Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Tìm hiểu về Giao thức Cấu hình Host Động DHCP pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.83 KB, 41 trang )

Tìm hiểu về Giao thức Cấu hình Host Động DHCP
Share [Đọc: 1418-Ngày đăng: 07-06-2009-Ngày sửa: 07-06-2009]
DHCP là viết tắt của Dynamic Host Configuration Protocol (Giao thức Cấu
hình Host Động): được thiết kế làm giảm thời gian chỉnh cấu hình cho mạng
TCP/IP bằng cách tự động gán các địa chỉ IP cho khách hàng khi họ vào mạng.
DHCP tập trung việc quản lý địa chỉ IP ở các máy tính trung
tâm chạy chương trình DHCP. Mặc dù có thể gán địa chỉ IP vĩnh
viễn cho bất cứ máy tính nào trên mạng, DHCP cho phép gán
tự động. Để khách có thể nhận địa chỉ IP từ máy chủ DHCP, bạn khai báo cấu
hình để khách "nhận địa chỉ tự động từ một máy chủ". Tùy chọn này xuất
hiện trong vùng khai báo cấu hình TCP/IP của đa số hệ điều hành. Một khi tùy
chọn này được thiết lập, khách có thể "thuê" một địa chỉ IP từ máy chủ DHCP
bất cứ lúc nào. Phải có ít nhất một máy chủ DHCP trên mạng. Sau khi cài đặt
DHCP, bạn tạo một phạm vi DHCP (scope), là vùng chứa các địa chỉ IP trên
máy chủ, và máy chủ cung cấp địa chỉ IP trong vùng này.
DHCP là một thuận lới rất lớn đối với người điều hành mạng. Nó làm yên
tâm về các vấn đề cố hữu phát sinh khi phải khai báo cấu hình thủ công. Hãy
xem sự so sánh dưới đây để biết DHCP làm nhẹ bớt công việc như thế nào:
Không có DHCP: Khi cấu hình thủ công, bạn phải gán địa chỉ cho mọi máy
trạm trên mạng. Người dùng phải gọi đến bạn để biết địa chỉ IP vì bạn không
muốn phụ thuộc vào họ để cấu hình địa chỉ IP. Cấu hình nhiều địa chỉ IP có
khả năng dẫn đến lỗi, rất khó theo dõi và sẽ dẫn đến lỗi truyền thông trên
mạng. Cuối cùng bạn sẽ hết địa chỉ IP đối với mạng con nào đó hoặc đối với
toàn mạng nếu bạn không quản lý cẩn thận các địa chỉ IP đã cấp phát. Bạn
phải thay đổi địa chỉ IP ở máy trạm nếu nó chuyển sang mạng con khác.
Người dùng di động đi từ nơi này đến nơi khác, có nhu cầu thay đổi địa chỉ IP
nếu họ nối với mạng con khác trên mạng.
Có DHCP: Máy chủ DHCP tự động cho người dùng thuê địa chỉ IP khi họ vào
mạng. Bạn chỉ cần đặc tả phạm vi các địa chỉ có thể cho thuê tại máy chủ
DHCP. Bạn sẽ không bị ai quấy rầy về nhu cầu biết địa chỉ IP.
DHCP tự động quản lý các địa chỉ IP và loại bỏ được các lỗi có thể làm mất


liên lạc. Nó tự động gán lại các địa chỉ chưa được sử dụng. DHCP cho thuê địa
chỉ trong một khoảng thời gian, có nghĩa là những địa chỉ này sẽ còn dùng
Cấu hình DHCP
được cho các hệ thống khác. Bạn hiếm khi bị hết địa chỉ. DHCP tự động gán
địa chỉ IP thích hợp với mạng con chứa máy trạm này. Cũng vậy, DHCP tự
động gán địa chỉ cho người dùng di động tại mạng con họ kết nối.
Trình tự thuê Địa chỉ IP DHCP là một giao thức Internet có nguồn gốc ở
BOOTP (bootstrap protocol), được dùng để cấu hình các trạm không đĩa.
DHCP khai thác ưu điểm của giao thức truyền tin và các kỹ thuật khai báo
cấu hình được định nghĩa trong BOOTP, trong đó có khả năng gán địa chỉ. Sự
tương tự này cũng cho phép các bộ định tuyến hiện nay chuyển tiếp các
thông điệp BOOTP giữa các mạng con cũng có thể chuyển tiếp các thông
điệp DHCP. Vì thế, máy chủ DHCP có thể đánh địa chỉ IP cho nhiều mạng con.
Quá trình đạt được địa chỉ IP được mô tả dưới đây:
Bước 1: Máy trạm khởi động với "địa chỉ IP rỗng" cho phép liên lạc với máy
chủ DHCP bằng giao thức TCP/IP. Nó chuẩn bị một thông điệp chứa địa chỉ
MAC (ví dụ địa chỉ của card Ethernet) và tên máy tính. Thông điệp này có thể
chứa địa chỉ IP trước đây đã thuê. Máy trạm phát tán liên tục thông điệp này
lên mạng cho đến khi nhận được phản hồi từ máy chủ.
Bước 2: Mọi máy chủ DHCP có thể nhận thông điệp và chuẩn bị địa chỉ IP
cho máy trạm. Nếu máy chủ có cấu hình hợp lệ cho máy trạm, nó chuẩn bị
thông điệp "chào hàng" chứa địa chỉ MAC của khách, địa chỉ IP "chào hàng",
mặt nạ mạng con (subnet mask), địa chỉ IP của máy chủ và thời gian cho
thuê. Địa chỉ "chào hàng" được đánh dấu là "reserve" (để dành). Máy chủ
DHCP phát tán thông điệp chào hàng này lên mạng.
Bước 3: Khi khách nhận thông điệp chào hàng và chấp nhận một trong các
địa chỉ IP, máy trạm phát tán thông điệp này để khẳng định nó đã chấp nhận
địa chỉ IP và từ máy chủ DHCP nào.
Bước 4: Cuối cùng, máy chủ DHCP khẳng định toàn bộ sự việc với máy
trạm. Để ý rằng lúc đầu máy trạm phát tán yêu cầu về địa chỉ IP lên mạng,

