Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Đông Y Châm Cứu - TỨ CHẨN pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.45 KB, 40 trang )

Đông Y Châm Cứu

Phần thứ nhất

TỨ CHẨN




Chẩn đoán của Đông y bao gồm 4 phương pháp: Vấn chẩn, Vọng chẩn,Văn chẩn
và Thiết chẩn, gọi tắt là tứ chẩn. Thông qua tứ chẩn để biết rõ hiện trạng và lịch
sử bệnh tật của người bệnh, từ đó mới có thể tổng hợp, phân tích, làm căn cứ biện
chứng luận trị.
1. VẤN CHẤN: (HỎI)

Vấn chẩn là phần trọng yếu trong tứ chẩn, thông qua vấn chẩn kỹ lưỡng thường có
thể đến chẩn đoán chính xác.

Nội dung của vấn chẩn, nói chung giống như Tây y, cần hiểu rõ nơi đau của người
bệnh, thời gian phát bệnh, nguyên nhân, diễn biến, tóm tắt tình hình chạy chữa
(bao gồm cả uống thuốc và phản ứng, khái quát sinh hoạt của người bệnh, nghiện
ngập, thói quen ăn uống, tình hình suy nghĩ, tiền sử gia đình).

Vấn chẩn của Đông y có những chỗ khác, trước đây những điểm chính của vấn
chẩn khái quát thành câu ca: Thập vấn: Nhất vấn hàn nhiệt; nhị vấn Hãn; tam vấn
ẩm thực; tứ vấn tiện; ngũ vấn đầu thân; lục vấn hung phúc; thất lung, bát kiệt, cụ
đương biện; cửu vấn cựu bệnh, thập vấn nhân; tái kiêm phục dược tham cơ biến
phụ nữ ứng vấn kinh, đới, sản; tiếu nhi đương vấn ma, chẩn, ban. Tạm dịch là: 1
hỏi nóng rét; 2 hỏi mồ hôi; 3 hỏi ăn, uống; 4 hỏi đái, ỉa; 5 hỏi đầu, mình; 6 hỏi
ngực, bụng; 7 hỏi điếc tai; 8 hỏi khát nước; 9 hỏi bệnh cũ; 10 hỏi nguyên nhân gây
bệnh. Lại hỏi thêm uống thuốc đã có chuyển biến. Đàn bà phải hỏi hành kinh, khí


hư, chửa đẻ; Trẻ em thì hỏi sởi đậu. Có thể tham khảo thêm trong đó. Ngày nay
đem nội dung chẩn đoán bằng hỏi khái quát như sau:

A. HÀN NHIỆT VÀ MỒ HÔI:

Cần hỏi rõ có hay không phát sốt, bị rét hay nóng, bị năng hay nhẹ, đặc điểm của
cơn sốt, có hay không có mồ hôi, thời gian ra mồ hôi, tính chất và nhiều ít của mồ
hôi. Quy tụ những chẩn đoán như sau:

- Lúc mới phát bệnh: phát sốt, ớn lạnh là ngoại cảm biểu chứng; phát sốt nhẹ, ớn
lạnh nhiều không có mồ hôi là ngoại cảm phong hàn biểu chứng; phát sốt nặng, ớn
lạnh nhẹ, có mồ hôi là ngoại cảm phong nhiệt biểu chứng.

- Lạnh một cơn, nóng mọt cơn, gọi là hàn, nhiệt vãng lai. Nếu như thời gian phát
bệnh rất nhanh có kèm theo đắng miệng, khô họng, váng đầu, hoa mắt, tức ngực,
sườn đầy chướng, là bán biểu, bán lý.

- Phát sốt không ớn lạnh, có mồ hôi, miệng khát, táo bón là lý thực
nhiệt chứng.

- Bệnh mãn tính, về chiều sốt nhẹ, ngực và lòng bàn tay, bàn chân nóng (ngũ tâm
phiền nhiệt), gò má hồng, mồ hôi khô, ra mồ hôi trộm là âm hư phát nhiệt. Bình
thường mà sợ lạnh, ngắn hơi, mệt mỏi, tự ra mồ hôi là dương hư.

B. ĐẦU, THÂN, NGỰC, BỤNG:

(Chủ yếu hỏi rõ nơi đau, tính chất và thời gian đau).

- Đầu đau, đầu choáng, đau không dứt, đau ở hai bên thái dương, phát sốt ớn lạnh,
phần nhiều là ngoại cảm. Khi đau, khi không, thường kèm theo choáng váng,

không nóng, lạnh phần nhiều là nội thương lý chứng. Một bên đầu đau (thiên đầu
thống) thường do nội phong hoặc huyết hư. Ban ngày đau đầu, làm mệt thì đau
nặng hơn là do dương hư. Sau giờ Ngọ đâu đầu là âm hư. Ban đêm đau đầu là
huyết hư. Đau đầu chóng mặt, mắt đỏ, miệng đắng, thường là can, đảm hoả thịnh.
Đầu váng mà tim hồi hộp, ngắn hơi, yếu đuối, thường là khí huyết hư nhược. Đột
nhiên đầu váng, thường là thực chứng; Váng đầu lâu ngày là hư chứng. Đầu ê ẩm,
nặng căng như bỏ vào trong bao thường là thuộc thấp nặng.

- Mình đau: Toàn thân đau buốt, phát sốt ớn lạnh là ngoại cảm. Bệnh lâu ngày mà
mình đau là khí huyết bất túc. Vùng lưng đau thường là thuộc thận hư. Các khớp,
cơ bắp, gân, xương ở tứ chi đau đớn, tê bại, hoặc các khớp sưng phù, nơi đau cố
định hoặc di động là phong hàn thấp bại.

- Ngực đau: đau ngực phát sốt, ho ra mủ máu thường là phế ung (sưng phổi có
mủ). Đau ngực sốt về chiều, ho khan, ít đờm, trong đờm lẫn máu là lao phổi (phổi
kết hạch). Ngực đau, hướng đâu lan ra xương bả vai, hoặc xương sườn phía sau
đau nhói, tự thấy cảm gác nén vùng tim là ngực bại (hung bại) - cần chú ý đó
không phải là tim cắn đau, mà sườn dưới đau là can khí bất thư.

