Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
ĐÀO THỊ HƢƠNG
“NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ
YẾU TỐ NỘI SINH VÀ NGOẠI CẢNH TỚI KHẢ NĂNG
PHÁT TRIỂN CỦA ĐÀN ONG MẬT APIS CERANA
NUÔI TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN”
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
ĐÀO THỊ HƢƠNG
“NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ
YẾU TỐ NỘI SINH VÀ NGOẠI CẢNH TỚI KHẢ NĂNG
PHÁT TRIỂN CỦA ĐÀN ONG MẬT APIS CERANA
NUÔI TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN”
Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. TS. Trƣơng Hữu Dũng
2.ThS. Phùng Đức Hoàn
THÁI NGUYÊN - 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi, những số liệu
và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chưa được
sử dụng để bảo vệ ở một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các
tài liệu tham khảo, trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 12 năm 2013
Tác giả luận văn
Đào Thị Hƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN
Được sự giúp đỡ của Nhà trường, phòng Đào tạo Sau đại học, cơ quan
và gia đình, đặc biệt là sự quan tâm, tận tình giúp đỡ của hai thầy giáo hướng
dẫn tôi đã hoàn thành luận văn này.
Nhân dịp này tôi xin trân trọng cảm ơn trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, phòng Đào tạo Sau đại học, khoa Chăn nuôi Thú y, Viện Khoa học
Sự sống, Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên; Trung tâm Khí tượng Thủy văn
Thái Nguyên; phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Đại Từ,
Đồng Hỷ và thành phố Thái Nguyên;
Để hoàn thành bản luận văn này tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới TS. Trương Hữu Dũng, ThS. Phùng Đức Hoàn là người thầy hướng dẫn
về khoa học, đã giúp đỡ tôi tận tình và có trách nhiệm trong quá trình nghiên
cứu cũng như hoàn thiện bản luận văn.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới toàn thể
gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và sự giúp
đỡ vô hạn về mọi mặt, động viên, khuyến khích tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng tôi xin trân trọng gửi tới các thầy cô giáo, các quý vị trong
Hội đồng chấm luận văn lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 12 năm 2013
Tác giả luận văn
Đào Thị Hƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ viii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích của đề tài 3
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.1.1. Nguồn gốc, phân loại và một số đặc điểm về hình thái của ong nội 4
1.1.1.1. Vị trí phân loại của ong mật 4
1.1.1.2. Tổ chức xã hội của loài ong mật Apis cerena 6
1.1.2. Hiện tượng chia đàn tự nhiên đối với ong mật Apis cerana 13
1.1.3. Năng suất, chất lượng ong mật Apis cerana và các yếu tố ảnh hưởng . 15
1.1.3.1. Năng suất của ong mật Apis cerana 15
1.1.3.2. Chất lượng của mật ong Apis cerana. 16
1.1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng mật ong 19
1.2. Một số nghiên cứu trong nước và nước ngoài 25
1.2.1. Một số nghiên cứu nâng cao năng suất, chất lượng mật ong 25
1.2.2. Một số nghiên cứu về ảnh hưởng của điều kiện thời tiết khí hậu, mùa vụ
tới nghề nuôi ong mật 26
1.2.3. Một số nghiên cứu về mối quan hệ giữa đặc điểm sinh học với năng
suất, chất lượng mật ong 28
1.2.4. Một số nghiên cứu về sâu bệnh, địch hại ong mật 29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
iv
1.3. Điều kiện tự nhiên và tình hình nuôi ong tại tỉnh Thái Nguyên 33
1.3.1. Điều kiện tự nhiên 33
1.3.1.1. Vị trí địa lý 33
1.3.1.2. Địa hình đất đai 33
1.3.1.3. Điều kiện khí hậu 33
1.3.2. Các cây hoa nguồn mật chính ở tỉnh Thái Nguyên 34
1.3.3. Tình hình nuôi ong trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 35
Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 37
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 37
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 37
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 37
2.1.3. Thời gian nghiên cứu 37
2.2. Nội dung nghiên cứu 37
2.2.1. Thực trạng ngành nuôi ong tại tỉnh Thái Nguyên 37
2.2.2. Ảnh hưởng của một số yếu tố đến khả năng sản xuất của ong mật Apis cerena 37
2.2.2.1. Ảnh hưởng của một số yếu tố nội sinh (quy mô đàn ong; lượng mật
phấn dự trữ; số lượng mũ chúa; tuổi ong chúa; tần suất xây mũ chúa) đến khả
năng tăng đàn 37
2.2.2.2. Ảnh hưởng của một số yếu tố (mùa vụ; vùng miền) đến năng suất
mật ong. 37
2.2.3. Ảnh hưởng của một số yếu tố (loại hoa; vùng miền) đến chất lượng
mật ong 37