nghĩa là mọi máy chủ DHCP đều có thể nhận thông điệp này. Do đó, có thể có
nhiều hơn một máy chủ DHCP tìm cách cho thuê địa chỉ IP bằng cách gởi
thông điệp chào hàng. Máy trạm chỉ chấp nhận một thông điệp chào hàng,
sau đó phát tán thông điệp khẳng định lên mạng. Vì thông điệp này được
phát tán, tất cả máy chủ DHCP có thể nhận được nó. Thông điệp chứa địa chỉ
IP của máy chủ DHCP vừa cho thuê, vì thế các máy chủ DHCP khác rút lại
thông điệp chào hàng của mình và hoàn trả địa chỉ IP vào vùng địa chỉ, để
dành cho khách hàng khác.
Từ BOOTP đến DHCP
Từ BOOTP đến DHCP
Trong mạng máy tính, giao thức Bootstrap, hay BOOTP, là một giao thức
mạng mà máy client sử dụng để lấy địa chỉ IP từ một máy server. Giao thức
BOOTP được chỉ định trong RFC 951.
BOOTP thường được sử dụng trong tiến trình “bootstrap” khi máy tính đang
khởi động. Server cấu hình BOOTP gán địa chỉ IP cho từng máy client từ một dãy
địa chỉ . BOOTP sử dụng giao thức UDP (User Datagram Protocol) làm giao thức
vận chuyển .
Về phương diện lịch sử, BOOTP được sử dụng cho các máy trạm không đĩa
cứng với hệ điều hành UNIX ( hoặc tương tự) tìm thấy được vị trí của file boot
máy ngoài việc nhận được địa chỉ IP, và cũng bởi giao thức này mà các cơ quan xí
nghiệp dùng để trỉển khai việc cài đặt mới hệ điều hành (ví dụ :hệ điều hành
Windows) cho các máy tính cá nhân (PC) chưa có hệ điều hành.
Lúc ban đầu người ta phải để chương trình của giao thức này trong đĩa mềm
gọi là đĩa mềm boot. Đĩa mềm này khởi động để thiết lập các kết nối mạng sơ khởi.
Sau này việc sản xuất ra các cạc mạng tích hợp giao thức này trong BIOS cũng như
là tích hợp trong bo mạch chủ với những cạc mạng on-board, như thế cho phép
máy boot trực tiếp qua cạc mạng.
DHCP (Dynamic Host Configuration Protocol) là một giao thức cao cấp hơn
cho cùng mục đích và thay thế cho BOOTP. Phần lớn các DHCP servers hổ trợ
thêm BOOTP.

Tổng quan, lịch sử và chuẩn về BOOTP
Bộ giao thức TCP/IP đã có mặt gần 3 thập kỷ, và vấn đề làm thế nào tự động
hóa việc cấu hình các thông số cho các máy sử dụng địa chỉ IP đã có từ lâu. Vào
đầu thập niên 1980, các mạng điện toán còn nhỏ và tương đối đơn giản. Việc cấu
hình tự động TCP/IP không được coi là quan trọng lắm mặc dầu có sự khó khăn
trong cấu hình các thông số bằng tay. Nó quan trọng ở chỗ không có cách nào khác
để cấu hình các máy trạm không có ổ đĩa cứng.
Như chúng ta đã biết, nếu không có một dạng nào đó cất giữ dữ liệu bên
trong máy, một thiết bị phải cậy vào một người nào đó hay một cái gì đó bên ngoài
để nói cho nó biết nó “là ai”(địa chỉ của nó) và phải vận hành như thế nào mỗi lần
mở máy. Khi một thiết bị như thế được bật lên , nó phải ở một tình thế khó khăn:
nó cần phải sử dụng IP để liên lạc với một thiết bị khác để nhờ thiết bị này cung
cấp thông tin cho nó biết làm sao liên lạc với nhau bằng cách sử dụng IP! Tiến
trình này được gọi là “bootstrapping” hay nói cho gọn “booting”, từ bootstrap
nghĩa đen là dây gắn vào phía trên gót giày , ẩn dụ một người dùng một vật nhỏ để
kéo một vật lớn hơn là chiếc giày vào chân. Cũng như vậy, một chương trình nhỏ
dùng để kéo một chương trình lớn hơn là hệ điều hành vào bộ nhớ.
BOOTP: sửa sai các yếu kém của RARP
Giao thức RARP (Reverse Address Resolution Protocol) là giao thức đầu tiên được
tạo ra để giải quyết “vấn đề bootstrap”. RARP ra đời năm 1984, là một sự biến thể
trực tiếp từ giao thức cấp thấp ARP (Address Resolution Protocol), một giao thức
kết buộc địa chỉ IP với địa chỉ tầng data-link. RARP có khả năng cấp địa chỉ IP cho
thiết bị không có ổ đĩa cứng, bằng cách dùng sự trao đổi đơn giản bằng một truy
vấn và một trả lời trong mối quan hệ client/server .
Quá nhiều hạn chế của RARP trở thành một khó khăn cho mạng:
1. Nó hoạt động bằng broadcasts ở tầng data-link, vì vậy nó đòi hỏi phải có
sự điều chỉnh cho phù hợp với từng phần cứng của nhà sản xuất khác nhau.
2.Một server RARP đòi hỏi phải nằm trên mỗi mạng vật lý để đáp ứng cho
các broadcast ở tầng 2.
3.Mỗi server RARP phải có một người Admin cấp địa chỉ IP bằng tay trên