- Bụng đau: đau bụng trên, nôn khan, nôn ra nước dãi trong, gặp lạnh đau dữ dội là
vị hàn. Bụng trên chướng, ợ chua, hôi mùi mốc là thực trệ (ăn không tiêu). Đau
quanh rốn, lúc đau lúc không, khi đau nổi hòn cục là đau do giun đũa. Đau bụng
phát sốt, ỉa chảy hoặc đi lỵ ra mủ máu, lý cấp hậu trọng (quặn bụng và nặng lỗ đít)
là thấp nhiệt thực chứng. Đau bụng ê ẩm liên miên, phân nát, sợ lạnh, tứ chi mát,
là hàn thấp hư chứng.

Nói tóm lại: đau dội là thực chứng, đau kéo dài là hư. Sau khi ăn đau tăng là thực,
sau khi ăn giảm đau là hư. Đau dữ dội kịch liệt, nơi đau cố định, sờ vào đau tăng
hoặc sợ là thực. Đau lâm râm, không cố định, sờ nắn giảm đau hoặc ưa sờ là hư.


C. ĂN UỐNG:

Hỏi rõ tình hình ăn uống của người bệnh như: thèm ăn hay không, số lượng ăn,
khẩu vị, phản ứng sau khi ăn và có khát hay không ?

- Trong khi bị bệnh mà vẫn ăn uống bình thường là vị khí chưa bị tổn thương.
Không muốn ăn mà ợ hơi là có tích trệ. Ăn nhiều, hay ăn là vị có thực hoả (ý
nghĩa có khác với triệu chứng của đái đường, của chứng tiêu khát).

- Miệng khát, thích uống mát là vị nhiệt thương âm. Miệng khát thích uống nóng
là vị dương bất túc. Miệng nhạt không khát, hoặc là biểu chứng đang chuyển vào
lý, hoặc là dương hư hàn thịnh lý chứng. Miệng khô không muốn uống là tỳ hư
thấp thịnh.

- Miệng đắng là can, đảm có nhiệt. Miệng chua là trường, vị tích trệ. Trong cổ
muốn phát ra ngọt là tỳ có thấp nhiệt. Miệng nhạt là hư chứng.

D. ĐẠI TIỂU TIỆN:

Hỏi rõ số lần đái ỉa, tính chất, trạng thái phân, có ỉa, đái ra máu hay không ?

- Đại tiện bế kết, khô khan, khó ỉa, phát sốt là nhiệt chứng. Bệnh kéo dài, người
mới đẻ, người già mà táo bón là thuộc khí hư hoặc tân hao.

- Ỉa phân nát, trước khi ỉa không đau bụng là tỳ vị hư hàn. Tảng sáng đau bụng ỉa
chảy (còn gọi là ngũ canh tiết) là thận dương hư. ỉa ra như nước, phóng ra như
bắn, có cảm giác nóng rát hậu môn là vị, trường có nhiệt. ỉa ra phân thối, nhão
nhoét, nhiều bọt, bụng đau, ỉa xong giảm đau là thực (ăn) trệ.

- Ỉa ra máu mủ, quặn đau như mót rặn, bụng đau phát sốt là thấp nhiệt hạ lỵ. ỉa ra

phân đỏ, đen như keo sơn, thường là xuất huyết đoạn trên đường tiêu hoá (dạ dày
xuất huyết). Trong phân dính máu hồng tươi là xuất huyết đoạn dưới đường tiêu
hoá (trực tràng xuất huyết). Cả hai nơi xuất huyết và nguyên nhân của chúng cần
được kiểm tra kỹ hơn nữa.

- Nước tiểu nhiều mà trong thường là hư hàn; trong mà són nhiều lần hoặc đi
không cầm là khí hư; nếu kèm vẩn đục là thấp nhiệt.

- Trong đêm đi đái nhiều, hay đái dầm là thận hư. Đái són, đái gấp, đái đau, đái
khó hoặc kèm theo máu mủ, cát sỏi, là chứng lậu. Miệng khát, đái nhiều, uống
nhiều, thân thể gầy mòn rất nhanh là chứng tiêu khát. Đột nhiên phát sinh bí đái,
hoặc chỉ đái són được vài giọt, mùi nước đái rất hôi, bàng quang đau đớn dữ dội
mà nóng lên là thực chứng. Nước tiểu dần dần giảm ít, thậm chí không đủ đái, sắc
mặt trắng nhợt, lưng đùi, tay, chân xanh, lạnh, là hư chứng.

Đ. NGỦ

- Mất ngủ: là khó vào giấc ngủ, lại dễ tỉnh, và không nhiều mê mộng. Đêm khó
vào giấc ngủ, ăn uống giảm dần, mệt mỏi, uể oải, hồi hộp hay quên, tinh thần
hoảng hốt, thuộc tâm tỳ lưỡng hư, thường do suy nghĩ quá độ gây nên. Hư phiền
không ngủ được, sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, lưỡi hồng ít tân (nước) mạch tế,
sác, thường là âm hư. Sau khi bệnh nặng hoặc về già khí huyết đều hư, thường dẫn
đến mất ngủ. Đêm ngủ không yên, ngủ ít, dễ tỉnh, tâm phiền, miệng lưỡi mọc
mụn, đầu lưỡi hồng, là tâm hoả cang thịnh Mất ngủ, nhiều mộng, đau đầu, miệng
đắng, tính tình hấp tấp, dễ cáu là can hoả cang thịnh. Trong khi mộng nằm kêu lên
là đảm khí hư hoặc vị nhiệt.

- Ngủ nhiều: thần mệt, chi mỏi mà ngủ nhiều là khí hư, ăn xong uể oải, muốn ngủ
là tỳ khí bất túc. Sau khi khỏi bệnh ham ngủ là chính khí chưa hồi phục. Mình
nặng mạch hoãn, ngủ nhiều là thấp thắng


E. TAI ĐIẾC - TAI Ù

Thận, can, đàm và tai có quan hệ gắn bó; điếc dấy mạnh lên là thực chứng can,
đảm hoả vượng, điếc lâu là thận hư, khí hư. Trong lúc có ôn bệnh mà xuất hiện ta
điếc là chỉ chứng nhiệt ta thương âm.

Tai ù kèm theo tim hồi hộp, đầu váng là thuộc hư chứng; có tức ngực, đau sườn,
miệng đắng, phân khô rắn mà buồn nôn oẹ là chứng thực.