2.2.4. Đề xuất một số giải pháp kỹ thuật để phát triển nghề nuôi ong mật ở
Thái Nguyên trong thời gian tới 37
2.3. Phương pháp nghiên cứu 37
2.3.1. Nhóm các chỉ tiêu điều tra 37
2.3.2. Nhóm các chỉ tiêu nghiên cứu 38
2.4. Phương pháp xử lý số liệu 40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
v
Chƣơng 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 41
3.1. Thực trạng nghề nuôi ong mật Apis cerana tại tỉnh Thái Nguyên 41
3.1.1. Tình hình thời tiết khí hậu ở Thái Nguyên 41
3.1.2. Quy mô và cơ cấu đàn ong nuôi tại các nông hộ tại tỉnh Thái Nguyên 43
3.1.3. Một số cây nguồn mật chủ yếu và lịch nở hoa tại Thái Nguyên 46
3.1.4. Tình hình sâu bệnh đối với đàn ong mật Apis cerana 48
3.1.5. Tình hình địch hại đối với đàn ong mật Apis cerana nuôi ở tỉnh Thái Nguyên . 50
3.2. Ảnh hưởng của một số yếu tố đến khả năng sản xuất của đàn ong 51
3.2.1. Ảnh hưởng của một số yếu tố nội sinh đến khả năng tăng đàn 51
3.2.1.1. Ảnh hưởng của quy mô đàn đến số lượng mũ chúa 51
3.2.1.2. Ảnh hưởng của lượng mật phấn dự trữ đến số lượng mũ chúa 52
3.2.1.3. Ảnh hưởng của mùa vụ đến tần xuất xây mũ chúa 54
3.2.1.4. Ảnh hưởng của tuổi ong chúa đến tình hình xây mũ chúa 56
3.2.2. Ảnh hưởng của một số yếu tố đến năng suất mật ong 58
3.2.2.1. Ảnh hưởng của mùa vụ đến năng suất mật ong 58
3.2.2.2. Ảnh hưởng của vùng miền (Đại Từ, Đồng Hỷ, TPTN) đến năng suất
mật ong Apis cerana nuôi tại Thái Nguyên 61
3.3. Ảnh hưởng của một số yếu tố đến chất lượng mật ong 63
3.3.1. Ảnh hưởng của loại hoa đến chất lượng mật ong 63
3.3.2. Ảnh hưởng của vùng miền đến chất lượng mật ong 66
3.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển đàn ong mật Apis cerana tại
Thái Nguyên trong những năm tới 68
3.4.1. Khả năng phát triển nghề nuôi ong mật đến năm 2015 tỉnh Thái Nguyên 68
3.4.2. Một số giải pháp đề xuất nhằm phát triển nghề ong ở tỉnh Thái Nguyên . 69
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 70
1. Kết luận 70
2. Đề nghị 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
A.cerana
: Apis cerana
A.mellifera
: Apis mellifera
BQ
: Bình quân
DT
: Diện tích
ĐVT
: Đơn vị tính
FAO
: Tổ chức lương thực và nông nghiệp thế giới
HMF
: Hydro methyl fufural
PTNT
: Phát triển nông thôn
SL
: Số lượng
T1, T2, T12
: Tháng 1, tháng 2, tháng 12
TCVN
: Tiêu chuẩn Việt Nam
TL
: Tỷ lệ
TPTN
: Thành phố Thái Nguyên
VN
: Việt Nam
WHO
: Tổ chức Y tế thế giới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Tình hình thời tiết khí hậu năm 2012, 6 tháng đầu năm 2013 41
Bảng 3.2: Cơ cấu số hộ nuôi ong và cơ cấu đàn ong nuôi tại các hộ 43
Bảng 3.3: Diện tích cây nguồn mật và thời gian nở hoa 46
Bảng 3.4: Tình hình sâu bệnh đối với đàn ong mật Apis cerana 48
Bảng 3.5: Tình hình địch hại đối với đàn ong mật Apis cerana 50
Bảng 3.6: Ảnh hưởng của quy mô đàn đến số lượng mũ chúa 51
Bảng 3.7: Ảnh hưởng của lượng mật phấn dự trữ đến số lượng mũ chúa 53
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của mùa vụ đến tần xuất xây mũ chúa 54
Bảng 3.9: Ảnh hưởng của tuổi ong chúa đến tình hình xây mũ chúa 56
Bảng 3.10: Ảnh hưởng của mùa vụ đến năng suất mật ong 59
Bảng 3.11: Ảnh hưởng của vùng miền đến năng suất mật ong 61
Bảng 3.12: Ảnh hưởng loại hoa đến chất lượng mật ong 64
Bảng 3.13: Ảnh hưởng vùng miền đến chất lượng mật ong 66
Bảng 3.14: Khả năng phát triển nghề nuôi ong trong thời gian tới 68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
viii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Cơ cấu số hộ nuôi ong mật Apis cerana 45
Biểu đồ 3.2: Cơ cấu đàn ong mật Apis cerana 45
Biểu đồ 3.3: Ảnh hưởng của mùa vụ đến tần xuất xây mũ chúa 56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tình hình thời tiết khí hậu trên thế giới nói
chung và ở nước ta nói riêng có nhiều biến đổi phức tạp theo chiều hướng bất
lợi cho ngành sản xuất nông nghiệp trong đó có ngành chăn nuôi. Tình hình
dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng ở trâu bò và dịch bệnh tai xanh ở
lợn đã liên tục bùng phát và làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của
ngành chăn nuôi. Trước tình hình đó, việc tìm ra một hướng đi mới cho ngành
chăn nuôi nhằm tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập đồng thời xoá đói giảm
nghèo cho người nông dân, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới là
vấn đề được Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm. Một trong những đối tượng được
chọn để phục vụ cho các mục đích này là con ong và sự phát triển nghề nuôi ong.