server.
4.Và điều kém cõi nhất là RARP chỉ cấp địa chỉ IP và không cho thêm một
thông tin nào khác mà máy client rất cần.
RARP rõ ràng là không đủ sức cung cấp thông tin cấu hình TCP/IP cho các
máy tính. Để hổ trợ vừa cho các máy tính không có đĩa cứng vừa cho việc cấu hình
TCP/IP tự động, vì thế mà BOOTP (Bootstrap) được tạo ra. BOOTP được chuẩn
hóa trong RFC 951, xuất bản tháng 9 năm 1985. Giao thức này được phát triển để
giải quyết các hạn chế của RARP:
1.Nó vẫn còn dựa vào quan hệ client/server, nhưng nó được triển khai ở tầng
cao hơn, dùng UDP cho việc vận chuyển. Nó không còn phụ thuộc vào phần
cứng đặc biệt nào của nhà sản xuất như là RARP.
2. Hổ trợ gởi thêm thông tin tới máy client ngoài địa chỉ IP.Thông tin thêm
này thường được gởi trong một thông điệp duy nhất.
3.Nó có thể sử dụng trong môi trường client và server ở trong những hệ
thống mạng gồm nhiều NetID khác nhau. Điều này cho phép quản lý địa chỉ
IP tập trung ở một server.
BOOTP chỉ giải quyết giai đoạn đầu của Bootstrapping
Chúng ta cũng cần phải lưu ý rằng mặc dù có tên là BOOTP, ám chỉ rằng nó
có đủ mọi thứ cần thiết để máy tính không có đĩa cứng có thể “boot” được, nhưng
điều này thực sự không đúng. Vì chính BOOTP đã tự mô tả, “bootstrapping” đòi
hỏi hai giai đoạn:
1.Giai đoạn đầu tiên, máy client được cung cấp địa chỉ IP và các thông số
khác.
2.Giai đoạn hai, máy client download phần mềm, như là hệ điều hành và các
drivers, để nó có thể hoạt động trên mạng và thực hiện các công tác mà nó
được giao.
BOOTP thực sự chỉ giải quyết được giai đoạn đầu tiên: giải quyết việc cấp địa
chỉ và thông số cấu hình. Giai đoạn hai mặc định xảy ra bằng cách sử dụng một
giao thức khác dùng để vận chuyển file như là TFTP(Trivial File Transfer
Protocol)

Các thông số đặc trưng cho nhà sản xuất
Người ta đã có một quyết định sáng suốt khi phát trỉển BOOTP là việc thêm
vào trong giao thức phần đặc trưng của nhà sản xuất phần cứng. Điều này nhằm để
có một chỗ cho những nhà sản xuất có thể chỉ định các thông số liên quan tới sản
phẩm phần cứng của riêng họ. Khi độ phức tạp của bộ giao thức TCP/IP tăng lên,
người ta nhận ra rằng ô này quá lợi ích vì có thể được dùng để chỉ định thêm
phương pháp truyền đạt các thông số đến các máy TCP/IP , và thực tế là nó đã trở
nên độc lập với nhà sản xuất. Điều này được đề nghị lần đầu tiên trong RFC 1048
Sự kiện mà BOOTP có thể được dùng để cung cấp nhiều thông tin cho máy
client ngoài địa chỉ IP làm cho nó thật ích lợi ngay cả trong những trường hợp mà
máy client đã có địa chỉ IP rồi. BOOTP có thể được dùng để gởi các thông tin mà
người quản lý muốn mọi máy đều có, để đảm bảo chúng sử dụng mạng một cách
thống nhất. Ngoài ra , trong trường hợp các thiết bị đã có ổ đĩa cứng bên trong (và
vì vậy không cần BOOTP lấy địa chỉ IP), BOOTP vẫn có thể được dùng để cho
những thiết bị này lấy được tên của file boot cho “giai đoạn hai” của tiến trình boot
máy.
Những sự thay đổi đối với BOOTP và sự phát triển của DHCP
BOOTP là giao thức cấu hình TCP/IP được lựa chọn hàng đầu từ giữa thập
niên 1980 cho đến cuối thập niên 1990. Phần mở rộng cho nhà sản xuất được đưa
vào trong RFC 1048 đã là một sự phổ biến, sau khi trãi qua nhiều năm có thêm
nhiều phần mở rộng cho nhà sản xuất được chỉ định; RFC 1048 được thay thế bằng
RFC 1084, 1395 và 1497 kế tiếp nhau. Thế là sự lẫn lộn cũng phát sinh khi trãi qua
năm tháng trong việc giải thích một vài phần trong RFC 951 (RFC 951 khởi tạo ra
giao thức BOOTP) và làm sao một vài tính năng của BOOTP có thể thực hiện
được.
Trong hoàn cảnh như vậy, RFC 1542 (Làm sáng tỏ và các phần mở rộng cho giao
thức Bootstrap) ra đời vào tháng 10 năm 1993 để giải quyết những vấn đề mơ hồ ,
lẫn lộn của các RFC có trước và cũng đưa thêm vào một vài thay đổi nhỏ cho hoạt
động của giao thức BOOTP (RFC 1542 thực chất là sự chỉnh sửa một RFC tương
tự trước đó là RFC 1532, nhưng vì chuẩn này có một vài lỗi nhỏ trong đó nên

