Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Sử dụng các thị trường đề quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore part 3 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.49 KB, 9 trang )

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 19 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ

Quỹ Phát triển Chuỗi xí nghiệp
Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng căng thẳng hơn, một xu hướng phổ biến là càng
ngày càng có nhiều hơn các liên minh chiến lược giữa các cơng ty để chia sẻ rủi ro đầu tư
trong những chuỗi cơng nghiệp mới. Quỹ Phát triển Chuỗi xí nghiệp (CDF) được thành lập
năm 1993 nằm dưới Hội đồng Phát triển Kinh tế để giải quyết những thiếu sót trong các
chuỗi cơng nghiệp, mở rộng quan hệ đối tác với các cơng ty đa quốc gia (MNC), đẩy nhanh
sự phát triển của những xí nghiệp trong nước có nhiều triển vọng. Vốn của quỹ này hiện nay
đã lên đến 3,5 tỷ USD.
Dự án đầu tư chiến lược có sử dụng vốn CDF được kỳ vọng phải có tính khả thi về
thương mãi. Để áp đặt kỷ cương, dự án đầu tư còn được kỳ vọng phải tạo ra suất sinh lợi chỉ
tiêu tối thiểu. Các dự án được tiến hành trên cơ sở cùng-đầu tư với khu vực tư nhân, một
minh chứng rằng nếu dự án là đáng giá về mặt kinh doanh thì khu vực tư nhân sẽ sẵn lòng
cam kết nguồn lực vào, và một sự thừa nhận rằng cán bộ chính phủ khơng phải là người phù
hợp để tự mình quyết định liệu dự án nào là đáng được hỗ trợ nhất cho tương lai.
Các dự án CDF đã giúp phát triển những ngành cơng nghiệp chiến lược có năng lực
mới, cũng như những ngành cơng nghiệp hỗ trợ (phục vụ). Dự án cùng-đầu tư giữa CDF với
United Microelectrics Corporation, một trong những cơng ty lớn nhất thế giới trong ngành
chế tạo chất liệu xốp, là một trong những ví dụ. Dự án này đã thu hút nhiều cơng ty cơng


nghiệp khác đến Singapore, tăng cường thêm năng lực cốt lõi của đất nước về qui trình cơng
nghệ chế tạo chất liệu xốp và tạo ra rất nhiều việc làm mới.
CDF có nhiều dự án cùng-đầu tư với các MNC lớn, như thành lập nhà máy
polyethylene ‘mật độ cao’ với Chevron Phillips Chemical International Holdings và thành
lập cơng ty khám phá dược phẩm với Chiron Corporation. Thơng qua các dự án đầu tư đó,
CDF còn giúp các cơng ty trong nước phát triển thành những doanh nghiệp thành cơng có
đẳng cấp quốc tế và hỗ trợ cho các nỗ lực khu vực hóa và tồn cầu hóa của họ. Một ví dụ là
Singapore Shinei Sangyo Pte Ltd, một cơng ty thiết kế và chế tạo trong nước, đã thành lập
nhà máy ở Trung Quốc và Hoa Kỳ để phục vụ cho các khách hàng MNC.

Quỹ Đầu tư Doanh nghiệp Cơng nghệ Mới (TIF)
Một ngành đầu tư vốn mạo hiểm năng động sẽ tạo ra các tác động số nhân và lan truyền tích
cực đến các khu vực còn lại của nền kinh tế. Vì thế, TIF được thành lập vào tháng 4 năm
1999 với số vốn 1 tỷ USD để phát đi tín hiệu cho sự cam kết của chính phủ xây dựng
Singapore thành một trung tâm đầu tư vốn mạo hiểm và để làm chất xúc tác nhằm thu hút và
ni dưỡng “khởi sự doanh nghiệp cơng nghệ” ở Singapore.
Cũng như trường hợp các dự án CDF, chính phủ cung cấp tiền trên cơ sở cùng-đầu tư
với khu vực tư nhân nhằm bảo đảm kỷ cương thị trường. Đầu tư thơng qua TIF do tư nhân
chủ đạo, còn chính phủ đóng vai trò hỗ trợ, nghĩa là chính phủ chỉ đầu tư vào những dự án
mà khu vực tư nhân đã quyết định theo đuổi.
TIF đã tạo ra một lực đẩy đáng kể cho ngành đầu tư vốn mạo hiểm ở Singapore. Các
hãng đầu tư vốn mạo hiểm hàng đầu, như Warburg Pincus, đã bị thu hút vào Singapore thành
lập doanh nghiệp. Ngồi ra, TIF còn tạo ra các cơ hội cùng-đầu tư giữa các hãng đầu tư vốn
mạo hiểm nước ngồi và các cơng ty đặt trụ sở ở Singapore. Quan trọng hơn nữa là, ngành
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore






John W. Thomas và Lim Siong Guan 20 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
đầu tư vốn mạo hiểm là một nguồn tài trợ quan trọng cho những cơng ty mới khởi sự doanh
nghiệp trong những ngành mới có tiềm năng tăng trưởng nhanh. Đầu tư của chính phủ trong
một ngành vì thế còn tạo ra sự lan truyền tích cực sang các khu vực khác của nền kinh tế.