G. ĐẶC ĐIỂM ĐÀN BÀ - TRẺ EM

Đối với phụ nữ và trẻ em, trừ những việc hỏi như trên ra lại cần hỏi thêm những
nội dung sau đây nữa:

- Đối với người bệnh đàn bà cần hỏi rõ đã có chồng hay chưa, kinh nguyệt (bao
gồm cả tuổi bắt đầu có kinh), chu kỳ, tình trạng kinh nguyệt nhiều ít, có đau hay
không, mùi và mầu sắc khí hư, và tình hình sản dục (số lần chửa đẻ, có khó đẻ hay
đẻ rơi không).

Kinh nguyệt đến trước kỳ: số máu nhiều, màu đỏ sẫm và sền sệt, miệng khô, môi
hồng là huyết nhiệt, Kinh nguyệt tím đen, có máu cục là thực nhiệt.

Kinh nguyệt chậm sau kỳ: số máu ít, mầu hồng nhạt mà lỏng sắc mặt vàng úa là
huyết hư, nhưng chi lạnh, mặt trắng là hư hàn. Máu tím bầm thành cục, bụng dưới
đau, sợ sờ, hoặc có cục sưng là khí trệ huyết ứ. Kinh nguyệt có mùi hôi là chứng
nhiệt, có mùi tanh là chứng hàn.

Khí hư trong, lỏng mà tanh là hư hàn, vàng đặc là thấp nhiệt.


Sau khi đẻ mà sản dịch không dứt, kèm có đau bụng, sợ sờ nắn là huyết ứ.

- Đối với người bệnh là trẻ em: cần hỏi rõ quá trình lớn lên, lướt quá về những
bệnh đã mắc; thóp thở khép kín, đi, chạy, nói sớm hay chậm, đã tiêm phòng hay
chưa, đã qua sởi, thuỷ đậu hay chưa và các cách đã bổ dưỡng.

2. VỌNG CHẨN (NHÌN)

Vọng chẩn là thông qua quan sát thần, sắc, hình thái để nói tình trạng chung; thông
qua xem lưỡi biến hoá để nói thêm một bước tính chất của bệnh tật. Trẻ em dưới 3
tuổi lại xem đường vân ngón tay để bổ trợ cho chẩn đoán.

A. TRẠNG THÁI CHUNG

Tinh thần nét mặt: tinh thần ủ dột, ánh mắt không có thần, phản ứng tình cảm trên
nét mặt chậm, sắc mặt mờ tối không phản chiếu ánh sáng là biểu hiện chính khí đã
tổn thương. Sắc mặt khô xác, môi nhợt là huyết hư. Sắc mặt vàng úa là tỳ hư.
Bệnh lâu dài sắc mặt đen tối là thận hư. Hai gò má ửng hồng về chiều, sốt về chiều
là âm hư nội nhiệt. Trẻ em mắt đỏ mà chung quanh môi xanh là can phong. Ở
trong các bệnh: sắc cứ sáng tươi là bệnh còn nhẹ, mờ tối là bệnh đã nặng.

Trẻ em bệnh ôn nhiệt hoặc cấp, mãn kinh phong thấy nhăn cầu vận động không
linh hoạt, có khi cố định, nhìn trợn ngược, nhìn thẳng đơ, nhìn lệch là thuộc can
phong nội động, hoặc đàm nhiệt vướng tắc gây ra, đó là chứng kinh phong. Trẻ em
bị mắc bệnh mà khóc không có nước mắt, lỗ mũi khô mà không có nước mũi, là
chứng nặng; Sắc mũi trắng bợt là khí huyết hư nhược.

Hình thái: Hình thể gầy mòn, chi thể mỏi mệt, da dẻ khô khan là khí huyết hư
nhược. Nếu béo mà ăn ít là tỳ hư có đàm. Hình gày ăn ít là trung tiêu có hoả.


Da dẻ toàn thân và niêm mạc phát vàng là hoàng đản. Sắc vàng úa, tươi như da
quất, phát sốt là dương hoàng (cấp tính hoàng đản); sắc mặt vàng nhạt, mờ như
khói hun, không sốt hoặc sốt nhẹ là âm hoàng (mãn tính).

Toàn thân phù thũng, phát bệnh nhanh chóng, các khớp đau buốt, hoặc có ớn lạnh,
sợ gió là thuỷ khí nội đình, phong tà ở ngoại nhiễu. Mình nặng, tinh thần đặc biệt
khốn quẫn là thấp nặng. Đau lưng, chi lạnh, sắc mặt tối là thận dương hư. Chi dưới
phù thũng, sắc mặt vàng úa, ăn uống không ngon, bụng chướng, phân lỏng, nát là
tỳ dương hư.

Da dẻ xuất hiện ban chẩn (lốm đốm là chẩn, thành mảng là ban) là nội nhiệt, ở
trong bệnh ôn nhiệt thì đó là dấu hiệu chủ yếu chỉ nhiệt đã nhập huyết phần. Ban
chẩn sắc tươi sáng, đỏ đắn là bệnh tình còn nhẹ, mờ ám là bệnh tình đã nặng.

Phụ: Phép vọng chẩn về bệnh giun đũa: dùng phép vọng chẩn để chẩn đoán bệnh
giun đũa thời xa xưa đã được ghi lại, gần đây có người quan sát hơn một nghìn
trường hợp trẻ em bị bệnh giun đũa đã chứng minh các phương pháp chẩn đoán là
có ý nghĩa nhất định. Trẻ em bị bệnh giun đũa thể hiện như sau:

- Trên mặt lưỡi xuất hiện ban đỏ, ven bờ rõ nét, hình tròn thường lỗi khỏi mặt lưỡi
như đầu vú, nơi chốn không nhất định, số lượng không kể.

- Niêm mạc môi dưới xuất hiện những hạt tròn, thương là màu xám, nốt chẩn nhỏ
như đầu mũi kim, số lượng không kể.

- Củng mạc xuất hiện xanh chàm, hình tam giác, tròn, hoặc bán nguyệt, phân bố ở
trên lưỡi trên đỉnh mao mạch (huyết quản nhỏ) không lồi khỏi bề mặt.

- Trên mặt lưỡi xuất hiện ban trắng, hình tròn, rất rõ ràng, ở giữa trắng nhạt, không
lồi khỏi bề mặt.


Đây là bốn loại dương tính thể chứng, có khi đơn độc, hoặc cùng xuất hiện,
thường thấy nhất là ban đỏ trên lưỡi. Thể chứng ít, nhiều thường là bằng chứng
của số lượng giun nhiều ít ở trong bụng. Tỷ lệ đúng của vọng chẩn so với xét
nghiệm phân (bao gồm cả phép đếm trứng) là rất cao. Cách này không cần chuẩn
bị khác, giản tiện, sử dụng, chắc chắn.