không tiếp tục được.)
Trong lúc BOOTP rất thành công một cách hiển nhiên nhưng nó cũng có
một vài nhược đỉểm của riêng nó. Một trong những thiếu sót quan trọng là không
cấp được địa chỉ IP cập nhật động. Nhu cầu cấp địa chỉ động trở thành rõ rệt hơn
bao giờ hết khi Internet thực sự khởi đầu cất cánh vào cuối thập niên 1990. Chính
điều này đã trực tiếp dẫn tới sự phát triển giao thức DHCP (Dynamic Host
Configuration Protocol)
DHCP thay thế BOOTP làm giao thức cấu hình TCP/IP , thật là sai lầm khi cho
rằng BOOTP hoàn toàn “ra đi”. Ngày nay nó vẫn còn được sử dụng trong nhiều
mạng khác nhau. Hơn nữa, DHCP lấy BOOTP làm nền tảng và chúng có nhiều
thuộc tính chung, kể cả định dạng các thông điệp cũng giống nhau. Những phần
mở rộng cho nhà sản xuất phần cứng trong BOOTP trở thành phần Options của
DHCP, chúng hoạt động cùng một cách nhưng DHCP có nhiều khả năng hơn. Trên
thực tế, RFC 1497(RFC về phần mở rộng của BOOTP) đã kế thừa RFC 1533 (RFC
về các Options của DHCP và phần mở rộng của BOOTP) chính thức kết hợp phần
mở rộng của BOOTP và phần Options của DHCP thành một chuẩn chung.
Giao thức DHCP (TCP/IP Dynamic Host Configuration Protocol )
Về một phương diện nào đó chúng ta có thể nói tiến bộ của côngnghệ là một
hành trình chứ không thể nào là một đích đến. Khi một công nghệ cụ thể nào đó
được tinh chỉnh hay thay thế bằng một cái khác siêu hạng hơn thì chỉ là vấn đề thời
gian, nó cũng lại bị một cái khác tốt hơn thay thế nó.
Và điều này rất đúng cho BOOTP. Trong lúc BOOTP có nhiều khả năng
vượt trội hơn giao thức mà nó đã thay thế là RARP, thì đến lượt nó, sau một vài
năm, chính nó lại bị giao thức DHCP thay thế.
Người ta coi BOOTP là một cuộc cách mạng, một sự thay đổi lớn từ RARP,
thì DHCP là một sự tiến hóa vượt bậc của BOOTP. DHCP lấy BOOTP làm nền
tảng, có cùng định dạng của các thông điệp. Cái thêm vào có ý nghĩa nhất trong
DHCP là khả năng cấp địa chỉ IP động cho các máy clients và quản lý tập trung
chúng. Chính tính năng này mà vừa cho nó cái tên (Dynamic) vừa làm cho nó thêm
quyền lực. Ngày nay DHCP là giao thức chuẩn để cấp cấu hình TCP/IP cho các