Thị trường bên trong các Cơ quan Chính phủ
Có thể kết hợp một cách hiệu quả các cơ chế thị trường vào các hoạt động của chính phủ để
khuyến khích tinh thần kinh doanh và sáng kiến đổi mới, và giảm tối thiểu tình trạng kém
hiệu năng và lãng phí. Một trong những cơ chế mà Chính phủ đã triển khai là hệ thống tính
tiền lẫn nhau giữa các ban ngành, vận dụng khái niệm thị trường để áp đặt động cơ khuyến
khích và kỷ cương trên cả người cung cấp lẫn người tiêu dùng các dịch vụ nội bộ.
Một ví dụ của việc tính tiền lẫn nhau giữa các ban ngành là tổ chức thực hiện các
khóa đào tạo cho cơng chức bởi Trường Đào tạo Cơng chức (CSC). Do nhu cầu phải thiết kế
phù hợp và chun mơn hóa đào tạo và vai trò của đào tạo trong việc khắc sâu văn hóa cơng
chức, những khóa đào tạo này khơng thể nào th/mua ngồi hồn tồn từ khu vực tư nhân.
CSC được thành lập năm 1971 để đào tạo cơng chức. Khởi đầu nó là một cơ quan thuộc
chính phủ và được cấp ngân sách để thực hiện các khóa đào tạo.
Cách tổ chức CSC cho thấy hai khiếm khuyết chính. Thứ nhất, vì CSC được cấp ngân
sách để thực hiện đào tạo, nó được trả tiền bất kể gì đến cầu đối với lớp học và sự thỏa mãn
của khách hàng. Thứ hai, vì các khóa học có vẻ là “miễn phí” đối với các bộ gởi nhân viên đi
học, thì một mặt có nguy cơ xảy ra hội chứng tiệc buffet và, mặt khác, tác động của việc trói
buộc các bộ với CSC để đáp ứng nhu cầu đào tạo của bộ mình.
Tính tiền lẫn nhau giữa các ban ngành giúp giải quyết những khiếm khuyết này. Thay
vì cấp ngân sách cho CSC, ngân sách được chia ra và phân cho các bộ sử dụng dịch vụ đào
tạo. CSC phải “kiếm” ngân sách của mình bằng cách tính tiền các bộ gửi nhân viên đến học

tại CSC. Vì thế có động cơ tức thời để CSC phải bảo đảm rằng các khóa học của mình đáp
ứng được nhu cầu của các bộ và kiếm được cơng việc từ các bộ, khơng làm được điều này thì
CSC phải ngưng hoạt động. Đồng thời, các bộ nhận thức rõ hơn về chi phí gởi nhân viên đi
đào tạo và còn giành quyền kiểm sốt lớn hơn cũng như quyền chọn lựa nên gởi nhân viên
đến CSC hay các trung tâm đào tạo khác.
Định chuẩn so sánh với khu vực tư nhân và áp dụng các giải pháp tốt nhất của họ là
một cách khác mà Chính phủ đã học hỏi từ thị trường để thúc đẩy cao hơn nữa tính hiệu năng
và hiệu quả bên trong khu vực cơng. Ví dụ, mức lương khu vực cơng được gắn với khu vực
tư nhân để bảo đảm rằng khu vực cơng thu hút được một tỷ lệ hợp lý tài năng của đất nước,
trong khi vẫn bảo đảm rằng mức lương khu vực cơng sẽ đeo đi chứ khơng dẫn trước khu
vực tư nhân. Một cấu phần ngày càng quan trọng của tiền lương là tiền thưởng khả biến và
tiền thưởng thành tích. Điều này cho phép lương được gắn chặt chẽ hơn với thành tích của cá
nhân và hiệu năng của nền kinh tế nói chung. Các cơ quan chính phủ còn được khuyến khích
định chuẩn các hệ thống và qui trình của mình theo các tiêu chuẩn như ISO 9000, Tiêu chuẩn
Nhà phát triển Nhân dân, và Giải thưởng Chất lượng Singapore. Giải thưởng Chất lượng
Singapore là một giải thưởng quốc gia cho tổ chức xuất sắc, với các chỉ tiêu định chuẩn rất
giống với giải Malcolm Baldridge Award của Hoa Kỳ và Mơ hình Doanh nghiệp Xuất sắc
của châu Âu. Nói về quản trị, nhiều giải pháp khác nhau của khu vực tư nhân như Bảng cân
bằng chỉ tiêu quản trị (Balanced Scorecard), Hạch tốn từng cơng đoạn dựa trên thao tác
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore






John W. Thomas và Lim Siong Guan 21 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
(Activity-Based Costing ABC) và Giá trị Kinh tế Tăng thêm (EVA) đã được áp dụng. Ngồi
việc những hệ thống chạy đua theo hiệu năng của khu vực tư nhân, chúng còn làm cho cán
bộ chính phủ nhạy cảm với nhu cầu và áp lực từ các hoạt động của khu vực tư nhân, nhờ đó
giúp họ đánh giá tốt hơn vai trò của khu vực tư nhân như động lực tăng trưởng cho nền kinh
tế đất nước và cán bộ có thể giúp đỡ họ như thế nào.