B. THIỆT CHẨN ( XEM LƯỠI )

Thiệt chẩn là bộ phận trọng yếu trong chẩn đoán đông y. Đông y quan sát cái lưỡi
thật tỷ mỷ, từ trong thiệt chẩn mà tìm thấy thực hư của tạng phủ, thịnh suy của khí
huyết, hao tổn của tân dịch và tính chất của ngoại tà. Do đó ở một mức độ nhất
định có thể giúp cho phán đoán tính chất, mức nông sâu và hướng phát triển của
bệnh tật.

B.a. Chất lưỡi

Chất lưỡi chỉ là cái thể của lưỡi, nó cùng với các tạng phủ có quan hệ mật thiết.
Loại quan hệ này có đặc điểm ở từng chỗ khác nhau. Đầu lưỡi chủ về phản ánh
bệnh biến của tim phổi, như đầu lưỡi đỏ là tâm hoả thượng viêm. Ven lưỡi chủ về
phản ánh bệnh biến của gan mật, như ven lưỡi có ban tím là can uất (trên lâm sàng
thường thấy một số người bệnh gan thì ven lưỡi có điểm ban xanh tím, hoặc tĩnh
mạch dưới lưỡi trương phồng). Phần giữa lưỡi chủ yếu phản ánh bệnh biến tỳ, vị.
Cuống lưỡi chủ yếu phản ánh bệnh biến của thận.

Trên lâm sàng quan sát chất lưỡi và theo biến hoá 4 mặt: mầu sắc, độ ẩm thấp,
hình thái và đồng thái để phân tích.

- Độ ẩm thấp và màu sắc chính của lưỡi thường là: hồng nhạt và ẩm nước.


- Sắc lưỡi nhạt hơn bình thường là huyết hư, dương hư hoặc hàn chứng. Sắc nhạt
mà không rêu là khí huyết lưỡng hư: nhạt mà ẩm trơn là hàn. Loại sắc lưỡi này gọi
là lưỡi trắng nhạt, tức là hồng ít, trắng nhiều. Chứng bệnh là dinh dưỡng trở ngại,
bần huyết và một số bệnh nội tiết như phù niêm dịch (dịch dẻo dính) đều thấy lưỡi
trắng nhạt.

Sắc lưỡi hồng tươi mà khô là âm hư; hồng tươi mà không rêu là âm hư hoả vượng
ở cuối kỳ ôn nhiệt, lao phổi; cường năng tuyến giáp trạng và bệnh đái đường cũng
thấy lưỡi âm hư. Chất lưỡi mầu hồng thắm hoặc đỏ thẫm thuộc về thực nhiệt. Nói
tóm lại: đậm là nhiệt sâu. Khi bị bệnh truyền nhiễm cấp tính quá nặng hoặc khi
viêm nhiễm đưa đến nhiễm độc máu đều thấy lưỡi đỏ sẫm mà sinh gai nhọn là
doanh phần nhiệt thịnh; đỏ sẫm mà sắc tươi là nhiệt thương tâm bào lạc. Chứng
bại huyết và khi bị bệnh cấp tính viêm nhiễm nghiêm trọng cũng thấy lưỡi đỏ
sẫm. Lưỡi đỏ mà bóng, không rêu là vị âm mất đi, bệnh tình nguy ngập.

Sắc lưỡi từ đỏ sẫm chuyển sang đỏ tím mà khô là dấu hiệu chính để chỉ bệnh ôn
nhiệt phát triển đến huyết phần. Viêm nhiễm nặng khi phát triển đến suy thấp và
tuần hoàn cũng xuất hiện lưỡi tím. Tím mở là huyết ứ, tím nông mà ẩm là hàn
chứng.

Lưỡi xanh lam là chứng nặng của khí, huyết cùng suy thoái. Xanh mà sáng bóng,
không rêu là dự đoán sẽ xấu. Khi hô hấp, tuần hoàn suy kiệt, thiếu ô xy năng cũng
xuất hiện lưỡi xanh.

B.b. Hình thái và động thái của lưỡi:

Chủ yếu là quan sát các tình trạng thể lưỡi béo, gầy, già, non, khô, ẩm, rãnh nứt và
hoạt động.

Dáng lưỡi béo mập, hồng nhạt mà ven lưỡi có ngấn răng là hư chứng, hàn chứng.

Lưỡi to béo là chứng suy tuyến giáp, đầu chi phình to. Lưỡi to béo mà đỏ sẫm là
tân dịch đã tổn thương. Chất lưỡi rắn chắc, thô kệch (ngược với béo mập) là thuộc
thực chứng nhiệt chứng.

Trên lưỡi mọc gai nhọn là nhiệt cực nội kết, gai nhọn càng to, càng nhiều là nhiệt
kết càng sâu. Sốt cao, tinh hồng nhiệt (sốt đỏ mặt như con tinh tinh), viêm phổi
chứng nặng đều thấy trên lưỡi mọc gai.

Trên lưỡi có vết nứt thương là âm hư hay dinh dưỡng kém, nhưng sốt cao mất
nước cũng thấy nứt. Cá biệt có khi lưỡi nứt là tiên thiên tính.

Dáng lưỡi khi co duỗi thì rung động, sắc lưỡi hồng nhạt là dương khí bất túc,
chứng này thấy ở bệnh thần kinh suy nhược và thể hư sau khi khỏi ốm. Rung
động mà sắc lưỡi hồng tươi là âm hư, thường thấy ở can phong nội động, trúng gió
và cường tuyến giáp.

Lưỡi lè ra mà lệch thường là chứng trúng gió.

Lưỡi cứng, vận động khó khăn, vì vậy mà tiếng nói không rõ là can phong nội
động gây ra, thường là điềm báo trước chứng trúng gió hoặc là di chứng sau khi
trúng gió.

Lưỡi mềm yếu vô lực cũng phát sinh ở tình hình bệnh khác nhau. Lưỡi hồng, khô
mà yếu là nhiệt thịnh thương âm. Bệnh lâu ngày chất lưỡi trắng nhạt mà yếu là khi
huyết đều hư. Lưỡi đỏ sẫm mà yếu là âm hao đã cực.