máy và được sử dụng bao sân hết từ mạng chỉ có một máy client ở gia đình cho
đến những liên mạng to lớn của các cơ quan xí nghiệp.
Trong phần sau chúng ta tìm hiểu các khái niệm DHCP và cách hoạt động
của nó.
Tổng quan, động lực, lịch sử và chuẩn của DHCP
BOOTP biểu thị một sự tiến bộ đầy ý nghĩa so với RARP vì nó đã giải quyết
được thật nhỉều hạn chế của RARP. BOOTP là một giao thức nằm ở tầng cao hơn,
độc lập với phần cứng không như là RARP. Nó có khả năng hổ trợ gởi thêm thông
tin ngoài địa chỉ IP cho máy client. Ngoài ra, thông qua việc sử dụng BOOTP relay
agents, nó làm cho một mạng lớn chỉ sử dụng một hay hai BOOTP servers phục vụ
cho các máy clients nằm rãi trên nhiều mạng vật lý khác NetID.
Nhu cầu của việc gán địa chỉ IP động
BOOTP thông thường sử dụng một phương pháp tĩnh để xác định địa chỉ IP
nào gán cho thiết bị. Khi máy client gởi thông điệp yêu cầu thì thông điệp đó bao
gồm cả địa chỉ vật lý, rồi server tra địa chỉ đó trong bảng địa chỉ để xác định địa
chỉ IP nào cho máy client.(BOOTP còn có thể sử dụng những phương pháp khác
để xác lập mối quan hệ giữa địa chỉ IP và địa chỉ vật lý, nhưng cho tương ứng tĩnh
là phương pháp thường sử dụng). Điều này có nghĩa là BOOTP làm việc tương đối
tốt trong môi trường tĩnh, nơi mà những sự thay đổi về địa chỉ IP của các thiết bị
không thường xảy ra. Những mạng như thế là thông thường trong thập niên 1980
và đầu thập niên 1990.
Trãi qua năm tháng, nhiều mạng máy tính rời xa khỏi mô hình này vì một số
lý do:
1.Khi các máy tính ngày càng nhỏ và nhẹ hơn thì thật dễ cho chúng
được di chuyển từ mạng này đến mạng khác. Ở mạng khác chúng lại
cần một địa chỉ khác với Network ID của mạng mới.
2.Các máy tính xách tay như là Laptop hay palmtop có thể di chuyển
từ mạng này đến mạng khác nhiều lần trong ngày.
3.Một vấn đề lớn khác là sự cạn kiệt không gian địa chỉ IP. Trong
nhiều cơ quan , việc gán địa chỉ IP tĩnh và dùng mãi cho mỗi máy để

chúng kết nối vào mạng là một phí phạm.
4.Trong nhiều cơ quan, việc theo dõi những sự thay đổi địa chỉ
cố định trở nên một công việc nản lòng. BOOTP, với bảng ánh xạ địa
chỉ tĩnh giữa địa chỉ vật lý và địa chỉ IP không thích hợp cho công
việc này. Nó cũng không có cách nào sử dụng lại các địa chỉ; mỗi lần
mà một địa chỉ đã cấp, máy tính sẽ giữ mãi địa chỉ đó, ngay cả khi nó
không còn cần dùng đến nữa.
DHCP:Một giao thức xây dựng trên sức mạnh của BOOTP
Người ta cần một giao thức cấu hình TCP/IP mới để phục vụ cho những
mạng điện toán hiện đại hơn. Tổ chức IETF đáp ứng điều này bằng giao thức
DHCP (Dynamic Host Configuration Protocol), lần đầu tiên được xuất bản trong
RFC 1541, tháng 10 năm 1993. (Thực ra, chuẩn trong giao thức đó đã được nói
đến trong RFC 1531 xuất bản trong cùng tháng nhưng vì có một vài lỗi nhỏ trong
chuẩn này nên người ta hiệu chỉnh và xuất bản RFC 1541)
Dĩ nhiên, khác với BOOTP là một protocol còn kém cõi. DHCP đã hoạt động rất
tốt và cũng đã được sử dụng rộng rãi nhiều nơi khác nhau. Các yếu tố này cho thấy
giao thức này đã tiếp nối BOOTP và được bổ sung thêm nhiều theo năm tháng .
DHCP gồm hai thành phần chính:
1.Cơ chế cấp địa chỉ IP.
2.Cơ chế cho phép máy client yêu cầu và server cung cấp thông tin cấu hình.
DHCP thực hiện cả hai chức năng này cùng một cách như BOOTP nhưng có nhiều
cải tiến hơn.
Tổng quan các tính năng của DHCP
Sự thay đổi có ý nghĩa nhất trong lãnh vực cấp địa chỉ IP, chính là tính năng
cấp địa chỉ IP động (đối lập với việc người admin phải tạo bảng ánh xạ giữa địa chỉ
vật lý và địa chỉ IP trên BOOTP server).
1.DHCP sử dụng một dãy địa chỉ IP mà người admin đã cấu hình và tự cấp
cho máy client không cấn phải ghép sẵn trước.
2.Đồng thời DHCP hỗ trợ cho việc ánh xạ địa chỉ IP với địa chỉ vật lý khi
nào thấy cần (ta gọi tính năng này là Reservation)