V. TẠI SAO QUẢN TRỊ QUỐC GIA DỰA TRÊN THỊ TRƯỜNG LẠI CĨ HIỆU QUẢ Ở
SINGAPORE
Cho dù cơ chế thị trường có các ưu điểm, dựa q mức vào thị trường có nghĩa là mọi thứ
đều dựa trên khả năng chi trả và thu nhập. Bất bình đẳng cả về cơ hội lẫn kết quả lại có thể
phát sinh từ con ngựa khơng cương của các sức mạnh thị trường. Rất có khả năng mất định
hướng của các mục tiêu chính sách cơng lớn hơn. Cuối cùng, giá trị cơng khơng thể nào được
phản ánh tồn bộ bằng giá cả; cần phải đạt được sự cân bằng thực tế.
Trong trường hợp Singapore, sự cân bằng được đeo đuổi qua nhiều năm bằng cách sử
dụng cơ chế thị trường để phân phối hàng hóa cơng trên cơ sở người sử dụng phải trả tiền với
nhiều mức độ trợ cấp khác nhau khi cần thiết, và để đòi hỏi mức hiệu năng của khu vực tư
nhân trong việc cung cấp hàng hóa cơng. Điều làm cho thành quả này càng nổi bật là sự việc
nhiều loại thuế/phí tài chính vẫn được áp dụng liên tục cho dù chính phủ có thặng dư ngân
sách hầu như mọi năm trong suốt hơn hai thập niên qua. Những loại thuế/phí đó trong bối
cảnh ngân sách liên tục thặng dư
16
có thể khó giữ lâu dài trong hầu hết mọi quốc gia. Điều
này lại có thể làm được ở Singapore với mức độ đáng kể bởi vì nước này đạt được tăng
trưởng kinh tế nhanh trong nhiều năm, nhưng còn có các lý do khác cũng khơng kém phần
quan trọng.
Các chương trình mục tiêu của Chính phủ mang tầm nhìn phát triển dài hạn, chứ
khơng bị chệch hướng bởi các biện pháp lấy lòng dân ngắn hạn, đã sản sinh ra văn hóa quyền
hành động. Cách tiếp cận dựa vào thị trường với đầu óc cứng rắn vì thế được xem là có tính
nhân văn hơn trong dài hạn, bởi vì nó bảo đảm phân bổ nguồn lực hiệu quả và giúp tạo ra

thành cơng kinh tế và tăng trưởng cao hơn. Đồng thời, Chính phủ kiềm chế việc sử dụng cơ
chế thị trường với sự cẩn trọng và nhạy cảm với các nhóm thu nhập thấp hơn. Điều này được
củng cố bởi ngun tắc người sử dụng phải chi trả, được xem là cơng bằng, bởi vì những
người có khả năng chi trả càng kém được giúp đỡ càng nhiều. Ví dụ, trong chương trình nhà
ở chung cư, mức trợ cấp cho những căn hộ nhỏ hơn là cao hơn cho những căn hộ lớn hơn,
trong khi căn hộ loại lớn nhất chẳng được trợ cấp gì cả. Trong giáo dục, trợ cấp có tỷ lệ phần
trăm cao nhất với cấp cơ sở, ít hơn với cấp trung học, và ít nhất với cấp đại học. Và trong y
tế, mức trợ cấp là cao hơn cho những phòng/khu hạng thấp hơn và chẳng trợ cấp gì cả cho
hạng sang nhất, nhưng mức độ chăm sóc bệnh nhân là như nhau trong tất cả các phòng/khu.
Chính phủ khơng sợ việc thực hiện chính sách cứng rắn, nhưng lại nhạy cảm với
những người bị ảnh hưởng bất lợi bởi các chính sách đó. Một ví dụ điển hình là việc ban
hành Thuế Hàng hóa và Dịch vụ (GST) năm 1994. Mặc dù Singapore lúc đó ở vào tình trạng
ngân sách khỏe mạnh và khơng cần phải thu thêm thuế từ nguồn GST, Chính phủ vẫn quyết

16
Singapore định nghĩa một cách rất bảo thủ rằng thặng dư ngân sách bằng nguồn thu từ hoạt động
trừ cả chi tiêu hoạt động lẫn chi tiêu phát triển (đầu tư vốn).