B.c. Rêu lưỡi


Rêu lưỡi bình thường do vị khí hình thành thì trắng , mỏng, sáng và ẩm. Khi có
bệnh rêu lưỡi phát sinh các loại biến hoá. Lúc chẩn đoán, quan sát rêu lưỡi chủ yếu
là theo mầu sắc, tân dịch, dầy mỏng. Nhưng cần chú ý loại trừ hiện tượng giả do
ăn uống, hoặc do thuốc gây nên như ăn trầu, ô mai,
đậu đen

- Rêu trắng đều thuộc hàn chứng, hư chứng (cũng có thuộc nhiệt, thuộc thực) trắng
mỏng mà trơn là ngoại cảm phong hàn, trắng nõn mà trơn là lý hư hàn. Trắng nhẫy
mà nhẵn là trong có đàm thấp. Trắng như rắc phấn là bệnh ôn dịch. Trong bệnh
nhiệt, rêu lưỡi trắng có lẫn vàng là bệnh tà hoả nhiệt từ biểu vào lý, chứng tỏ bệnh
tình đang phát triển.

- Rêu vàng thuộc nhiệt chứng, sắc vàng càng sau nhiệt càng nặng, rêu mỏng hơi
vàng là ngoại cảm phong nhiệt. Vàng dầy mà khô là vị nhiệt thương âm, vàng mà
dầy nhẫn là tỳ vị thấp nhiệt hoặc tỳ vị tích trệ. Sắc vàng nhạt mà ẩm hoặc kèm
theo dầy, rêu đục là do thấp trệ gây ra.

- Rêu đen thường thuộc lý chứng, nói chung thể hiện tình rất nặng, nhưng có chia
ra hàn nhiệt. Rêu lưỡi đen, ẩm trơn, chất lưỡi hồng nhạt là hàn chứng. Rêu lưỡi
đen, khô ráo chất lưỡi hồng tươi là hoả nhiệt thương âm. Rêu lưỡi đen mà ẩm hoặc
kèm theo dầy, rêu đục là do thấp trệ gây ra.

- Rêu đen thường thuộc lý chứng, nói chung thể hiện bệnh tình rất nặng, nhưng có
chia ra hàn nhiệt. Rêu lưỡi đen, ẩm trơn, chất lưỡi hồng nhạt là hàn chứng. Rêu
lưỡi đen, khô ráo chất lưỡi hồng tươi là hoả nhiệt thương âm. Rêu lưỡi đen mà táo
là hoả thịnh tân khô. Rêu đen khô nứt, gai nhọn cao lên là thận thuỷ tưởng tuyệt,
bệnh tình nguy nặng.

Rêu lưỡi từ dầy chuyển thành mỏng, mặt lưng sáng trơn như gương, hoặc rêu lưỡi
rải rác có chỗ xanh là tân dịch hao tổn, âm hư thuỷ khô, bệnh tình nghiêm trọng.

Những người bệnh thiếu máu ác tính trẻ em trường vị có thấp nhiệt hoặc có ký
sinh trùng cũng thấy có rêu lưỡi trắng mỏng hoặc hơi vàng, lại cũng có rải rác rêu
xanh. Nguyên nhân của rải rác rêu xanh là cục bộ niêm mạc co rút tạo ra niêm mạc
chết mà thành.

Tóm lại: Rêu lưỡi từ trắng biến thành vàng, xong chuyển thành rêu trắng môi là
thuận chứng. Ruê lưỡi từ trắng chuyển thành vàng, rồi chuyển thành đen là nghịch
chứng. Rêu lưỡi chuyển biến nhanh cũng thể hiện bệnh tình ác hoá.

Trên đầy giới thiệu chất lưỡi và rêu lưỡi chỉ để học tập. Trên thực tế thiệt chẩn là
quan sát toàn bộ cái lưỡi theo hiện tượng, tất nhiên cần quan sát toàn bộ chất lưỡi
và rêu lưỡi kết hợp lại mà phân tích, bởi vì biến hoá của chất lưỡi và rêu lưỡi có
quan hệ hỗ tương phức tạp.

Tổng hợp quan hệ biến hoá của chất lưỡi và rêu lưỡi với bệnh chứng đại để là:
phàm thuộc nhiệt chứng, chất lưỡi tất hồng, rêu lưỡi tất vàng, phàm thuộc hàn
chứng, chất lưỡi tất nhạt, rêu lưỡi tất nhiều nước mà trơn; phàm thuộc thực chứng,
thể lưỡi tất rắn chắc; phàm thuộc hư chứng, thể lưỡi tất phì nộn (béo non); phàm
thuộc biểu chứng, rêu lưỡi trắng mỏng không khô. Khí bệnh chủ yếu biến hoá ở
rêu lưỡi. Huyết bệnh chủ yếu biến hoá ở chất lưỡi.

Để tiện nắm được thiệt chẩn, nay đem chất và rêu lưỡi kê thành bảng dưới đây
theo biến hoá thường thấy và kết hợp với biện chứng luận trị.
Chất lưỡi Rêu lưỡi Biện chứng
Hồng nhạt Trắng rất mỏng Khí huyết hư
Hồng nhạt, béo non, có
ngấn răng
Trắng mỏng Dương hư
Trắng nhạt, béo non


Xám đen, ẩm trơn,
sáng nhẵn
Dương suy tạng hàn, đàm thấp
đình ở trong
Hồng nhạt nõn nà, có
vết nứt
Không rêu Khí hư âm hao
Hồng nhạt Trắng mỏng, ẩm Ngoại cảm phong hàn
Hồng nhạt Trắng, dầy, trơn
Đàm thấp trọc nội đình hoặc ăn
không tiêu
Hồng nhạt Trắng dày như rắc phấn

Ôn dịch hoặc có ung bên trong
Hồng nhạt
Trong cái trắng có ít
vàng dầy
Biểu tà bắt đầu chuyển vào lý
Hồng nhạt
Giữa và gốc lưỡi vàng
dày, ven lưỡi trắng
mỏng mà ẩm
Biểu tà nhập lý, vị trường có nhiệt