Còn về việc thông tin liên lạc giữa máy client và server,tổng thể mà nói, nó
lại tương tự với BOOTP nhưng vẫn có sự thay đổi. Cũng cùng giao thức hỏi/đáp
bằng cách sử dụng UDP để liên lạc thông tin cấu hình, nhưng lại có thêm các gói
thông điệp được tạo ra để hổ trợ những tính năng được tăng cường của
DHCP. DHCP có thể dùng BOOTP relay agents cùng một cách tương tự mà máy
client và server BOOTP sử dụng. Phần mở rộng thông tin cho nhà sản xuất phần
cứng cũng được giữ lại, nhưng được hình thức hoá và đặt tên lại là DHCP Options,
và được mở rộng thêm để truyền được nhiều thông tin hơn.
Kết quả của mọi nổ lực này là một giao thức cấu hình TCP/IP được sự chấp
nhận rộng rãi, phổ biến nhưng vẫn giữ lại tính tương thích với BOOTP trong khi
đó lại mở rộng thêm những tính năng đầy ý nghĩa. DHCP được sử dụng cho mọi
thứ từ việc cấp địa chỉ IP cho những mạng hàng ngàn máy tính đến việc cho phép
thiết bị định tuyến (router) truy cập Internet tự động cung cấp thông tin cấu hình
Internet cho chỉ một máy tính duy nhất có một người dùng.
Thông số kỹ thuật của DHCP nguyên thủy được hiệu chỉnh vào tháng 3 năm
1997 trong RFC 2131, vẫn giữ lại tên Dynamic Host Configuration Protocol.
Trong chuẩn này định nghĩa thêm một loại thông điệp DHCP mới cho phép
các máy đang có địa chỉ IP có thể gởi yêu cầu cấp thêm thông tin cấu hình. Đồng
thời nó cũng tạo ra một vài thay đổi nhỏ cho giao thức này. Từ lúc đó tới nay, có
nhiều RFC khác liên quan tới DHCP được xuất bản, phần lớn chúng hoặc là chỉ
định những loại DHCP Option mới (một loại thông tin khác mà DHCP servers có
thể gởi cho DHCP client) hoặc là chỉnh lại cách mà DHCP được sử dụng trong các
ứng dụng.
/>Dhcp
DHCP (dynamic host configuration protocol)
DHCP là một tiêu chuẩn TCP/IP mà rút gọn sự
phức tạp và vai trò quản trị của việc cấu hình
địa chỉ IP của mạng client (khách hàng).
Microsoft Windows 2000 server cung cấp dịch
vụ DHCP, cái mà làm máy tính có thể có chức

năng như DHCP server và định cấu hình các
máy tính client có khả năng DHCP trên mạng
của bạn. DHCP chạy trên máy tính server, làm
có thể sự quản lý tự động hoá và tập trung
hoá của các địa chỉ IP và sự thiết lập cấu hình
TCP/IP cho các mạng client của bạn. Dịch vụ
DHCP của Microsoft cũng cung cấp sự tích hợp
với đường dẫn động dịch vụ đường dẫn và dịch
vụ hệ thống tên miền, nâng cấp báo cáo tĩnh
và sự kiểm tra cho các DHCP server, các mục
đặc biệt của nhà cung cấp và sự hỗ trợ lớp
người sử dụng, sự cấp phát địa chỉ multicast
và sự bảo vệ DHCP server yếu.
I> DHCP là gì?
DHCP đơn giản hoá sự quản lý quản trị của
cấu hình địa chỉ IP bởi việc tự động hoá cấu
hình địa chỉ cho các mạng client. Tiêu chuẩn
DHCP cung cấp sự sử dụng của các server
DHCP, cái mà được định nghĩa như bất cứ một
máy tính nào đang chạy DHCP. DHCP server
cấp phát một cách tự động các địa chỉ IP và
liên hệ với việc định cấu hình TCP/IP đối với
các DHCP client có thể trên mạng.
1- Chức năng:
{ Mỗi thiết bị trên mạng cơ sở TCP/IP phải có
một địa chỉ IP độc nhất để truy cập mạng và
các tài nguyên của nó. Không có DHCP, cấu
hình IP phải được thực hiện một cách thủ công
cho các máy tính mới, các máy tính di chuyển
từ mạng con này sang mạng con khác, và các

máy tính được loại bỏ khỏi mạng.
{Bằng việc phát triển DHCP trên mạng, toàn
bộ tiến trình này được quản lý tự động và tập
trung. DHCP server bảo quản vùng của các địa
chỉ IP và giải phóng một địa chỉ với bất cứ
DHCP client có thể khi nó có thể ghi lên mạng.
Bởi vì các địa chỉ IP là động hơn tĩnh, các địa
chỉ không còn được trả lại một cách tự động
trong sử dụng đối với các vùng cấp phát lại.
2-Ai tạo ra DHCP ? DHCP được tạo ra như thế
nào ?
{DHCP đựơc tạo ra bởi nhóm làm việc cấu hình
host động của lực lượng kỹ sư Internet(IETF là
tổ chức tình nguyện định nghĩa các giao thức
sử dụng trên Internet). Như vậy, sự định nghĩa
của nó được ghi lại trong Internet RFC và bo
mạch hoạt động Internet (the Internet
Activities Board (IAB) ) đang xác nhận trạng
thái của nó đối với tiêu chuẩn hoá Internet.
{Theo lối viết này (3- 1996), DHCP là giao
thức tiêu chuẩn mục đích Internet và là chọn
lựa (Elective).
3- Các tiêu chuẩn DHCP nòng cốt mà Microsoft
hỗ trợ với các dịch vụ DHCP của nó được chỉ ra
bởi các RFC sau:
{RFC 2132: Giao thức cấu hình host động(RFC
1541 lỗi thời)
{RFC 2132: Các mục DHCP và sự giới hạn nhà
cung cấp BOOTP.
4- Thuật ngữ DHCP