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 22 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ

định thực hiện hệ thống GST để đa dạng hóa và mở rộng cơ sở chịu thuế theo một cơ cấu
đóng góp cân bằng hơn từ cả nguồn thuế trực thu và gián thu. Trạng thái thặng dư ngân sách
làm cho việc thực hiện một chính sách cứng rắn như GST trở nên dễ dàng hơn. Thuế suất
GST được định ở mức 3%, nằm trong mức thấp nhất trên thế giới. Để giảm bớt tác động của
thuế này, Chính phủ đưa vào áp dụng mức hồn thuế thu nhập 412 USD. Điều này lập tức
làm giảm tác động thuế (lưới thuế) từ hai phần ba của giới lao động xuống còn một phần ba.
Để giúp những hộ gia đình có thu nhập thấp hơn, hiện đóng thuế thu nhập rất thấp hoặc
chẳng đóng đồng nào, Chính phủ còn đưa vào áp dụng một gói hồn trả phi-thuế để bù trừ
tác động của GST. Gói này bao gồm hồn trả tiền th căn hộ HDB hàng tháng trên tiền phí
bảo trì hàng tháng. Trong năm đầu tiên triển khai thực hiện, GST thực sự là một dòng thu bị
âm cho Chính phủ. Tương tự, gần đây việc thực hiện ERP cũng tạo ra dòng thu ròng bị âm,
vì thuế cầu đường được cắt bớt để bù trừ tác động của ERP.
Ngay cả khi thực hiện những biện pháp chính sách lấy lòng dân, Chính phủ cũng cho
thấy sự nhạy cảm đặc biệt trước các nhu cầu của các nhóm thu nhập thấp hơn. Ví dụ những
cắt giảm thuế thu nhập gần đây trong tài khóa 2001, ngân sách được thiết kế theo cách để
những người đóng thuế có thu nhập thấp hơn hưởng lợi nhiều hơn về tỷ lệ phần trăm tiết
kiệm thuế. Điều này củng cố niềm tin trong nhân dân rằng Chính phủ sẽ chăm lo cho nhu cầu
của những cơng dân có thu nhập thấp hơn khi đến thời điểm phải đưa vào áp dụng các chính
sách cứng rắn.
Qua nhiều năm, Chính phủ đã đưa vào áp dụng nhiều chương trình ‘chia sẻ-thặng dư’
để chia sẻ với nhân dân trái ngọt thành cơng kinh tế của Singapore khi có những khoản thặng
dư ngân sách. Những chương trình này được thiết kế nhằm bảo đảm tái phân phối thu nhập
một cách cơng bằng và hợp lý, một qui trình được cảm nhận là vừa cơng bằng vừa minh bạch
cơng khai. Phương thức chia sẻ thặng dư ngân sách có thể mang nhiều hình thức khác nhau
tùy theo nhu cầu và tính hữu ích được ghi nhận vào từng thời điểm. Ví dụ, một cơ chế phân
phối quan trọng Chính phủ đã sử dụng để chia sẻ thặng dư với người dân là bù đầy tài khoản
CPF của cá nhân. Việc bù đầy tài khoản CPF đã mang những mục tiêu và trọng tâm khác
nhau qua các năm. Một số được tập trung vào người già cả, một số vào nhu cầu chữa bệnh
của nhân dân, và một số còn mang hình thức cấp cho những khoản tiền khác nhau để bù đầy
tài khoản CPF của các nhóm người Singapore khác nhau dựa trên các nhân tố độ tuổi, thu

nhập và loại nhà ở. Hầu hết các trường hợp, cá nhân người cơng dân phải đóng góp một
khoản tối thiểu vào CPF thì mới nhận được tiền bù đầy CPF từ Chính phủ, thêm một biểu
hiện của ngun tắc cùng-chi trả. Một hình thức chia sẻ thặng dư ngân sách khác là cho hồn
thuế thu nhập. Tuy nhiên vì hai phần ba những người có thu nhập khơng phải đóng thuế thu
nhập, nên Chính phủ còn cho các loại hồn trả trên tiền th căn hộ HDB, phí bảo trì, và tiền
điện nước gas nhằm chia sẻ thặng dư ngân sách với những hộ gia đình thu nhập thấp hơn.
Trong chương trình phân phối thặng dư ngân sách, Chính phủ ưu tiên cho những người thuộc
nhóm thu nhập thấp hơn. Diện tích căn hộ HDB thường được sử dụng làm biến đại diện
(proxy) cho mức thu nhập của hộ gia đình,
17
và tiền bù đầy CPF cũng như tiền hồn trả phi-


