Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khi dùng thuốc đặt âm đạo doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.69 KB, 6 trang )

Khi dùng thuốc đặt âm đạo


Thuốc đặt âm đạo gồm các chất kháng các tác nhân gây bệnh,
hay các chất làm thay đổi môi trường âm đạo nhằm trị các bệnh viêm
nhiễm đường sinh dục. Nếu dùng không đúng chỉ định, không đúng
cách, thuốc sẽ không mang lại hiệu quả mà còn gây hại.
Các loại thuốc
- Loại chứa hormon: Estrogen làm cho niêm mạc âm đạo phát triển để
có độ dày, độ mềm mại cần thiết và tiết ra dịch âm đạo, làm cho giao hợp có
hứng thú, không đau. Estrogen còn tạo ra lượng glycogen dồi dào, làm cho
vi khuẩn lactobacillus phát triển, tiết ra acid lactic giữ cho môi trường âm
đạo có tính acid (pH=3,5-4,5). Trong môi trường ấy vi khuẩn có lợi phát
triển, vi khuẩn có hại bị hạn chế. Người mãn kinh, lượng estrogen giảm sút,
gây trở ngại cho sinh hoạt tình dục, làm cho các tác nhân gây bệnh dễ thâm
nhập phát triển. Thuốc đặt chứa estrogen nhằm chống lại các biểu hiện này.
- Loại chứa một kháng sinh: Dùng để đặc trị một tác nhân gây bệnh cụ
thể. Ví dụ: thuốc trứng chứa metronidazol 500mg đặc trị trùng roi. Viên đặt
chứa clotrimazol đặc trị nấm Candida.
- Loại chứa nhiều kháng sinh: Để kháng cùng lúc nhiều tác nhân gây
bệnh. Chẳng hạn tergynan chứa ternidazol (trị trùng roi), nistatin (diệt nấm),
neomycin (kháng khuẩn). Flagystatine chứa metronidazol (trị trùng roi),
nistatin (trị nấm). Neo Penotrean chứa miconazol (trị nấm), metronidazol
(trị trùng roi)
Dạng thuốc
Yêu cầu của thuốc đặt âm đạo là hoạt chất tan ra được, tác dụng tại
chỗ, lý tưởng nhất là giữ được môi trường âm đạo trong khoảng pH=3,5-4,5.
Viên trứng đặt, viên nhét có que nhét chuyên đặt âm đạo, gần đạt các yêu
cầu trên. Viên nén có loại chuyên đặt âm đạo như tergynan, nhưng có một
số dùng đặt âm đạo nhưng chỉ là loại viên uống thông thường như viên
chlorocid, metronidazol


Dùng thế nào cho an toàn hiệu quả?
+ Viêm âm đạo thường do một tác nhân chính gây ra. Mỗi tác nhân
gây ra các triệu chứng điển hình có thể tự nhận biết qua khám, cấy dịch tiết
âm đạo, soi tươi xác định sự có mặt tác nhân đó. Đa phần là soi tươi, dễ, ít
tốn kém, hầu hết cơ sở y tế từ tuyến huyện trở lên đều làm được, khi cần
thiết mới dùng kỹ thuật xét nghiệm khó, đắt tiền, ở tuyến cao. Ví dụ: Người
nhiễm trùng roi (Trichomonas vaginalis) có khí hư màu vàng, loãng, có mùi
hôi, nếu có bội nhiễm thì ngả sang màu xanh, bị rát bỏng nhất là khi giao
hợp, khi lau sạch khí hư thấy âm đạo, cổ tử cung có những chấm đỏ không
đều, bôi lên dung dịch Lugol (Iod) sẽ thấy bắt màu rất rõ. Tuy nhiên những
dấu hiệu trên chưa đặc hiệu. Cần làm thêm xét nghiệm giúp cho chẩn đoán
như soi tươi, cấy dịch tiết âm đạo, cho kết quả chính xác 60-70%. Khi cần,
mới dùng các kỹ thuật xé thăm dò AND, tìm kháng thể đơn dòng có độ
chính xác đến 99,8% nhưng ít có cơ sở làm được. Sau khi có kết quả khám
xét nghiệm ở tuyến dưới có độ chính xác tương đối (60-70% như trên) có
thể chọn khởi đầu thuốc trứng metronidazol .
+ Khi không có điều kiện khám, xét nghiệm phân biệt, trước đây
được coi là viêm âm đạo “không điển hình” dùng các biệt dược có nhiều
kháng sinh (kháng nấm + kháng khuẩn); có người còn cho cách dùng viên
đặt “đa năng” này là “bắn một mũi tên trúng nhiều đích”. Tuy nhiên ngày
nay nhiều thầy thuốc khuyên không nên lạm dụng. Lạm dụng sẽ dễ sinh
kháng thuốc.
+ Cần dùng đủ liều trong khoảng 7-10 ngày, không nên quá 14 ngày.
Khi đã dùng đúng vậy mà không đáp ứng thì có thể thay thuốc. Không nên
dùng kéo dài, dễ sinh kháng thuốc. Một trường hợp sinh kháng thuốc khác
là dùng liều quá thấp, hoặc dùng không đều đặn lại dài ngày. Chẳng hạn khi
bị viêm âm đạo do nấm Candida khởi đầu dùng một đợt clotrimazol 6-12
ngày, nếu cần có thể lặp lại 1-2 đợt. Cách thông thường là dùng kem bôi 1%
cộng với viên trứng đặt 500mg hay viên nhét sâu vào âm đạo100-200-
500mg trước khi ngủ. Tùy theo hàm lượng clotrimazol là 100-200-500mg

