseus, di cư từ Biển
đỏ sang.
Cá ngựa tại Hoa Kỳ: Tại Hoa Kỳ, dọc bờ biển Đại Tây Dương và
trong vùng Vịnh Mexico, loài cá ngựa thường gặp nhất là Hippocampus
erectus (Lined seahorse, Northern seahorse). Cá có thể lớn đến 19-20 cm,
màu sắc thay đổi từ đen, nâu đến vàng, cam, sống tại độ sâu từ 0.5m đến
30m trong vùng biển từ Massachusetts xuống đến South Carolina. Loài
Hippocampus reidi (Slender seahorse), (Long snout seahorse), lớn khoảng
17 cm, thân màu nâu có những đốm trắng (nhiều nhất nơi phần đuôi), gặp tại
North Carolina, quanh Bermuda. Cá ngựa dùng làm thuốc trong Đông,
Nam dược:
Một số loài cá ngựa được chọn để làm dược liệu:
- Hippocampus kellogi: Kellogg's seahorse, O-umi-uma (Nhật)
Tại Việt Nam, cá được gọi là Cá ngựa 'Kenlô' hay Cá ngựa thân
trắng= Bạch hải mã , do ở bên thân có một số vệt trắng hình con sâu. Cá dài
chừng 14-15 cm. Con lớn nhất bắt được dài đến 28 cm. Phần bụng có 11 đốt.
Phần đuôi có từ 39 đến 41 đốt. Vây lưng có 17-19 vi, vây ngực cũng 17-19
vi. Cá phân bố trong vùng ven biển Quảng đông, Phúc kiến , Ấn độ, Nhật,
Phi và trong vùng Vịnh Bắc Việt.
Hippocampus trimacullatus:

Được gọi là Cá ngựa thân chấm (Cá ngựa ba khoang, Cá ngựa ba
chấm = Tam ban hải mã) vì trên lưng có nhựng vết đen lớn, thường là 3
đốm. Toàn thân dài chừng 12 cm. Cá thường gặp trong vùng ven biểm Nam
Trung hoa, Bắc việt và cả tại Đài loan, Philippines. Phần đuôi tương đối dài,
có đến 41 đốt và gai trên đốt có đầu ngắn và tù. Vây lưng có 20-21 tia và
vây ngực 17-18 tia.
Hippocampus kuda: Yellow seahorse, Spotted seahorse.
Đây là loài thông dụng nhất và được ghi trong Dược Điển của Cộng
Hòa Nhân dân Trung Hoa. Cá thường gặp trong các vùng biển Trung Hoa,
Nhật. Singapore, Indonesia, Úc. Tại Việt Nam, cá được gọi là Cá ngựa lớn
(Đại hải mã). Dài khoảng 14 cm, tối đa chừng 17 cm. Mồm hình ống, miệng
nhỏ ở tận cùng của mõm.Toàn thân được bao bọc bởi các đốt xương cong.
Thân có gai ngắn. Vây lưng có 17-18 tia, vây ngực 15-18 tia. Thân thường
màu đen, có khi vàng nhạt hay màu kem, và có đốm xậm hơn (thường gặp
nơi con mái) và cũng có thể có màu của cát, giúp chúng dễ lẫn vào môi
trường chung quanh. Cá ngựa lớn sống nơi độ sâu 0-8m, tối đa 55m. Cá sinh
sản quanh năm. Trứng có đường kính trung bình 1.8 mm, thời gian mang
thai 17 ngày. Cá con khi nở dài chừng 7mm.
Hippocampus histrix:
Còn gọi là Cá ngựa gai (Thích hải mã, Thiết hải mã) do thân có rất
nhiều gai. Toàn thân được cấu tạo bởi các đốt xương vòng. Đỉnh đầu có
chùm gai to và cao. Mõm hình ống. Toàn thân màu nâu nhạt, riêng đĩnh các
gai trên thân có màu nâu đen.
Hippocampus japonicus:
Cá ngựa Nhật (Bắc hải mã), chỉ lớn chừng 4 cm, nhưng rất được ưa
chuộng tại Đài loan để làm thuốc. Phần đuôi tương đối ngắn có 37-38 đốt.
Do bị đánh bắt quá mức, số lượng cá ngựa đã bị giảm sút rất nhiều, do
đó để cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ, nhiều quốc gia như Trung Hoa, Thái
Lan, Nhật đã tổ chức nuôi cá. Việt Nam cũng cho cá đẻ nhân tạo và nuôi
trứng tại các đầm nước mặn, nước lợ tại các vùng ven biển miền Trung như