17
Giải pháp lý tưởng sẽ là cấp phát những khoản hồn trả theo nhu cầu tài chính của hộ gia đình. Tuy
nhiên, cách tiếp cận đó để cấp phát những khoản hồn trả đòi hỏi kiểm tra tồn diện đối với từng hộ
gia đình, phải xem xét đến mức thu nhập, số thành viên trong hộ gia đình, số người phải ni/trợ cấp,
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 23 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
thuế giảm dần theo tỷ lệ nghịch với diện tích căn hộ, với số tiền cao hơn được được chuyển

giao cho những người sống trong những căn hộ nhỏ hơn. Ngồi tiền bù đầy CPF và tiền hồn
trả thuế/phi –thuế, Chính phủ còn còn bán cổ phiếu của Singapore Telecom cho nhân dân với
giá chiết khấu vào năm 1993 và 1996. Ngồi ra, ‘cổ phiếu trung thành’ được phát khơng cho
những người đã nắm giữ cổ phiếu cơng ty này trong một khoản thời gian nhất định, nhằm
mục đích khuyến khích người dân Singapore chọn quan điểm dài hạn trong sở hữu cổ phiếu.
Cuối cùng, các thành quả của Singapore khơng chỉ đơn giản là kết quả của thiết kế
hay kế hoạch tổng thể đồ sộ nào đó. Chúng phản ánh sự quyết tâm và niềm tin vững chắc vào
các ngun tắc quản trị quốc gia như tự lực cánh sinh, phần thưởng cho cơng việc, và đo
lường kết quả. Được thực hiện cho đến cùng, những ngun tắc này biến thành phong cách
quản trị quốc gia dựa trên thị trường với đầu óc cứng rắn đã giúp mang lại thành cơng kinh
tế, và từ đó tạo tiền đề để có thể đạt được các mục tiêu xã hội quyết định chất lượng cuộc
sống của tồn thể cơng dân. Tuy nhiên tính cứng rắn đó cũng cần phải được kiềm chế bớt bởi
sự thấu cảm và nhạy cảm, đặc biệt là với những người thuộc các nhóm thu nhập thấp hơn.

VI. CĨ THỂ XUẤT KHẨU SỰ THÀNH CƠNG CỦA SINGAPORE KHƠNG?
Cảm nhận về mối đe dọa cho đất nước Singapore và cảm nhận về nhu cầu phải có tính kỷ
luật hơn các nước khác đã làm phát sinh một sự nhất trí ngầm về chính sách mà vẫn còn tồn
tại đến ngày hơm nay. Sự nhất trí này đã cho ra đời những chính sách và những chuẩn mực
văn hóa thường bị hiểu lầm và chỉ trích bởi người bên ngồi như là q độc tài và thiếu dân
chủ. Tuy thế, đây là sự đồng tâm nhất trí được chia sẻ rộng rãi trong tồn xã hội Singapore
bởi lãnh đạo cũng như cơng dân thuộc mọi nhóm sắc tộc. Trong khi những lời chỉ trích là
điều tất yếu , chẳng có sự bất đồng chính kiến nào nghiêm trọng. Sự nhất trí này làm phát
sinh một nhóm ngun tắc mà ta cần phải nắm hiểu thì mới hiểu được những phương cách
theo đó Singapore có thể được sử dụng làm mơ hình cho những nước khác.
Những ngun tắc này rơi vào ba nhóm chính; sự tiếp xúc ngầm ẩn giữa nhà nước và
xã hội; các kỳ vọng rõ ràng về vai trò và bản chất của chính phủ; và một sự đồng thuận rộng
rãi về mối quan hệ giữa nhà nước và cơng dân.
Sự tiếp xúc ngầm ẩn giữa nhà nước và xã hội tạo ra một chùm các ngun tắc cơ bản.
Chúng bắt nguồn từ niềm tin mạnh mẽ vào tính tự lực cánh sinh đối với cả nhà nước lẫn cá
nhân. Đây là một niềm tin được chia sẻ chung rằng Singapore phải tồn tại và phát triển thình

vượng bằng chính sức lực của mình, rằng Singapore khơng có các đồng minh tự nhiên và vơ
điều kiện, và lịch sử của mình là một thực trạng theo đó chẳng có ai nợ Singapore cái gì cả –
nếu Singapore muốn điều gì đó xảy ra, thì phải tự chính mình làm điều đó. Mọi cơng dân
phải chia sẻ trách nhiệm này, chấp nhận rằng sẽ chẳng có hàng hóa nào là cho khơng và rằng
mỗi cá nhân phải nhận lấy trách nhiệm đối với phúc lợi của chính mình và gia đình mình.
Quan điểm chia sẻ chung này kéo theo nhóm ngun tắc thứ hai quyết định chính quyền thực
hiện chức năng như thế nào và quan hệ với quần chúng như thế nào.
Các kỳ vọng rõ ràng về vai trò và bản chất của chính phủ được xác lập vững chắc
thơng qua một chùm ngun tắc và chính sách. Thứ nhất, kể từ ngày độc lập, Chính phủ