Nghề nuôi ong đòi hỏi nhiều về kỹ thuật, không đòi hỏi có diện tích đất
đai riêng, không bóc lột tài nguyên thiên nhiên. Vốn đầu tư ban đầu cho nuôi
ong không lớn chủ yếu là mua giống và một số thức ăn, còn các vật liệu khác
rẻ tiền như thùng nuôi ong, dụng cụ thu mật, khung cầu… có thể tận dụng gỗ,
tre khai thác tại chỗ, chi phí thấp thu hồi vốn nhanh. Nuôi ong có ý nghĩa kinh
tế lớn, các sản phẩm do ong tạo ra như mật ong, phấn hoa, sữa chúa không
chỉ là nguồn thực phẩm cao cấp, nguồn dược liệu quý sử dụng trong y học và
nhiều ngành công nghiệp khác mà còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Đồng
thời nuôi ong mật đã góp phần gián tiếp làm tăng năng suất và chất lượng cho
các cây trồng, nông, lâm nghiệp. Dùng ong để thụ phấn cho cây trồng là một
biện pháp thâm canh tăng năng suất đạt hiệu quả cao, theo tính toán của các
chuyên gia thì lợi nhuận do ong thụ phấn cho cây trồng lớn hơn lợi nhuận
toàn bộ các sản phẩm từ ngành ong từ 10 đến 140 lần (Levin, 1983 [43];
Eaton, 1994 [40]). Nuôi ong còn tạo thêm công ăn việc làm cho người dân,
một vấn đề rất có ý nghĩa với một nước nông nghiệp với lực lượng lao động
nông thôn dồi dào và đang có chiều hướng dư thừa như ở Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
2
Cùng với những thuận lợi sẵn có của nghề nuôi ong thì trong những
năm gần đây nhờ có các dự án, chương trình phát triển lâm nghiệp, phủ xanh
đất trống đồi núi trọc, trồng và bảo vệ rừng phòng hộ, chuyển đổi, cải tạo
vườn tạp sang phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp tập trung với quy mô
lớn đã góp phần tạo ra nguồn thức ăn dồi dào, phong phú, là điều kiện thuận
lợi cho nghề nuôi ong phát triển.
Hiện nay, ở Thái Nguyên nghề nuôi ong đã có những bước phát triển
mạnh, từ năm 1996 đến nay nhờ các chương trình dự án về phát triển nuôi
ong mật với người nghèo của các tổ chức phi chính phủ như Canada…. đã
góp phần xóa đói giảm nghèo cho một số hộ dân. Năm 2011 Trung tâm học
liệu Thái Nguyên đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Quốc gia triển
khai Dự án “Phát triển vật nuôi bản địa và đặc sản” cụ thể là nuôi ong mật
Apis cerana tại một số địa phương tỉnh Thái Nguyên. Dự án đã được triển
khai trên địa bàn 2 xã Phúc Hà (TP Thái Nguyên) và xã Linh Sơn (huyện
Đồng Hỷ), với quy mô 400 đàn ong, 35 hộ dân tham gia. Dự án đang mang lại
cho người dân nhiều lợi ích, mở ra hướng đi mới, mang lại hiệu quả kinh tế
cao cho các hộ nuôi ong. Nuôi ong lấy mật là nghề thoát nghèo, làm giàu hiệu
quả cho nông dân, nhất là người dân ở các vùng trung du miền núi.
Giống ong nội có đặc tính dễ thích nghi, cần cù, chịu khó và không đòi
hỏi nguồn hoa tập trung. Tuy nhiên, giống ong này còn bộc lộ nhiều nhược
điểm cần khắc phục như: Năng suất mật thấp, tính tụ đàn không cao, dễ bốc
bay, tốc độ tăng đàn chậm… Đây là những khó khăn mà người dân nuôi ong
mật hay gặp phải. Để góp phần giải quyết những vấn đề đó, tìm ra các giải
pháp phát triển và nâng cao hiệu quả của nghề nuôi ong tại Thái Nguyên
trong thời gian tới chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của
một số yếu tố nội sinh và ngoại cảnh tới khả năng phát triển của đàn ong
mật Apis cerana tại tỉnh Thái Nguyên”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
3
2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá thực trạng phát triển của đàn ong nội Apis cerana nuôi tại tỉnh
Thái Nguyên.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố nội sinh và ngoại cảnh đến
năng suất của đàn ong mật.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố ngoại cảnh đến chất lượng
mật ong.
- Đề xuất một số giải pháp kỹ thuật nhằm góp phần phát triển nghề nuôi
ong mật tại Thái Nguyên trong những năm tiếp theo.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học:
+ Kết quả nghiên cứu là nguồn tư liệu phục vụ cho công tác học tập,
nghiên cứu ở các trường Đại học và cao đẳng, các trung tâm nghiên cứu về
con ong.
+ Từ những kết quả nghiên cứu để đưa ra những giải pháp kỹ thuật nhằm
xây dựng qui trình chăn nuôi ong mật.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phong trào
nuôi ong của các nông hộ trong thời gian tới ở tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Nguồn gốc, phân loại và một số đặc điểm về hình thái của ong nội
1.1.1.1. Vị trí phân loại của ong mật
Theo tác giả F. Ruttner (1988) [45] ong mật thuộc
- Ngành: Chân đốt (A. thropada)
- Lớp: Côn trùng (Insecta)
- Bộ: Cánh màng (Hymenoptera)
- Họ: Ong mật (Apisdae)
- Tộc: (Apini)
- Giống: Ong mật (Apis)
Trên thế giới có 9 loài ong cho mật còn ở nước ta có 4 loài chính:
Số TT
Tên khoa học
Tên Việt Nam
1
Apis cerana
Ong châu Á (ong nội, ong ruồi)
2
Apis mellifera
Ong châu Âu (ong ngoại)
3
Apis dorsata
Ong khoái hay ong gác kèo
4
Apis florea
Ong hoa hoặc ong muỗi
Riêng hai loài A. dorsata và A. florae là loài dã sinh chưa được thuần
hoá, mới dừng ở mức khai thác tự nhiên. Một trong những loài ong mật được
nuôi phổ biến ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng là loài
ong mật Apis cerana.