Hồng tươi
Trắng cực mỏng

Âm hư hoả vượng,
Hồng nhiều
vết nứt sâu

Gần như không rêu
Thuỷ bất tế hoả hoặc chân âm hao
tổn
Hồng Vàng mỏng
Khí phần nhiệt thịnh hoặc trường
vi có nhiệt
Hồng Vàng trơn Thấp nhiệt nhập khí phần
Hồng Vàng dầy khô
Tà nhiệt thâm nhập lý kết đã
thành
Hồng Đen khô Hoả nhiệt thương âm
Đỏ sẫm Vàng úa Nhiệt đã theo khí vào doanh
Đỏ tím
Vàng sâu hoặc vàng,
vàng trắng mà khô ít
Nhiệt vào phần huyết
rêu hoặc không rêu
Xanh tím Trắng ẩm Nội hàn cực nặng, xuất huyết ứ trệ




B.d. Một số tài liệu hiện đại nghiên cứu về thiệt chẩn:

Gần đây tài liệu vận dụng tri thức và phương pháp hiện đại vào nghiên cứu thiệt
chẩn Đông y ngày càng nhiều, từ tổ chức học, sinh hoá học, vi sinh vật học và ở
các góc độ khác nhau của các bộ môn lâm sàng, người ta đã quan sát về sự biến
hoá của cơ thể và chất lưỡi cho thấy nó có liên quan tới nội tại của bệnh tật, và sơ
bộ đã rút ra một số quy luật, khái quát làm mấy điểm để cùng tham khảo.


d.1. Những nhân tố làm thay đổi và thể cái lưỡi:

- Mầu sắc của chất lưỡi biến hoá và hình thái tuần hoàn máu ở lưỡi có quan hệ mật
thiết. Khi thiếu máu và phù nề ở các tổ chức thì sắc lưỡi biến thành nhạt. Khi xung
huyết hoặc huyết quản tăng sinh thì sắc lưỡi đậm thêm. Xuất huyết hoặc thiếu ôxy
đến mức tăng hoàn nguyên hồng cầu non thì sắc lưỡi xanh tím.

- Chất lưỡi phì nộn chủ yếu là do dưỡng chấp giảm, phù nề ở tổ chức lưỡi tạo
thành. Nếu do phù nề hoặc giảm trương lực cơ thì lưỡi to ra hoặc mềm nhẽo, ép
vào lợi thì thành ngấn răng.

- Chất lưỡi khô là do bài tiết nước bọt giảm, hoặc có kèm theo lượng mức trong
nước bọt giảm gây ra. Người bệnh âm hư thường có cường giao cảm, thần kinh
phó giao cảm bị ức chế làm thay đổi chất và lượng của việc bài tiết nước bọt, làm
cho chất lưỡi khô.

- Rãnh nứt trên lưỡi xuất hiện là do nhũ đầu của lưỡi dung hợp tạo thành lỗ rãnh.
Có người cho rằng nó có quan hệ với việc niêm mạc lưỡi co rút. Mặt lưỡi sáng
bóng là do niêm mạc trên da lưỡi co rút tạo thành.

d.2. Nhân tốt của biến hoá rêu lưỡi

- Rêu lưỡi bình thường là do sừng hoá chỏm chót của nhũ đầu và trong lỗ rỗng
không ngừng làm rơi sừng hoá da, ti khuẩn, bột nhỏ của đồ ăn, tế bào thấm xuất
cùng với nước bọt cấu thành.

- Rêu lưỡi biến dày là do sau khi bị bệnh, kém ăn, hoạt động của mỗi lưỡi giảm
bớt ma sát, hoặc do phát sốt, mất nước, phân bố nước bọt kém, ảnh hưởng đến tác
dụng làm sạch của lưỡi, đưa đến mớ nhũ đầu dài ra.


- Rêu lưỡi từ trắng biến sang vàng là do mớ nhũ đầu tăng sinh, sừng hoá tăng
mạch, tế bào ẩm ướt, huyết quản giãn to và chứa lượng khuẩn nhiều gây nên. Nó
có quan hệ lớn với chứng viêm nhiễm, phát sốt và công năng tiêu hoá rối loạn.

- Sắc rêu lưỡi biến thành đen là bởi mớ nhũ cầu trắng sinh quá nhiều, làm xuất
hiện sắc đen trong tế bào sừng hoá và sắc đen độc tố của khuẩn tăng thêm gây nên.
Bệnh lý lúc này đã lan sang tầng dưới của niêm mạc. Sốt cao mất nước, viêm
nhiễm, chất độc kích thích, công năng dạ dày và ruột rối loạn, nhiễm độc khuẩn,
dùng thuốc kháng sinh diện rộng kéo dài đều có quan hệ mật thiết với việc sinh ra
rêu lưỡi đen.

d.3. Chất lưỡi biến hoá và quan hệ của bệnh tật

- Biến hoá của hình tượng cái lưỡi đều phản ảnh sự nặng nhẹ và tiến triển của bệnh
tình. Chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng mỏng, ẩm hay hơi nhẫy,
đều thuộc bệnh tình rất nhẹ. Chất lưỡi hồng sẫm, tím chàm, rêu lưỡi vàng dày, sạm
đen, mềm nhẽo, khô khan, rất khô, hoặc sáng của không rêu đều thuộc bệnh tình
rất nặng.

Ví dụ: như người bị bỏng, mặt vết bỏng càng lớn, mức thương càng nặng, chất
lưỡi biến hồng càng nhanh, càng rõ ràng, nếu kiêm phát chứng bại huyết, thì chất
lưỡi càng hồng sẫm, khô cứng. Do vậy đối với thời kỳ đầu của chứng bại huyết, nó
giúp cho sự chẩn đoán. Viêm gan siêu vi trùng, số người rêu lưỡi mỏng là rất
nhiều, trắng nhầy hoặc trắng dầy có ít. Bệnh tật có xu hướng khỏi, thì rêu lưỡi
khôi phục, hoặc gần như bình thường. Bệnh tình tái diễn, thì biểu hiện rêu lưỡi
kéo dài không lui. Do đó, ý nghĩa rêu lưỡi ở trong chẩn bệnh tật cũng có giá trị
tham khảo.