tài sản của các thành viên v.v., điều này q sức tốn kém để quản lý và dễ bị xem là xâm phạm q
mức vào đời tư của cơng dân.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 24 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
Singapore kiên định đi theo ngun tắc khơng tha thứ tham nhũng hoặc bè phái. Kết quả là,
Singapore được mọi người xem là nhà nước ít tham nhũng nhất trên thế giới. Nó thu hẹp các
động cơ tham nhũng bằng cách định mức lương cơng chức rất cao. Thứ hai, Chính phủ
Singapore là một chế độ trọng dụng nhân tài. Một nước nhỏ với một dân số giới hạn phải tận
dụng tối đa nguồn nhân lực của mình. Bộ máy cơng chức của Singapore hoạt động với các

tiêu chuẩn thi tuyển rất khắc khe và rất cạnh tranh. Những quyết định đánh giá và đề bạt nhân
sự phải tn theo các qui trình chặt chẽ và kiểm tra thử thách tài đức. Các tiêu chuẩn để được
tham gia vào vũ đài chính trị thơng qua đảng nắm quyền cũng cao tương tự. Thứ ba,
Singapore có đầu óc thực dụng: chỉ có thành tích/hiệu năng mới đáng kể. Điều này áp dụng
với nhân sự, thiết chế, và chính sách. Các tiêu chuẩn cao được định ra cho hiệu năng của thiết
chế. Nếu khơng đạt được, các thay đổi sẽ được thực hiện. Các chính sách được thử nghiệm
và áp dụng tùy theo kết quả. Lấy lòng dân khơng phải là một cân nhắc chính yếu. Các sáng
kiến chính sách được theo dõi giám sát và nếu chúng đạt được mục tiêu đề ra, chúng tồn tại;
nếu khơng đạt được, chúng bị thay đổi hay loại bỏ. Kết quả của những ngun tắc này là
niềm tin vào, và thực tế của, một chính quyền mạnh, hiệu quả được xem là động lực của sự
tồn tại, tăng trưởng, và chất lượng cuộc sống tốt đẹp. Cho đến ngày hơm nay, chính quyền ở
Singapore vẫn đáp ứng đúng những kỳ vọng này.
Sự đồng thuận rộng rãi về mối quan hệ giữa nhà nước và cơng dân dựa trên quan
điểm rằng con người là nguồn lực chính yếu của Singapore. Kể từ 1965, Singapore đã nhất
qn ưu tiên đầu tư vào giáo dục. Đi kèm điều này là niềm tin mạnh mẽ vào tính tự lực cánh
sinh và trách nhiệm của cá nhân. Xã hội hiểu ngầm rằng mọi cơng dân phải nhận lấy trách
nhiệm cá nhân cho sự thành cơng của riêng mình. Hiếm có các đặc quyền – chỉ có sự cam kết
bảo đảm các cơ hội. Hiểu theo cách này, Singapore khơng có hệ thống phúc lợi, và khơng trợ
cấp cho tiêu dùng. Có tập trung trợ cấp cho những mục tiêu đầu tư ưu tiên như cùng-chi trả
trong giáo dục, y tế, và nhà ở. Một hệ quả của điều này là chương trình nâng cao giá trị tài
sản thơng qua nhà ở, và sở hữu cổ phiếu trong những cơng ty có liên kết với chính phủ. Điều
này dẫn đến câu hỏi thế ai chi trả cho các hàng hóa cơng. Câu trả lời của Singapore là rõ ràng
dứt khốt: trường hợp phương tiện hoặc dịch vụ là có sẵn cho tồn bộ cơng chúng, như giao
thơng vận tải hoặc cơng viên, thì tất cả cơng chúng chi trả thơng qua đóng góp ngân sách.
Trường hợp một nhóm cơng chúng cụ thể hưởng lợi, thì những người đó chi trả trọn chi phí
thơng qua phí sử dụng. Trường hợp có giới hạn về cơng suất hay ràng buộc về số lượng thì
chính phủ ấn định hạn ngạch và cho phép thị trường quyết định cách phân bổ nguồn cung
hạn chế đó.
Mặc dù những ngun tắc này có thể khơng được thực hiện hoặc tn thủ một cách
trọn vẹn, người dân Singapore, với tinh thần kỷ luật cao, đã đạt đến gần hoặc gần hơn những

mục tiêu này so với cơng dân của các quốc gia khác. Điều quan trọng là phải hiểu được
những ngun tắc này bởi vì chúng định hình cách Singapore suy nghĩ và hành động khi sử
dụng các cơ chế thị trường để tăng cường quản trị quốc gia.