Dựa trên đặc điểm hình thái, phân bố địa lý loài ong nội (A. cerana)
được chia thành 4 phân loài: A. cerana indica (Fabricius 1798), A. cerana
cerana (Fabricius 1793), A. cerana himalaya (Maa 1944) và A. cerana
japonica (Radoszkowski 1877) (Ruttner, 1988) [50]. Còn Heburn H.R.et al
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
5
(2001) chia ong nội thành 33 phân loài, trong đó có 9 phân loài có tên và 24
phân loài chưa được đặt tên: A. cerana cerana (Fabricius 1793), A. cerana
indica (Fabricius 1798), A. cerana japonica (Radoszkowski 1877), A. cerana
javana (Enderlein 1906), A. cerana himalaya (Maa 1944), A. cerana skorikovi
(Maa 1944), A. cerana abaensis (Yun and Kuang 1982), A. cerana hainanensis
(Yun and Kuang 1982) và A. cerana philipina (Skorikovi 1929). Radloff S.E.et
al (2005), thu thập 58 đàn ong A. cerana vùng phía tây dãy Himalaya với 27
chỉ tiêu hình thái được xử lí thống kê bằng phương pháp phân tích đa biến đã
xác định được khu vực này có 2 nhóm là: Hindu Kush - Kashmir và Himachal
Pradesh (dẫn theo Nguyễn Thị Thắm, 2010) [28].
Ở Việt Nam, từ năm 1978 đến nay đã nhiều tác giả nghiên cứu về hình
thái ong A. cerana trên các địa phương khác nhau (Lê Đình Thái, Nguyễn
Văn Niệm 1980 [27]; Nguyễn Văn Niệm, 1991 [21]. Qua phân tích các tác giả
đã đi đến kết luận: Theo sự giảm về vĩ độ thì kích thước cơ thể ong nhỏ đi. A.
cerana ở miền Bắc có kích thước lớn hơn A. cerana ở miền Nam, ong ở Hoà
Bình có kích thước lớn hơn ong ở Như Xuân - Thanh Hoá. Ong ở miền Bắc
có một số chỉ tiêu thuộc về ong A. cerana cerana như chiều dài vòi hút của
ong đực. Một số chỉ tiêu khác như chiều dài/chiều rộng ô Radian, chiều dài
cánh trước ong chúa lại thuộc về phân loài A. cerana indica. Do các chỉ tiêu
phân tích còn ít, chỉ có 27 chỉ tiêu, trong đó ở ong thợ là 14 chỉ tiêu, trong khi
ở nước ngoài phân tích từ 35-55 chỉ tiêu cho nên trong suốt thời gian đầu các
nhà khoa học Việt Nam chưa khẳng định được ong A. cerana của ta thuộc
phân loài nào. Đến năm 1992, các tác giả Nguyễn Văn Niệm và Trần Đức Hà
mới kết luận: Ong A. cerana miền Bắc thuộc phân loài A. cerana cerana.
Theo kết quả phân tích 4 mẫu ong ở miền Bắc Việt Nam, tác giả Rutter, 1988
[50] cho biết: A. cerana ở miền Bắc thuộc phân loài A. cerana cerana nhưng
các chỉ tiêu hình thái của ong A. cerana cerana lại tách riêng ra một nhóm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
6
gần với A. cerana himalaya. Trên bản đồ phân loại ong A. cerana ở phía Nam
nước ta thuộc phân loài A. cerana indica. Theo Nguyễn Văn Niệm, 1991 [21],
ong A. cerana ở miền Bắc có tầm vóc lớn hơn A. cerana ở miền Nam.
1.1.1.2. Tổ chức xã hội của loài ong mật Apis cerena
Ong mật có đặc tính sống thành xã hội điển hình nhất trong xã hội côn
trùng. Đàn ong là một đơn vị sinh học hoàn chỉnh, mọi hoạt động trong xã hội là
theo một sự phân công vô cùng chặt chẽ nhưng đồng thời cũng rất linh hoạt
(Nguyễn Duy Hoan và cs, 2008 [15]). Một đàn ong thông thường có một ong
chúa (làm nhiệm vụ sinh sản), hàng vạn ong thợ trưởng thành và trong mùa
hoạt động có vài trăm ong đực cùng với một số trứng, ấu trùng và nhộng sẽ
nở thành ong thợ và ong đực. Có thể có những trường hợp đàn ong trong một
thời điểm nào đó không có trứng, ấu trùng và nhộng do vào mùa Đông không
có hoa, ong chúa tơ chưa giao phối, chưa đẻ hoặc do cách xử lý của người
nuôi ong trong một số tổ nhất định. Khi ong chúa già và chết hoặc bị người
nuôi ong mang đi nơi khác, đàn ong có thể tạo ra chúa mới. Người nuôi ong
cũng có thể tạo ra chúa mới để thay thế cho những ong chúa đã già hoặc cho
đàn ong bị mất chúa. Ong đực thường không có mặt trong đàn ong vào những
mùa ong chúa ngừng đẻ hoặc khan hiếm thức ăn. Trong đàn ong bao gồm 3
loại hình ong: Ong chúa, ong thợ và ong đực. Mỗi loại hình có một vị trí sinh
học nhất định trong đàn nhưng gắn bó, ảnh hưởng lẫn nhau rất chặt chẽ (Hoàng
Đức Nhuận, Nguyễn Đức Khảm, 1980 [23]).
- Đời sống của ong thợ
Vòng đời của ong mật trải qua 4 giai đoạn: Trứng, ấu trùng, nhộng và
ong trưởng thành. Trong cùng một đàn, thời gian phát triển của ong thợ, ong
đực và ong chúa là khác nhau, giữa các loài có sự khác nhau lớn.
Ở giai đoạn trứng, phôi phát triển nhờ hấp thụ chất dinh dưỡng từ lòng
đỏ, giàu protein. Trứng nở thành ấu trùng, ấu trùng được những con ong non
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
7
nuôi bằng thức ăn đưa vào lỗ tổ. Ấu trùng tăng trưởng rất nhanh về kích thước
cũng như về khối lượng, nhờ sự tăng của các tế bào cơ thể đến hàng nghìn lần
kích thước ban đầu mà không có sự phân chia.
Ong thợ phát triển từ trứng trong những lỗ tổ gần như nằm ngang ở cầu
ong. Những trứng nở thành ong thợ là những trứng đã được thụ tinh bằng tinh
trùng của ong đực, dự trữ trong túi chứa tinh trong cơ thể ong chúa và được
điều tiết theo phản ứng của ong chúa đối với kích thước lỗ tổ ong thợ.