- Một số biến hoá của lưỡi có ý nghĩa đặc thù về triệu chứng nhẹ, nặng của bệnh.
Viêm nhiễm, khối u ác tính, ba - dơ - đô, can, phế, thận có bệnh nặng về thực chất

cơ bản, thường thấy lưỡi âm hư. Chất lưỡi của số bệnh này là hồng sẫm, thân luỗi
gầy nhỏ, khô mà có rãnh nứt, rêu sáng xanh, ven đầu lưỡi có gai hồng. Cuối kỳ,
toàn bộ lưỡi sáng như gương. Chất lưỡi của bệnh gan xơ hoá nhẹ, thường là hồng
nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng mỏng. Tuần hoàn ở mỏm tĩnh mạch bị trở
ngại thì chất lưỡi chuyển snag tím, thể lưỡi trương to, tĩnh mạch dưới lưỡi trương
to từng khúc. Rêu lưỡi từ trắng mỏng chuyển sang sáng xanh thường biểu hiện
công năng của gan rối loạn. Quan sát biến hoá ở lưỡi, có thể giúp cho sớm phát
hiện hôn mê gan. Người bị viêm gan nặng, chết lưỡi thường hồng thẫm, khô khan,
ít nước; khi bệnh tình chuyển biến xấu càng thấy rõ ràng, rêu lưỡi dày, nhiều, nhầy
mà khô, sắc vàng hoặc đen cũng có khi sáng sủa không rêu.

Người ung thư mũi ở thời kỳ cuối mới thấy xuất hiện tượng lưỡi hồng, sáng sủa
không rêu, có khi lại mọc mụn nhọt ra ngoài.

C. XEM VĂN NGÓN TAY TRẺ EM. (CHỈ VĂN)

Văn ngón tay là tĩnh mạch nhỏ nổi ở mặt ngoài ngón tay trỏ (phía xương quay).
Trẻ em mới đẻ, da dẻ mềm mỏng, tĩnh mạch dễ bộc lộ, văn trên ngón tay rất dễ
nhận biết, sau đó tuỳ theo tuổi lớn dạ dày thêm văn tay mời dần. Ở mức độ nhất
định, văn ngón tay có thể phản ảnh tính chất và mức độ nặng nhẹ của bệnh biến.
Trẻ em mạch bộ ngắn, nhỏ, khi có bệnh luôn kêu khóc đã ảnh hưởng đến tính chân
thực của mạch tượng, cho nên lâm sàng nhi khoa đối với trẻ em dưới 3 tuổi thường
dùng cách xem văn tay giúp cho thiết chẩn.

Xem văn ngón tay, chủ yếu là xem màu sắc và độ chứa đựng máu của tĩnh mạch
nổi. Chia ngón tay trỏ ra làm 3 phần. Đốt 1 gọi là phong quan, đốt 2 gọi là khí
quan, đốt 3 gọi là mệnh quan.

Khi xem, người thầy thuốc đưa ngón tay trẻ ra chỗ sáng, lấy ngón tay cái và ngón
trỏ tay trái của mình nắm lấy đầu chót ngón trỏ của đứa trẻ, dùng ngón trỏ cái tay

phải vuốt nhẹ trên ngón trỏ của đứa trẻ về phía lòng bàn tay vài lần để văn tay nổi
rõ rồi mới xem.

Chỉ văn bình thường có mày tím nhạt mà tươi sáng, nhất thiết không vượt quá
phong quan. Khi có bệnh, độ chứa đựng máu và màu sắc của văn biến hoá như
sau:

- Chỉ văn rất nổi tiếng về biểu chứng

- Chỉ văn chìm là bệnh tại lý

- Chỉ văn sắc nhạt là hư chứng, hàn chứng

- Chỉ văn sắc tím hồng là thuộc nhiệt chứng

- Chỉ văn sắc xanh là phong hàn, hoặc kinh phong, hoặc đau đớn, hoặc thương
thực, hoặc đàm khí ngược lên.

- Chỉ văn sắc đen là ứ huyết

- Chỉ văn uất trệ (động đến mà máu không lưu thư) là đàm thấp, thực trệ, hoặc tà
nhiệt uất kết, thực chứng.

Về vị trí mà nói, chỉ văn hiện ở phong quan là bệnh tình còn nhẹ và nông. vươn
dài qua đến khí quan là bệnh tình đã nặng. Vươn dài qua mệnh quan tới tận đầu
mút ngón tay là "thấu quan xạ giáp" thì bệnh tình đã nguy ngập.

Tóm lại

Chỉ văn thể hiện:


- Phù, trầm là biểu lý

- Hồng, tím là hàn nhiệt

- Nhạt, trệ là hư thực

- Tam quan là nặng nhẹ

Một số tài liệu hiện đại nghiên cứu về chỉ văn nói chung đã cho rằng biến hoá độ
chứa đựng máu, chủ yếu quan hệ với tĩnh mạch áp ở trẻ em. Bệnh tâm lực suy
kiệt, viêm phổi, đại đa số thấy chỉ văn vươn tới mệnh quan, đó là do tĩnh mạch áp
gây ra. Tĩnh mạch áp càng cao, độ chứa đựng máu chỉ văn càng lớn, đều hướng ra
đầu ngón tay mà vươn tới. Mầu đậm của chỉ văn ở mức độ khác nhau, phản ánh
trình độ thiếu khí trong cơ thể. Thiếu khí càng nhiều thì lượng hồng cầu non hoàn
nguyên trong máu càng cao, màu xanh tím của chỉ văn cũng rõ thêm. Trẻ em bần
huyết, do hồng cầu và hồng cầu non giảm, chỉ văn nhạt đi.

3. VĂN CHẨN (NGHE)

Văn chẩn bao gồm hai mặt: nghe tiếng nói, âm thở và mùi vị

A. Nghe âm thanh âm bao gồm nghe tiếng nói, hơi thở, tiếng ho, tiếng ợ, nấc của
người bệnh.

Tiếng của người bệnh trầm nhỏ, đứt đoạn, ít hơi, ngại nói, là thuộc hư chứng hàn
chứng. Tiếng cao, có sức hoặc nói nhiều liên thiên là thực chứng nhiệt chứng.

Tiếng nói đột nhiên khản câm, thường là phong hàn hoặc đàm ở thực chứng gây
ra. Tiếng nói khàn câm từ từ là phế nuy (phổi yếu khô) tân khô của hư chứng. Hơi

thở gấp mà yếu, hít hơi xong cảm thấy dễ chịu là hư chứng. Thở hít tiếng thô, thở
ra xong thấy dễ chịu là thực chứng, nhiệt chứng. Bệnh lâu ngày, phế thận muốn
tuyệt, cũng thấy khí thô, đứt đứt, nối nối, không phải là có thực chứng mà là hư
chứng.

Nhiệt nhập tâm bào, thần chí mê mệt cũng thấy hơi thở nhỏ yếu, nhưng không
phải hư chứng mà là thực chứng.