4.1 DHCP server: Bất cứ máy tính nào chạy
trên dịch vụ DHCP windows 2000.
4.2 DHCP client: Bất cứ máy tính nào mà có
sự thiết lập DHCP có thể.
4.3 Scope: Nói một cách đầy đủ, phạm vi liên
tiếp của các địa chỉ IP có thể cho một mạng.
Các dịch vụ DHCP có thể được đề nghị đối với
các tầm vực để xoay xở sự phân phát mạng và
sự cấp phát các địa chỉ IP và bất cứ các tham
số cấu hình quan hệ.
4.4 Siêu tầm vực (superscope): Một nhóm
quản trị các tầm vực được sử dụng để hỗ trợ
các IP logic trên các mạng con vật lý giống
nhau. Các tầm vực trên chứa danh sách các
tầm vực thành viên (hoặc tầm vực con) mà có
thể hoạt động như một bộ sưu tập.
4.5 Phạm vi độc đáo (Exclusion range): Các
địa chỉ IP có sẵn là dạng vùng địa chỉ trong
tầm vực. Các địa chỉ phân vùng là có sẵn trong
việc phân công động bởi DHCP đến các DHCP
client.
4.6 Thuê bao (lease): Chiều dài thời gian,
được chỉ ra bởi DHCP server, một máy tính
client có thể sử dụng sự phân công động địa
chỉ IP. Khi một thuê bao được lập đối với
khách hàng , thì thuê bao được xem như hoạt
động. Trước khi thuê bao kết thúc, client làm
mới lại thuê bao của nó với DHCP server. Một
thuê bao trở nên không hoạt động khi nó hết
hiệu lực hoặc bị xoá bởi server. Thuê bao

trong suốt quá trình định nghĩa khi thuê bao
kết thúc và client cần làm mới thuê bao của nó
trong DHCP server mấy lần.
4.7 Sự đặt trước(Reservation): Tạo ra sự phân
công thuê bao địa chỉ thường xuyên từ DHCP
server đến client. Sự dành riêng đảm bảo rằng
các thiết bị phần cứng được chỉ định trên một
mạng con có thể luôn luôn sử dụng địa chỉ IP
giống nhau. Điều này hữu ích cho các máy tính
chẳng hạn như các cổng truy cập xa, WIN
hoặc DNS server mà phải có địa chỉ IP tĩnh.
4.8 Các loại tuỳ chọn (Option types): Các
tham số cấu hình khác mà DHCP server có thể
phân công khi đề nghị thuê bao địa chỉ IP tới
một client. Tiêu biểu, có những loại tuỳ chọn
được làm có thể và được cấu hình cho mỗi tầm
vực. Hầu hết các tuỳ chọn được định nghĩa
trước thông RFC 2132, nhưng bạn có thể sử
dụng sự quản lý DHCP để định nghĩa và thêm
các tuỳ chọn khách hàng nếu cần thiết.
4.9 Tuỳ chọn Class: Cách mà DHCP server để
tiến xa các xoay sở phụ được cung cấp cho các
client. Các class tuỳ chọn được thêm vào
server, clients của lớp có thể được cung cấp
các tuỳ chọn chỉ định lớp cho việc cấu hình của
chúng.
1.Định dạng của DHCP:
DHCP sử dụng UDP để phân phát thông điệp
và broadcast. Nếu DHCP không có mặt trên
mạng, thì một tác nhân DHCP relay sẽ định

hướng thông điệp giữa client và server.7 field
đầu tiên chứa thông tin được dùng cho việc
thực thi request.
Operation Code: Chỉ ra loại thông điệp tổng
quát. Giá trị 1 chỉ ra thông điệp request, giá trị
2 chỉ ra thông điệp response
· HTYPE :Chỉ ra loại phần cứng mạng.
· HLEN: Chỉ ra chiều dài của địa chỉ phần cứng.
· HOPS :Chỉ ra bao nhiêu server định hướng
yêu cầu. Được lập lên 0 bởi client trước khi gửi
yêu cầu và được sử dụng bởi các tác nhân
relay để điều khiển việc định hướng của các
thông điệp DHCP hoặc BOOTP.
· TRANSACTION IDENTIFIER: được tổng quát
hoá bởi client, và cho phép nó phù hợp request
với sự phúc đáp nhận được từ DHCP server.
· SECONDS ELAPSED: Chỉ ra bao nhiêu giây
trôi qua kể từ khi máy tính khởi động.
· FLAGS: điều khiển nội dung của trường
OPTIONS .
+ Broadcast flag( B): Một client không biết địa
chỉ IP sở hữu của nó tại thời điểm nó gửi yêu
cầu thì nó lập cờ này lên 1. Các server này
như các chỉ báo tức thời đối với các DHCP
server hoặc tác nhân relay mà nhận được
request thì nó nên đáp lại (reply) bằng hình
thức broadcast.
+Reserved: Được lập giá trị 0 hoặc không sử
dụng.
· CLIENT IP ADDRESS: Trường này được biết