Những con ong thợ non làm nhiệm vụ “nuôi dưỡng”, thường xuyên tiết
chất dinh dưỡng từ hạ hầu của chúng vào những lỗ tổ có ấu trùng. Lidauer
(1953) tính rằng tổng cộng tới 143 lần cho ăn cho mỗi ấu trùng, mỗi con ong
“nuôi dưỡng” có khả năng cho ấu trùng ăn tới 400 lần, nghĩa là trong cuộc đời
của nó có thể nuôi 2-3 ấu trùng (Crane, E, 1990 [37]).
Thức ăn nuôi ấu trùng được tiết ra từ những tuyến hạ hầu và hàm trên
của những con ong “nuôi dưỡng” (ong thợ non), giầu protein, vitamin và
những chất dinh dưỡng cần thiết cho ấu trùng. Phần lớn những chất dinh
dưỡng đó chuyển hoá từ phấn hoa do ong “nuôi dưỡng” đã ăn. Thức ăn mà
ong “nuôi dưỡng” để nuôi ấu trùng là “sữa ong thợ” khác với “sữa ong chúa”
chỉ dành riêng cung cấp cho lỗ tổ có ấu trùng ong chúa.
Thức ăn của ấu trùng ong thợ trong mấy ngày đầu có tỷ lệ đường thấp.
Sau 2,5-3 ngày, thức ăn của ấu trùng thay đổi, có thêm mật và phấn, thành
phần phấn hoa trong sữa ong thợ chỉ là phụ mà thôi. Khi được 5 ngày tuổi, ấu
trùng ngừng ăn và ong thợ vít nắp lỗ tổ. Khác với ấu trùng ong chúa, ấu trùng
nằm trong lỗ tổ vít nắp không được ăn nữa. Khi đã phát triển đầy đủ thì ấu
trùng tiết ra các sợi tơ để làm kén và trong quá trình kéo kén ấu trùng lộn một
số vòng, ong thợ lộn 37 vòng, ong chúa lộn 40-50 vòng, ong đực lộn 40-80
vòng, mỗi vòng diễn ra khoảng một giờ hoặc non một giờ. Cuối cùng, ấu
trùng ong thợ nằm dọc theo lỗ tổ, đầu hướng ra phía ngoài; nó thực hiện được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
8
sự chuyển mình này không phải vì phản ứng đối với trọng lực như ở ấu trùng
ong chúa, mà vì nhận biết được sự khác nhau về cấu tạo và hình dạng của nắp
và đáy tổ, đáy lỗ tổ hình thành bởi vách giữa hai lớp lỗ tổ của cầu ong. Vài ba
ngày sau khi nhả tơ, ấu trùng hoá nhộng và nhóm tế bào thứ hai trong cơ thể
nhộng (vốn rất nhỏ và bất động trong giai đoạn ấu trùng) đột nhiên bắt đầu
phân chí nhanh chóng. Những tế bào đó sẽ trở thành những mô của ong
trưởng thành và tất nhiên sẽ thay thế toàn bộ các tế bào của ấu trùng. Sự phát
triển từ ấu trùng thành nhộng không phải về kích thước mà về thay đổi cấu tạo
của cơ thể để trở thành ong trưởng thành.
Theo Eva Crane, 1990 [8], các giai đoạn phát triển của ong thợ, ong
chúa, ong đực thuộc giống A. cerana được mô tả qua bảng sau:
Các giai đoạn phát triển của ong Apis cerana
Loại ong
Giai đoạn phát triển (ngày)
Trứng
Nở ra ấu trùng
Vít nắp
Nở thành ong
Ong thợ
0
3
8
20-21
Ong chúa
0
3
8
15-16
Ong đực
0
3
9,5
23-24
Trong đó:
- Nở ra ấu trùng: Là số ngày trứng nở ra ấu trùng
- Vít nắp: Số ngày ấu trùng được vít nắp trong lỗ tổ
- Nở thành ong: Số ngày ong trưởng thành nở ra khỏi lỗ tổ
Khi ấu trùng ăn, nó tự sản sinh ra nhiệt; còn trong giai đoạn nhộng,
nhiệt luôn được duy trì ở 35
0
C nhưng hoàn toàn do những con ong che phủ
ở mặt cầu.
Cuối cùng, con ong non hình thành, lột bỏ lớp da nhộng, dùng hàm cắn
nắp vít và chui ra ngoài, cơ thể màu xam xám và mềm yếu. Trong suốt quá
trình phát triển từ trứng đến ấu trùng và nhộng, con ong chỉ ở trong từng lỗ tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
9
riêng, không hề có sự tiếp xúc với nhau. Đó là một điểm trái ngược rõ rệt với
cuộc sống xã hội rất cao khi chúng là ong trưởng thành.
Khi chui ra khỏi lỗ tổ thì cấu tạo về mặt giải phẫu của một con ong
trưởng thành đã hình thành và hoàn chỉnh. Nhưng sau đó nó phải trải qua thời
kỳ phát triển hoàn toàn hệ thống các tuyến và bộ máy sinh dục. Thời kỳ này
nó cần rất nhiều protein và những chất dinh dưỡng khác không phải là hydrat
cacbon sẵn có trong phấn hoa. Mấy ngày đầu sau khi nở, ong thợ phải ăn đủ
một số lượng phấn hoa có chất lượng cao để các tuyến có thể phát huy hết
tiềm năng. Tuổi thọ của ong thợ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó số
lượng phấn hoa mà nó được ăn trong thời kỳ ong non và tổng số ấu trùng mà
nó phải nuôi là hai yếu tố quyết định.
- Đời sống của ong chúa
Cũng như ong thợ, ong chúa được phát triển từ trứng được thụ tinh.