Tiếng ho yếu là khí phế hư. Tiếng ho nặng nề, đục, đờm trắng là thuộc ngoại cảm
phong hàn. Tiếng ho trong trẻo, ho đờm khó ra là phế nhiệt. Ho từng cơn mà có
sức là phế thực.

Tiếng nấc mạnh mà có sức, mạch hoạt, thực là thực chứng mà nấc. Tiếng nấc cao
mà ngắn gấp, họng khô khát, mạch sác là nhiệt nấc. Tiếng nấc yếu, mạch vô lực,
kèm chứng trạng hư là hư nấc. Bệnh nặng, bệnh lâu ngày, đột nhiên thấy nấc là
chứng trạng nguy kịch.

B. Ngửi mùi vị: Bao gồm hơi người, hơi mồm, mùi các loại bài tiết. Một số bệnh
có mùi đặc biệt, như người có bệnh lở loét thì phát ra mùi thịt thối; bệnh ôn dịch,
gan, thận nặng thường có mùi riêng biệt.

Hơi miệng hôi, tanh là phế vị có nhiệt; hôi chua là có vị tích thực. Đờm tanh là phế
nhiệt, rất hôi là ung thư phổi đã có mủ. Về mặt đại tiểu tiện, kinh nguyệt, khí hư
thì theo như vấn chẩn.

4. THIẾT CHẨN (BẮT MẠCH VÀ SỜ NẮN)

A. Bắt mạch (mạch chẩn): Nhận biết và phân biệt mạch tượng trong Đông y là
vô cùng tỷ mỷ. Tất cả chia ra 28 loại mạch tượng, làm thành một mặt trọng yếu
của chẩn đoán lâm sàng.


A.a. Phương pháp bắt mạch:
;

Thông thường tiến hành ở động mạch quay cổ tay, phía lòng bàn tay (gọi là mạch
thốn khẩu). Đoạn động mạch này chia làm 3 khẩu gọi là Thốn bộ, Quan bộ, Xích
bộ; Ngang chỗ xương quay lồi ra là Quan bộ, dưới Quan là Thốn, trên Quan là
Xích. Trước khi bắt mạch, yêu cầu nghỉ ngơi một lúc rồi mới chẩn mạch). Khi
chẩn mạch, cánh tay người bệnh duỗi ngang ra, lòng bàn tay ngửa ra ngay ngắn.
Người thầy thuốc, trước hết lấy đầu ngón tay giữa để vào Quan bộ, sau đó đến
ngón tay trỏ để vào Thốn bộ, rồi ngón tay nhẫn để vào Xích bộ, 3 ngón tay để sát
vào nhau. Nếu người bệnh cao lớn hơn bình thường, thì 3 ngón tay nới rộng ra.
Trẻ em thốn khẩu mạch còn ngắn, chỉ nên dùng một ngón tay chẩn cả 3 bộ mạch.
Chẩn cho trẻ dưới 8 tuổi lấy ngón tay cái đặt ở quan bộ, trên 8 tuổi xê dịch ngón
cái mà chẩn 3 bộ bộ. Khi chẩn, cần dùng sức ngón tay khác nhau để đo mạch. Nhẹ
tay xem mạch gọi là Phù thủ (lấy nổi) hoặc gọi là Cử; hơi dùng sức là Trung thủ;
ấn nặng gọi là Trầm thủ hoặc là án, có khi cần thay đổi ngón tay tìm kiếm mới
thấy được cảm giác rõ ràng, gọi là Tâm.

Ba bộ thốn, quan, xích bên phải bên trái khác nhau. Có thể phân biệt chuẩn xác
chứng ở các tạng phủ khác nhau.

Bên trái: Thốn = Tâm; Quan = Can; Xích = Thân

Bên phải: Thốn = Phế; Quan = Tỳ; Xích = Thân (Mệnh môn)

(Cách nói Trái = Thận; Phải = Mệnh môn chỉ dùng trong bắt mạch

A.b. Đặc điểm của mạch tượng và chủ bệnh (6 cặp, 12 loại mạch thường gặp)


Dưới đây chủ yếu giới thiệu mạch tượng thường thấy trên lâm sàng. Hiểu biết các
đặc điểm của mạch tượng là dựa vào vị trí mạch cao thấp, tần số nhanh chậm, tiết
luật mạnh yếu, hình thái to nhỏ của mạch tượng. Bình thường là một lần hô hấp
(nhất tức) bình quân mạch nhảy 4 đến 5 lần (đại để tương đương 72 - 80 lần trong
một phút), không nổi không chìm, không to không nhỏ, đều đều, hoà hoãn gọi là
mạch hoãn. Nhưng nếu bị khí thấp gây bệnh cũng thấy mạch hoãn. Cũng có thể
nhận thấy mạch hoãn kiêm phù, kiêm trầm, kiêm đại, kiêm tiểu, đó là mạch bệnh.

- Mạch phù, và mạch trầm: đặc điểm của hai loại mạch tượng này là ngược nhau
về mạch vị cao thấp.

Mạch phù, mạch vị cao, mới tiếp xúc nhẹ tay đã có cảm giác rõ, dùng sức hơi nặng
thì cảm giác mạch giảm đi.

Mạch trầm, mạch vị thấp, nhè nhẹ tiếp xúc không thấy được, hơi dùng sức cũng
không thấy được rõ, cần ấn nặng tay mới thấy.

Mạch phù chủ bệnh: Biểu chứng

Phù mà có lực: biểu thực, Phù mà vô lực: biểu hư. Như bệnh ngoại cảm, sợ lạnh,
phát sốt, không có mồ hôi, mạch phù, khẩn là biểu hiện hàn thực chứng. Bệnh
ngoại cảm phát sốt, ra mồ hôi, sợ gió, mạch phù, nhược là biểu hàn hư chứng.

Những người hư nhược về thể chất khi có bệnh ngoại cảm thường mạch không
phù. Bệnh truyền nhiễm cấp tính sơ kỳ, thường thấy mạch phù.

Mạch trầm chủ bệnh: Lý chứng

Trầm mà có lực: lý chứng. Trầm mà vô lực: lý hư. Như ho hắng mà vô lực, đờm
trong, trắng, ngắn hơi, sắc mặt trắng, ăn ít, mệt mỏi, mạch trầm nhược là phế k hí

hư, thuộc lý hư chứng.

- Mạch trì và mạch sắc: Đặc điểm của hai loại mạch tượng này là ngược nhau về
tần số của mạch chuyển nhanh hay chậm.

×