mà số ngày cần dùng viên đặt tương ứng lần lượt là 6-3-1 ngày.
+ Khi bệnh nặng, dùng thuốc đặt không hiệu quả thì có thể kết hợp
thêm thuốc uống. Ví dụ: bị viêm âm đạo do nấm Candida khởi đầu dùng
thuốc bôi thuốc đặt clotrimazol, khi cần mới dùng kết hợp với thuốc phổ
rộng, mạnh là fluconazol.
+ Viêm âm đạo có khi tái đi tái lại (do nhiễm lại từ bên ngoài, do tự
nhiễm từ chính mình). Lần đầu tiên nên chọn một thuốc đặc hiệu, có tác
dụng vừa phải, rẻ tiền; chỉ khi không đáp ứng mới dùng một thuốc đặc hiệu
khác mạnh hơn, đắt tiền hơn. Ví dụ nhiễm trùng roi, khởi đầu đặt
metronidazol nếu không đáp ứng có thể chuyển sang đặt ternidazol.
+ Với loại thuốc viên : Với viên chỉ dùng để đặt âm đạo (như
tergenan), trước tiên, cần làm ẩm (nhưng không nhũn hay rã) bằng cách
nhúng viên vào nước 20-30 giây hay đặt viên lên một miếng gạc sạch đã làm
ẩm, sau đó, đặt vào âm đạo. Với các viên không chuyên dùng cho đặt âm
đạo, trước kia người ta hay dùng một số viên thuốc uống thông thường để
đặt âm đạo như viên chlorocid, viên metronidazol. Hiện nay, nhiều thầy
thuốc khuyên không nên dùng vì các viên này khó tan, có nhiều tá dược
(tinh bột, calcicarbonat, chất keo ) sẽ gây nhiễm khuẩn, làm thay đổi môi
trường âm đạo.
+ Cần chú trọng kỹ thuật đặt: Nên đặt vào buổi tối trước khi đi ngủ.
Nếu không đặt vào buổi tối thì sau khi đặt phải nằm nghỉ vài tiếng. Rửa sạch
tay, kẹp viên thuốc giữa hai ngón tay đưa vào âm đạo. Dùng ngón tay đẩy
thuốc vào bên trong. Khi đặt cần ở tư thế nửa nằm nửa ngồi, ngồi xổm hay
đứng gác một chân lên ghế thấp. Người trẻ tuổi chưa từng tự đặt bao giờ nên
nhờ thầy thuốc hay một người khác quen đặt hướng dẫn.
+ Tránh giao hợp trong thời gian dùng thuốc nhằm làm cho thuốc có
hiệu quả và tránh sự lây nhiễm từ người mình giao hợp.
+ Một vài trường hợp thuốc gây dị ứng. Nên trao đổi cụ thể với thầy
thuốc. Nếu nhẹ, tiếp tục liệu trình điều trị. Nếu nặng nên ngừng thuốc hoặc
đổi thuốc.

+ Một vài trường hợp nhất thiết không nên lạm dụng thuốc đặt kháng
sinh: như trường hợp huyết trắng sinh lý, trường hợp viêm âm đạo trẻ em
không đặc hiệu (do các chất kích thích mà không do nhiễm khuẩn). Lạm
dụng không chỉ gây nên sự kháng thuốc mà còn có thể làm mất cân bằng
sinh thái hệ vi sinh, gây bội nhiễm các tác nhân gây bệnh khác.

×