Nhưng khác với ong thợ là ấu trùng ong chúa được những con ong nuôi
dưỡng tiết ra và cho ăn những thức ăn khác với thức ăn của ấu trùng ong
thợ. Những con nuôi dưỡng điều chỉnh lượng nước trong thức ăn, vì vậy
cũng là điều chỉnh thành phần thức ăn của mỗi loại ong. Thức ăn của ấu
trùng ong thợ chỉ có 12% đường, và được ăn như vậy trong 1,25 ngày (đến
khi ấu trùng được 2,5 ngày tuổi thì tỷ lệ đường trong thức ăn còn rất thấp).
Còn thức ăn của ấu trùng ong chúa có hàm lượng đường cao hơn (34%) và
được duy trì suốt từ 1 đến 4 ngày tuổi. Tỷ lệ đường cao hơn như vậy kích
thích ấu trùng ăn càng nhiều thức ăn; và thức ăn được cung cấp thoả mái,
cho đến khi vít nắp mũ chúa vẫn còn nhiều thức ăn để ấu trùng tiếp tục ăn,
ấu trùng ong chúa tiêu thụ thức ăn nhiều hơn ấu trùng ong thợ 25%. Thức ăn
do ong nuôi dưỡng tiết ra để nuôi ấu trùng ong chúa được gọi là sữa chúa.
Cũng đã có nhiều nhà nghiên cứu thấy chút ít phấn trong thức ăn của ấu trùng
ong chúa (Eva Crane, 1990 [8]).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
10
Khi lỗ tổ ong chúa đã được ong thợ vít nắp, trước khi nhả tơ làm kén và
thành nhộng, ấu trùng đã xoay mình để đầu xuống phía dưới. Khi hoàn thành
giai đoạn phát triển trong lỗ tổ, ong chúa cắn gần hết nắp mũ chúa hình tròn
và chui ra, hoà nhập với những thợ trưởng thành ở trong đàn.
Công việc đầu tiên của con ong chúa khi vừa chui ra khỏi lỗ tổ là tìm
kiếm xem trong đàn có còn mũ chúa nào có chúa sắp nở ra không. Nếu có, nó
mở vách mũ chúa đó ra và đốt cho chết con chúa đó đi. Trường hợp ong chúa
được tạo ra để chuẩn bị cho việc chia đàn thì ong thợ bâu kín xung quanh mũ
chúa để con ong chúa nở ra trước đó không giết được. Những con chúa được
tạo thêm này sẽ bay ra (chưa giao phối) với từng nhóm quân mà số lượng do
ong thợ tự điều chỉnh.
Các giai đoạn trƣởng thành của ong chúa thuộc chủng Apis cerana (ngày)
Chủng Apis cerana
Nở
Bay
Giao phối
Đẻ trứng
Vùng ôn đới
0
4-6
5-7
9-11
Kashmir
0
3-4
4-6
6-8
Miền núi Ấn Độ
0
2-7
5-8
8-12
Philippin
0
3-4
5-6
7-8
Trong đó:
Bay: Ngày thực hiện chuyến bay đầu tiên
Giao phối: Ngày ong chúa tiến hành giao phối
Đẻ: Ngày bắt đầu đẻ trứng
Trong mấy ngày đầu sau khi chui ra khỏi lỗ tổ, ong chúa tơ có phản ứng
âm đối với ánh sáng; nó cảm thấy khó chịu với ánh sáng ở cửa tổ. Thoạt đầu,
ong thợ không để ý, không nhận biết sự có mặt của ong chúa tơ, nhưng sau vài
giờ ong thợ bắt đầu tiếp xúc, chải chuốt cho nó. Chúng cũng bắt đầu quấy
nhiễu, tấn công làm ong chúa tơ bị xua đuổi liên tiếp đến mệt nhoài. Và thường
là sau cuộc xua đuổi ong chúa được ăn nhiều hơn. Cũng có khi ong chúa tơ tự ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
11
chạy lung tung, dẫm đạp lên ong thợ và đối xử thô bạo với ong thợ, thậm chí có
khi đốt và giết chết ong thợ. Bằng cách đó và nhiều cách khác nó thiết lập vị trí
trị vì của nó trong đàn. Hơn nữa, nhờ kết quả của việc tập luyện mạnh mẽ, ong
chúa tơ trở lên có khả năng thực hiện những chuyến bay dài khỏi tổ và lại trở
về. Đối với một đàn ong, mất mát từng con ong thợ khi bay ra ngoài thì không
có vấn đề gì, nhưng nếu là mất con ong chúa mới thì thật là tai hại, nhất là nếu
không có ấu trùng ở độ tuổi để nuôi dưỡng thành ong chúa.
Ở những miền ôn đới phía Bắc, ong chúa bay ra ngoài vào buổi chiều,
lúc 14-16 giờ, khi nhiệt độ khí trời trên 20
0
C không có gió hoặc gió nhẹ.
Nhiều con ong chúa thực hiện một chuyến bay ngắn, nghỉ trong ít phút để xác
định phương hướng trước khi bay dài hơn (tới 30 phút) để giao phối. Sau khi
giao phối, ong chúa bay trở về tổ, ong thợ rất ân cần chăm sóc nó, cho nó ăn.
Khoảng 2-4 ngày sau, nó bắt đầu đẻ nhưng cũng có những trường hợp chỉ 24
giờ sau ong chúa bắt đầu đẻ.