Bắt chước hay là các bài học chung
Do thành quả có một khơng hai của Singapore, nhiều quốc gia, tổ chức quốc gia lẫn quốc tế,
và học giả trên khắp thế giới thường xun nhìn vào Singapore để tìm những bài học phát
triển thành cơng. Chúng tơi đã sử dụng Singapore để minh họa những phương cách mà một
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 25 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
nước có thể sử dụng thị trường một cách hiệu quả để quản trị quốc gia hiệu quả hơn, tuy
nhiên, cần phải nêu thêm một cảnh báo cho những ai làm theo kinh nghiệm của Singapore.
Câu hỏi thường xun được đặt ra là: Singapore đã làm những gì và bằng cách nào chúng ta
có thể làm cùng những điều đó để đạt được các kết quả tương tự?
Những ai nghĩ rằng họ có thể sử dụng các ví dụ của Singapore như một mơ hình tồn
diện để tái tạo thành cơng tương tự sẽ bị thất vọng. Bối cảnh là q sức quan trọng.
Singapore là một đảo nhỏ, ra đời trong khủng hoảng, với lãnh đạo rõ ràng và mạnh mẽ, và
nhân dân ở đó có lòng quyết tâm làm việc siêng năng và chấp nhận hy sinh và thay đổi. Nó
q mức cá biệt để dùng làm một mơ hình tồn diện có thể nhân bản sang những nơi khác.
Đáng tiếc, nỗ lực khám phá “bí mật” của sự thành cơng của Singapore có khi làm cho

những người bên ngồi bỏ qua những bài học mà nó dạy cho chúng ta. Những gì Singapore
có thể cho ta là một số cơ hội tốt nhất sẵn có để học những bài học về những chính sách cụ
thể – chính sách nào hữu hiệu, chính sách nào khơng, và tại sao. Singapore là hầu như có một
khơng hai khi so với những quốc gia khác trong việc cung cấp cơ hội nghiên cứu chính sách
và xây dựng chính sách. Với mức độ cao hơn các quốc gia khác, Singapore ln ln tính
tốn hợp lý và nhất qn về qui trình xây dựng chính sách và phát triển tổ chức. Qui trình
chọn lựa, thử nghiệm, áp dụng, và điều chỉnh chính sách trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của
Singapore là hiếm hoi, có lẽ là có một khơng hai. Điều này đúng chủ yếu bởi vì Singapore có
một chính phủ mạnh có tầm nhìn phát triển dài hạn vượt xa nhu cầu lấy lòng dân trong ngắn
hạn – một tầm nhìn với cam kết mang lại nhiều kết quả cho cơng dân nước mình. Kết quả là
các thử nghiệm và thay đổi chính sách được khởi xướng với sự suy nghĩ chín chắn và phân
tích đầy đủ; chúng được thực hiện liên tục (có lúc gặp phải những phản ứng bất lợi trong
ngắn hạn) cho đến lúc các kết quả trở nên rõ ràng. Lúc đó kết luận cuối cùng được đưa ra dựa
trên cơ sở kết quả thực tế. Hiểu theo nghĩa đó, Singapore có thể được gọi là một phòng thí
nghiệm chính sách. Nếu bạn muốn học hỏi từ họ thì hãy nhìn vào từng chi tiết của các thành
quả của Singapore. Rồi xem xét họ trong bối cảnh rộng hơn, nhưng cũng phải nhận biết rằng
bối cảnh rộng hơn của Singapore là vơ cùng cá biệt và ít có khả năng nhân bản.
Singapore chứng tỏ thị trường có thể hiệu quả như thế nào trong việc đạt đến các mục
tiêu xã hội, nhưng Singapore làm điều đó trong một mơi trường chính sách rất cá biệt. Thị
trường được triển khai bởi một chính phủ mạnh, theo dõi giám sát một cách liên tục cũng
như kỳ vọng các kết quả. Chính phủ tập trung vào thành quả dài hạn chứ khơng phải là sự
thỏa mãn ngắn hạn. Điều nổi bật là đường ranh giữa chính phủ và thị trường khơng được
vạch ra một cách khắc khe. Ở nhiều quốc gia nếu đặt câu hỏi vai trò của thị trường là gì thì
bạn nhận được câu trả lời dưới hình thức một danh mục liệt kê các hoạt động được giao cho
thị trường. Ở Singapore điều đó hầu như là khơng bao giờ đúng – các cơ chế thị trường được
sử dụng phối hợp chặt chẽ với và hợp nhất với các chương trình chính sách cơng.

