CÁCH PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH TỤ HUYẾT
TRÙNG TRÊN BÊ
1. Nguyên nhân:
Bệnh tụ huyết trùng là bệnh truyền nhiễm cấp tính
do vi khuẩn Pasteurella multocida gây ra với tính
chất dịch lẻ tẻ, nhưng cũng có khi thành dịch địa
phương. Bệnh thường xảy ra vào thời điểm giao mùa,
do vi khuẩn tồn tại trong môi trường, trong động vật
khỏe mang trùng, khi gặp các điều kiện thuận lợi (sức
đề kháng kém, thời tiết thay đổi đột ngột…) vi khuẩn
sẽ tấn công, nhân lên trong thú mang trùng, lây lan
thú cảm nhiễm tiếp xúc và sinh bệnh. Đồng thời,
cũng có thể gây bệnh cho người thông qua vết cắn.
Bệnh có đặc điểm là gây bại huyết, xuất huyết và xáo
trộn hô hấp chủ yếu gây viêm phổi. Bệnh thường
ghép với các bệnh khác như dịch tả trâu bò, dịch tả
heo hay viêm phổi do Mycoplasma hyopneumonia.
Mặc dù, bệnh tụ huyết trùng đã được liệt vào danh
sách những bệnh bắt buộc tiêm phòng, tuy nhiên
nhận thức của một bộ phận người chăn nuôi còn thấp,
không phát hiện và phản ánh kịp thời tình hình dịch
bệnh. Do vậy, bệnh vẫn bộc phát thành dịch ở nhiều
địa phương, gây tổn thất nặng nề về mặt kinh tế.
2. Triệu
chứng:
Bê bị tụ huyết vùng đầu
- Thể cấp tính: thời kỳ nung bệnh ngắn 1 – 3 ngày.
Thú bệnh sốt cao 41 - 42
o
C, mắt đỏ, nước mắt, mũi
chảy liên tục; tổ chức dưới da có tụ huyết đỏ sẫm, tối
xám; thở mạnh và khó do màng phổi viêm, tràn dịch,
tụ huyết, viêm phổi cấp; không nhai lại; hạch lâm ba
sưng, nhất là ở hầu sưng rất to, gia súc phải lè lưỡi ra
để thở; chướng hơi dạ cỏ, chết nhanh trong 24 giờ.
Tỷ lệ chết 90 - 100%; lúc gần chết, thú bệnh nằm liệt,
đái ra máu, thở rất khó, xuất huyết ở các niêm mạc.
Một số bị thể đường ruột thì chùm hạch ruột to có
xuất huyết, niêm mạc ruột tụ, xuất huyết nặng, tróc
ra, tiêu chảy dữ dội, phân lẫn máu.
- Thể bán cấp tính: thú bệnh sốt cao 41 - 42oC, thở
khó, chảy nhiều nước bọt, sưng hạch dưới hàm,
chướng hơi dạ cỏ. Bệnh kéo dài trên 1 tuần, thú kiệt
sức rồi chết.
- Thể mãn tính: có trường hợp thú khỏi bệnh trong
vài tuần, nếu sức đề kháng của thú tốt. Lúc này bệnh
chuyển sang thể mãn tính, ruột viêm lúc tiêu chảy,
lúc táo bón; viêm khớp; viêm phế quản và phổi mãn
tính.
3. Phòng và trị bệnh:
Trước hết phải làm tốt công tác vệ sinh phòng dịch
như sau:
+ Thường xuyên vệ sinh chuồng trại, định kỳ 2 – 3
lần/tháng phun thuốc sát trùng, tiêu diệt mầm bệnh.
+ Phát hiện sớm và cách ly thú bệnh, thú nhập đàn.
+ Diệt chuột
+ Không nuôi chung các loại thú khác nhau trong
trại.
+ Không vận chuyển, giết mổ, phân phối và sử
dụng thịt thú bệnh chết mà phải thực hiện tiêu hủy
theo Pháp lệnh thú y 2004.
Ngoài ra, để hạn chế bệnh xảy ra cần tiêm phòng
vaccin tụ huyết trùng P52 cho bê từ 6 tháng tuổi trở
lên. Định kỳ 2 lần/năm vào lúc giao mùa.
- Thú bệnh có thể áp dụng biện pháp điều trị như
sau:
+ Kháng sinh đặc trị: streptomycine tiêm bắp liều
25mg/kg thể trọng ngày 2 lần, liệu trình 3 - 5 ngày
hoặc gentamycine, terramycine, septotryl
+ Hạ sốt: analgin, paracetamol
+ Trợ lực: vitamin C, gluconat canxi, Bcomplex
- Thuốc trợ hô hấp: eucalyptyl, camphorat.
Tuy nhiên, đây là bệnh bắt buộc phải công bố dịch.
Liễu Kiều