Theo Eva Crane, 1990 [8] đã theo dõi khoảng cách từ sau khi giao phối
đến khi đẻ của 56 con ong chúa như sau:
Khoảng cách từ khi giao phối đến khi đẻ của ong chúa
Số ngày (Sau khi giao phối)
1
2
3
4
5-8
Tỷ lệ ong chúa đẻ (%)
2
20
39
24
15
Số trứng mà ong chúa đẻ trong 24 giờ phụ thuộc vào độ tuổi của ong
chúa, vào thế đàn, các điều kiện khác của đàn, vào tình hình không gian các
cầu ong và vào điều kiện bên ngoài, trong đó có độ dài ngày (độ dài chiếu
sáng) và mức tăng hay giảm của độ dài ngày. Số trứng đẻ ra trong ngày còn
tuỳ thuộc vào loài ong (nói chung loài ong Apis cerana đẻ ít hơn loài ong
Apis mellifera).
Khả năng đẻ của ong chúa sẽ giảm đi khi nó ở 2-3 tuổi, có thể sớm
hơn nếu trong khi giao phối nó nhận được quá ít tinh dịch. Đi đôi với tuổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
12
già, khả năng sinh ra những chất feromone của ong chúa cũng giảm đi, và nó
không có khả năng gắn bó cả đàn lại với nhau như lúc nó còn thanh xuân.
Đồng thời khi về già, ong chúa cũng có những tính trạng không bình thường,
tỷ lệ trứng không thụ tinh cao, làm số ong đực trong đàn tăng lên nhiều. Kết
quả là ong thợ muốn tạo một chúa mới hoặc để thay thế nó hoặc để chia đàn,
nếu không có sự can thiệp của người nuôi ong bằng cách thay chúa già bằng
chúa trẻ cho đàn ong.
- Đời sống của ong đực
Khác với ong thợ và ong chúa, ong đực được sản sinh từ trứng không
thụ tinh, đó là những con ong đực mang bộ nhiễm sác thể đơn bội (n) (ong thợ
và ong chúa mang bộ nhiễm sắc thể 2n), do ong chúa đẻ vào lỗ tổ ong đực.
Cho đến 7 ngày tuổi lỗ tổ có ấu trùng ong đực mới được vít nắp; ấu trùng ong
đực được ăn nhiều hơn và lớn hơn (384mg) so với ấu trùng ong thợ (159mg).
Trong 1-3 ngày tuổi, sữa cho ấu trùng ong đực có khác với sữa cho ấu trùng
ong thợ và ong chúa ăn. Matsuka và đồng nghiệp nhận xét rằng “sữa ong đực
đã giảm bớt” khi ấu trùng 5-6 ngày tuổi (2 phần sữa ong đực, 1 phần mật ong
và ngoài ra còn có cả phấn) (Eva Crane, 1990) [8]).
Lỗ tổ ong đực giống lỗ tổ ong thợ về hình dáng và phương hướng
nhưng hình 6 cạnh lớn hơn, và nắp lỗ tổ hình vòm lồi ra, vì cơ thể ong đực
lớn hơn. Ở nhiều dòng sinh thái của ong Apis cerana trên lỗ tổ có ong đực vít
nắp thường có một lỗ nhỏ ở chính giữa.
Giai đoạn phát triển của ong đực dài hơn ong thợ và ong chúa vì giai
đoạn nhộng dài hơn gần 5 ngày so với ong chúa. Sau khi kết thúc giai đoạn
nhộng, ra khỏi lỗ tổ, con ong đực bước vào giai đoạn trưởng thành. Nó cần
được ăn phấn hoa mặc dù khả năng tiêu hoá phấn hoa của nó kém hơn ong
thợ. Hầu hết thời gian nó chỉ quanh quẩn ở bánh tổ và được những con ong
nuôi dưỡng cho ăn những thức ăn hỗn hợp gồm phấn, mật ong và các chất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
13
tiết ra từ các tuyến của ong nuôi dưỡng. Do được nuôi dưỡng nên ong đực
lớn lên nhanh, trong 4 ngày đầu trọng lượng cơ thể nó tăng 28% và thành
phần đạm trong cơ thể tăng lên tới 38-62%. Những con ong đực già hơn
được ăn ít hơn, khi 7-8 ngày tuổi ong thợ chỉ cho chúng ăn mật ong. Qua
tuổi đó ong đực không ở trong bánh tổ có ấu trùng, nhộng nữa và tự ăn mật
ong ở các lỗ chứa mật.
Ong đực thành thục tính dục ở ngày thứ 12 hoặc muộn hơn. Tinh trùng
của ong đực không phát triển qua một chu kỳ phân bào giảm nhiễm hoàn
toàn. Vì vậy, về mặt di truyền, tinh trùng của ong đực giống như của ong chúa
đã sinh ra nó, và ong đực chỉ làm nhiệm vụ truyền gen của ong chúa mẹ cho
thế hệ tiếp theo làm cho ong chúa sinh ra nó có chức năng làm “bố” đối với
thế hệ sau qua sự giao phối của nó (Eva Crane, 1990 [8]).
1.1.2. Hiện tượng chia đàn tự nhiên đối với ong mật Apis cerana
Hiện tượng ong chia đàn tự nhiên là sự ra đi khỏi tổ của một bộ phận
ong thợ trưởng thành trong đàn cùng với ong chúa cũ. Ong chia đàn tự nhiên
là bản năng của loài ong nhằm bảo toàn và phát triển nòi giống, trong điều
kiện thuận lợi thì ong sẽ chia đàn. Việc chia đàn tự nhiên của loài ong mật đôi
khi gây khó khăn cho người nuôi ong trong công tác quản lý và chăm sóc.
Nếu đàn ong nhỏ mà chia đàn thì thế đàn nhỏ, năng suất mật giảm. Tuy nhiên
nếu đàn ong mạnh mà chia đàn tự nhiên sẽ là một thuận lợi cho việc phát triển
thêm số lượng đàn ong với chất lượng tốt.