VII. KẾT LUẬN
Sử dụng các cơ chế thị trường để cải thiện chất lượng quản trị quốc gia đã trở thành một ý
tưởng phổ biến trong những năm gần đây. Nó được thúc đẩy bởi nhu cầu phải làm cho chính

phủ có hiệu năng cao hơn về mặt tài chính và hiệu quả hơn trong việc mang lại một nhóm các
lợi ích thiết yếu cho nhân dân. Việc đưa các hoạt động mang bản chất thúc đẩy bởi thị trường
vào những lĩnh vực trước đây thường được xem là lãnh địa độc quyền của chính phủ đang
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 26 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
diễn ra theo nhiều cách ở nhiều quốc gia trên thế giới, thơng qua tư nhân hóa, khu vực tư
nhân đang thay thế khu vực cơng do hiệu quả hơn trong một số hoạt động cụ thể, và thơng
qua sáng kiến của chính phủ được thúc đẩy bởi nhu cầu phải có hiệu năng cao hơn và hiệu
quả hơn.
Khi xem xét cách sử dụng các thị trường để quản trị quốc gia tốt hơn, Singapore cho
ta những bài học q giá. Lý do là vì nó có một trong những chính phủ có đầu óc tiên phong
nhất trên thế giới trong việc tìm kiếm các kỹ thuật dựa trên thị trường để nâng cao chất lượng
của hoạt động chính phủ. Để giúp tiếp cận tốt hơn với kinh nghiệm quan trọng này, bài
nghiên cứu này đã xem xét những cách thức mà Singapore đã sử dụng thị trường và các kỹ
thuật dựa trên thị trường để cải thiện chất lượng của hoạt động chính phủ.
Bài nghiên cứu này đã làm bốn việc. Chúng tơi bắt đầu với việc xem xét mơi trường
chính sách Singapore, mà với một mức độ lớn là do kết quả của lịch sử và điều kiện rất cá
biệt của Singapore. Chính mơi trường này – gồm lãnh đạo mạnh, tinh thần tự lực cánh sinh
và kỷ luật, sử dụng các kết quả trung hạn và dài hạn chứ khơng phải vì lấy lòng dân làm
thước đo kiểm tra hiệu quả của chính sách, và qui mơ nhỏ về dân số và lãnh thổ – đã thúc

đẩy, tạo điều kiện cho qui trình thăm dò tìm kiếm những phương cách sử dụng thị trường tốt
nhất để cải thiện quản trị quốc gia.
Thứ hai, bài này xem xét lại những ngun tắc cụ thể định hướng việc sử dụng các cơ
chế thị trường ở Singapore. Xem xét cả thất bại của thị trường lẫn thất bại của chính phủ cho
thấy cách thị trường và chính phủ mỗi nhân tố có thể được sử dụng như thế nào để tăng
cường cho yếu kém của phía bên kia và nhờ đó đạt được kết quả mong muốn.
Thứ ba, chín (9) trường hợp cụ thể được đưa ra cho thấy Singapore sử dụng các cơ
chế dựa trên thị trường như thế nào để đạt đến các mục tiêu cơng trong những trường hợp
chính phủ vững tin rằng chúng sẽ đáp ứng hiệu quả hơn chính phủ. Những trường hợp điển
hình này cung cấp cho các quốc gia khác một cơ hội quan trọng để quan sát và học hỏi từ
những chính sách được suy nghĩ cân nhắc cẩn thận và được kiểm nghiệm trên nhiều loại hình
hoạt động từ hệ thống bảo hiểm xã hội, đến quản lý cơ sở hạ tầng, và những hoạt động thúc
đẩy phát triển kinh tế. Chính những trường hợp điển hình này cho ta tiềm năng phong phú
nhất để học hỏi và chuyển giao kinh nghiệm.
Thứ tư, bài nghiên cứu này kết luận bằng cách đề nghị rằng kinh nghiệm của
Singapore cho thấy việc sử dụng các cơ chế dựa trên thị trường trong dịch vụ cơng đã tăng
cường như thế nào, thay vì xói mòn, chất lượng và ảnh hưởng của chính phủ. Ở Singapore
mức độ sử dụng thị trường trong quản trị quốc gia phản ánh chính quyền mạnh.
Nhiều nhà quan sát về thành cơng của Singapore đã suy tư nhiều về làm thế nào có
thể tái tạo nó ở đất nước của chính họ. Những hy vọng đó là khơng thực tế. Như bài nghiên
cứu này chỉ ra, thành cơng hay mơ hình phát triển của Singapore nói chung là kết quả, với
một mức độ phụ thuộc quan trọng, của bối cảnh và điều kiện vơ cùng cá biệt của Singapore.
Khơng thể nào nhân bản nó sang những nơi khác. Những ước nguyện đó thường làm cho
những người khác bỏ qua cơ hội to lớn có thể học hỏi từ Singapore, từ những thành cơng cụ
thể trong việc tìm ra những giải pháp chính sách thực dụng cho những vấn đề mà nhiều quốc
gia đang gặp phải. Bài nghiên cứu này đã nhấn mạnh những phương cách cụ thể mà
Singapore đã đáp ứng trước các thách thức chính sách đã giúp cho nước này cải thiện chất
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công

Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 27 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
lượng quản trị quốc gia. Chính qua những chính sách cụ thể này Singapore cung cấp cho thế
giới nhiều bài học quan trọng.

×