Tuy Hòa, Bình định. Tỷ lệ cá sống và tăng trưởng rất khả quan, có thể đạt
trên 75 %.
Vị thuốc 'Hải mã' trong Đông dược:
Dược học Tây phương không chú trọng đến Cá ngựa, trái lại cá ngựa
được xem là một dược liệu quý trong Đông dược.
Vị thuốc được đặt tên là Hải mã hay Thủy mã (Shui ma). Nhật dược
(Kampo) gọi là Kaiba, Hàn quốc là Heama. Vị thuốc đã được ghi chép trong
'Bản thảo cương mục thập di'.
Vị thuốc là cá ngựa nguyên con, được chế biến theo phương thức sau:
Tuy cá ngựa có thể đánh bắt quanh năm, nhưng tốt nhất là trong các tháng 8
đến 11. Mổ cá, bỏ nội tạng, uốn đuôi cho cong, rồi phơi hay sấy khô. Sau đó
chọn hai con củng cỡ, cột chung lại (chưa hẳn là một con đực một con cái)
thành đôi. Ngoài ra có thể tẩm rượu, sao rồi tán thành bột, hay ngâm rượu
hồi, rượu quế một thời gian rồi mới phơi hoặc xấy khô.
Cá ngựa (Hải mã) được cho là có vị mặn-ngọt, tính ấm và tác động
vào các kinh mạch thuộc Thận và Can.
Hải mã có những tác dụng:
Bồi bổ Thận và tráng 'Dương' được dùng để trị các chứng bất lực, tiểu
són, tiểu đêm, hơi thở ngắn (hụt hơi) và suy nhược nơi người cao niên.
Thường được phối hợp với Câu Kỷ tử (Gou-qi-zi=Fructus Lycii) và Đại táo
(Da-zao, hay Táo tàu).
Bồi dưỡng 'Huyết', trị các chứng xuất huyết, đau do ứ huyết, sưng đau
do mụn nhọt, nỗi cục nơi bụng.
Bồi bổ cơ thể: dùng chung với thịt heo nạc để trị trẻ em ốm còi, suy
nhược.
Không nên dùng hải mã trong thời kỳ có thai.
Liều dùng: 4 đến 12 gram
Những nghiên cứu về dược lực và thử nghiệm lâm sàng:
Hoạt tính nội tiết:
Các chất ly trích tử hải mã bằng alcohol có hoạt tính kéo dài thời gian

rụng trứng, tăng trọng lượng của tử cung và buồng trứng nơi chuột cái thử
nghiệm. Chất này có các hoạt động loại androgen trên các tuyến nhiếp hộ và
dịch hoàn. Các hoạt tính này yếu hơn Dâm dương hoắc (Ying-yang-huo=
Herbi Epimedii), Xà xàng tử (She chuang zi= Fructus Cnidii Monnieri)
nhưng mạnh hơi chất ly trích từ Tắc kè. (Dan Bensky, Chinese Herbal
Medicine Materia Medica trang 356).
Tác động về tình dục:
Chất ly trích hải mã bằng alcohol giúp kéo dài thời gian ân ái nơi
chuột thữ nghiệm.
Đặc chế Hải mã của Trung Hoa:
Trong danh mục các dược phẩm đặc chế của Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa có ghi vài loại thuốc bổ trong thành phần có hải mã.
Hải mã bổ thận hoàn (Hai Ma Bu Shen Wan)
Đặc chế này phối hợp đến 20 dược liệu khác nhau, trong đó Hải mã
chiếm 10% (tính theo trọng lượng tổng cộng), ngoài ra còn có Nhân sâm
(10%), Long cốt (5%), Câu kỷ tử (5%), thận Lừa (3%), Gân nai (4%). Bồ cốt
chỉ (3%), Phục linh (3%), Hoàng kỳ (5%), Hồ đào nhân (3%), Lộc nhung
(6%), Tắc kè (6%), Hải cẩu thận (5%), Hổ cốt (6%), Sơn thù du (3%),
Đương quy, Đinh hương, Sinh địa.
Thuốc được dùng để trị những trường hợp suy nhược Khí-Huyết và
suy Dương nơi Thận, trong các trường hợp bần tinh (thiếu tinh trùng), bất
lực, chân tay yếu nhược, đổ mồ hôi ban đêm, mất ngủ. Thuốc do Xưởng
dược Thiên Tân sản xuất dưới tên Sea horse Genital Tonic Pills; General
Tonic and Genital Strengthener.
Chí Bảo Tam biên hoàn (Zhi Bao San Bian Wan)
Đặc chế này phối hợp 13 dược liệu trong đó ngoài Hải mã còn có các
dược liệu bổ Dương như Lộc nhung, Hải cẩu thận, Dịch hoàn Nai, Dịch
hoàn Chó vàng, Dâm dương hoắc, Ba thiên kích. Thuốc cũng được dùng để
trị các chứng bất lực, thiếu tinh trùng; có thể dùng cho những vị cao niên suy
nhược, các chứng tóc bạc sớm.

Cá ngựa theo quan niệm dân gian: Tại Việt nam, dân đánh cá cho
rằng cá ngựa tươi ngâm rượu mới quý, do đó khi ra khơi họ thường mang
theo rượu trắng để ngâm cá ngay sau khi đánh bắt và tốt nhất là những đôi cá
bắt được trong lúc chúng đang giao tình, và mắt còn nguyên.
Có thể dùng cá ngựa để trị ho-suyễn, thở khò khè: Sắc 5 gram cá ngựa
với 10 gram Đương quy trong 200 ml nước, đến khi còn 50 ml. Uống mỗi
ngày.
Chữa sưng thận kinh niên: Dùng 1 con cá ngựa, rang khô đến khi chín
vàng, tán thành bột. Lấy 1 quả thận heo, xẻ đôi rửa sạch, nhồi bột cá ngựa
vào, cột chặt và hấp cách thủy. Ăn trong ngày, liên tục trong 2 tuần.
Chữa liệt dương: Ngâm trong 1 lít rược trắng hay vodka 30 gram bột
cá ngựa, 30g ban long sâm, 20 g cốt toái bổ, 20 g long nhãn Ngâm 5-7 ngày
(hay lâu hơn càng tốt). Uống mỗi ngày 20-40 ml.

×