Hàng năm ở miền Bắc cứ đến vụ hoa nở, nguồn thức ăn phong phú, điều
kiện thời tiết khí hậu thuận lợi, đàn ong phát triển nhanh có nhiều ong non, chúa
đẻ tốt thì đàn ong sẽ bồi dục ong đực trước sau một thời gian cũng sẽ xây mũ
chúa để chia đàn tự nhiên. Theo tác giả Nguyễn Duy Hoan và cs, 2008 [15],
thường có 3 thời điểm ong hay chia đàn tự nhiên là: Vụ hoa nhãn (tháng 3-4); vụ
hoa bạch đàn (tháng 5-6); vụ hoa càng cua, chó đẻ (tháng 11-12).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
14
Các yếu tố thúc đẩy đàn ong mật chia đàn tự nhiên: Ngoài các yếu tố
khách quan như khi điều kiện thời tiết thuận lợi, nguồn thức ăn trong tự nhiên
phong phú thì còn có các yếu tố chủ quan như: Ong chúa đẻ khỏe, đàn ong
đông quân, lực lượng lao động dư thừa, nhiều ong non, số cầu con vượt quá
mức, đàn ong chật trội, nóng bức; lượng mật - phấn dự trữ quá nhiều; bản
năng dã sinh bị kích thích bởi các yếu tố ngoại cảnh; chúa đã già, đẻ kém và
khả năng tiết ra chất chúa (feromol) ít; thùng ong quá chật trội, cho xây chân
tầng chậm hoặc đặt thùng ong ở nơi quá nóng.
Theo Nguyễn Duy Hoan và cs, 2008 [15], khi đàn ong chuẩn bị chia
đàn tự nhiên thì trước đó vài ba tuần ong thợ sẽ xây nhiều lỗ tổ ong đực ở hai
góc dưới hoặc mép dưới của bánh tổ. Khi đó đàn ong đông quân, tràn ra ngoài
ván ngăn, ong thợ quạt gió mạnh, ong thợ có thể đậu cả ra ngoài cửa tổ vào
buổi tối và bám nhiều ở dưới đáy thùng như hình chùm nho. Vào buổi trưa
quan sát có nhiều ong non tập bay. Khi nhộng ong đực vít nắp hoặc sắp nở thì
đàn ong tiến hành xây mũ chúa mới. Số lượng mũ mỗi đợt xây từ 7-10 mũ
hoặc nhiều hơn, với các tuổi ấu trùng chúa khác nhau, có trường hợp mũ chúa
vừa mới đắp ong đã chia đàn. Quan sát thấy hiện tượng đàn ong đi làm uể oải,
ong treo, bụng ong thợ căng đầy mật.
Cũng theo Nguyễn Duy Hoan và cs, 2008 [15], thời điểm ong chia đàn
thông thường khi mũ chúa vít nắp chuyển sang mầu nâu thì đàn ong bắt đầu
chia (trước khi mũ chúa nở 3-4 ngày). Đàn ong chia thường chờ những ngày
có thời tiết nắng ấm, mát mẻ, ong chia đàn từ 8-16 giờ, ong thường tập trung
chia đàn nhiều nhất từ 9-10 giờ trưa và 13-14 giờ chiều. Khi đàn ong chia đàn
chúng chuyển động thành dòng ra ngoài cửa tổ tạo lên âm thanh huyên náo
nhưng nhỏ hơn ong bốc bay và thường đàn ong bay đi với chúa cũ, còn con
nào ở lại vẫn bình thường, những con bay đi vẫn còn lượn quanh tổ. Đàn ong
chia đàn bay ra khoảng 2/3 số quân muốn chia đàn thì ong chúa bay ra, khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
15
chia chúng bay nhiều vòng trên không trung xung quanh thùng ong, khi chúa
bay ra thì đàn ong tụ lại ở một vi trí nào đó gần trại ong (cành cây hoặc hiên
nhà) để chờ ong trinh sát đi tìm nơi làm tổ mới về báo, khi bay đi ong thợ
quên ngay tổ cũ dù có bắt về để gần tổ cũ chúng cũng không bay vể tổ cũ.
Đây là một đặc điểm sinh học đặc biệt của loài ong mật mà khoa học vẫn
chưa giải thích được.
Để hạn chế hiện tượng chia đàn thì vào vụ hoa, nếu đàn ong đông quân
thì cho xây thêm bánh tổ để ong non có đủ việc làm và chuyển sang thùng
rộng hơn, hạn chế sự chật trội trong đàn. Khi quay mật chủ động cắt bỏ phần
ong đực, vặt bỏ các mũ chúa mà ong thợ đã đắp, quay bớt mật dự trữ của
ong. Cắt cánh mũ chúa. Có thể rút đổi cầu nhộng cho các đàn yếu nhằm làm
giảm số quân và điều chỉnh được thế đàn của trại ong. Thay chúa khi đã già
và chú ý chống nóng cho đàn ong.
1.1.3. Năng suất, chất lượng ong mật Apis cerana và các yếu tố ảnh hưởng
1.1.3.1. Năng suất của ong mật Apis cerana
Năng suất mật ong là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất đối với
nghề nuôi ong. Đàn ong khỏe mạnh, số lượng ong đông, số lượng đàn ong
nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết khí hậu, vùng miền
ngoài ra còn phụ thuộc vào các yếu tối nội tại của đàn ong và điều kiện chăm
sóc nuôi dưỡng của người nuôi ong.
Năng suất mật ong của tỉnh Đắc Lắc tăng dần qua các
năm: Năm 1999, năng suất mật ong trung bình đạt 13,3kg mật/đàn, năm 2001
đạt 13,5 kg/đàn, năm 2002 đạt 21,5kg/đàn, năm 2003 đạt 22kg/đàn (
, 2004 [48]).
Năng suất của mật ong ở miền Bắc nói chung, trung bình đạt 50,74
kg/đàn/năm đối với ong Ý, cao hơn 2,96 lần so với ong nội đạt 17,02
kg/đàn/năm (Nguyễn Duy Hoan, 2010 [16]).