đến nếu client biết các địa chỉ IP của nó.
· YOUR IP ADDRESS: Được dùng bởi server để
cung cấp địa chỉ IP của nó.
· SERVER IP ADDRESS :Chứa địa chỉ IP cuả
server.
· ROUTER IP ADDRESS: Chứa địa chỉ IP của
một router mặc định.
· CLIENT HARDWARE ADDRESS: Được biết đến
nếu client biết địa chỉ phần cứng của nó.
· SERVER HOST NAME: Chứa host name cuả
server.
· BOOT FILE NAME: Chứa tên file của server
mà chứa hình ảnh khởi động hợp lệ.
· OPTIONS : Bao gồm nhiều tham số yêu cầu
cho thao tác DHCP cơ bản. Trường này được
chỉ định 64 bytes chiều dài trong BOOTP
nhưng nó biền đổi về chiều dài trong DHCP.
So Sánh:
P Không có DHCP:
-Khi cấu hình thủ công, bạn phải gán địa chỉ
cho mọi máy trạm trên mạng. Người dùng phải
gọi đến bạn để biết địa chỉ IP vì bạn không
muốn phụ thuộc vào họ để cấu hình địa chỉ IP.
-Cấu hình nhiều địa chỉ IP có khả năng dẫn
đến lỗi, rất khó theo dõi và sẽ dẫn đến lỗi
truyền thông trên mạng.
-Cuối cùng bạn sẽ hết địa chỉ IP đối với mạng
con nào đó hoặc đối với toàn mạng nếu bạn
không quản lý cẩn thận các địa chỉ IP đã cấp
phát.

-Bạn phải thay đổi địa chỉ IP ở máy trạm nếu
nó chuyển sang mạng con khác. Người dùng di
động đi từ nơi nầy đến nơi khác, có nhu cầu
thay đổi địa chỉ IP nếu họ nối với mạng con
khác trên mạng.
P Có DHCP
-Máy chủ DHCP tự động cho người dùng thuê
địa chỉ IP khi họ vào mạng. Bạn chỉ cần đặc tả
phạm vi các địa chỉ có thể cho thuê tại máy
chủ DHCP. Bạn sẽ không bị ai quấy rầy về nhu
cầu biết địa chỉ IP.
-DHCP tự động quản lý các địa chỉ IP và loại
bỏ được các lỗi có thể làm mất liên lạc. Nó tự
động gán lại các địa chỉ chưa được sử dụng.
-DHCP cho thuê địa chỉ trong một khoảng thời
gian, có nghĩa là những địa chỉ nầy sẽ còn
dùng được cho các hệ thống khác. Bạn hiếm
khi bị hết địa chỉ.
-DHCP tự động gán địa chỉ IP thích hợp với
mạng con chứa máy trạm nầy. Cũng vậy,
DHCP tự động gán địa chỉ cho người dùng di
động tại mạng con họ kết nối.
II> Hoạt động của DHCP
DHCP hoạt động trên mô hình client/server
như minh hoạ trong hình 1.
DHCP là một giao thức Internet có nguồn gốc
ở BOOTP (bootstrap protocol), được dùng để
cấu hình các trạm không đĩa. DHCP khai thác
ưu điểm của giao thức truyền tin và các kỹ
thuật khai báo cấu hình được định nghĩa trong

BOOTP, trong đó có khả năng gán địa chỉ. Sự
tương tự nầy cũng cho phép các bộ định tuyến
hiện nay chuyển tiếp các thông điệp BOOTP
giữa các mạng con cũng có thể chuyển tiếp
các thông điệp DHCP. Vì thế, máy chủ DHCP
có thể đánh địa chỉ IP cho nhiều mạng con.
Quá trình đạt được địa chỉ IP được mô tả dưới
đây:
Bước 1 Máy trạm khởi động với “địa chỉ IP
rỗng” cho phép liên lạc với máy chủ DHCP
bằng giao thức TCP/IP. Nó chuẩn bị một thông
điệp chứa địa chỉ MAC (ví dụ địa chỉ của card
Ethernet) và tên máy tính. Thông điệp nầy có
thể chứa địa chỉ IP trước đây đã thuê. Máy
trạm phát tán liên tục thông điệp nầy lên
mạng cho đến khi nhận được phản hồi từ máy
chủ.
Bước 2 Mọi máy chủ DHCP có thể nhận thông
điệp và chuẩn bị địa chỉ IP cho máy trạm. Nếu
máy chủ có cấu hình hợp lệ cho máy trạm, nó
chuẩn bị thông điệp “chào hàng” chứa địa chỉ
MAC của khách, địa chỉ IP “chào hàng”, mặt nạ
mạng con (subnet mask), địa chỉ IP của máy
chủ và thời gian cho thuê. Địa chỉ “chào hàng”
được đánh dấu là “reserve” (để dành). Máy
chủ DHCP phát tán thông điệp chào hàng nầy
lên mạng.
Bước 3 Khi khách nhận thông điệp chào hàng
và chấp nhận một trong các địa chỉ IP, máy
trạm phát tán thông điệp nầy để khẳng định

nó đã chấp nhận địa chỉ IP và từ máy chủ
DHCP nào.
Bước 4 Cuối cùng, máy chủ DHCP khẳng định
toàn bộ sự việc với máy trạm.
Để ý rằng lúc đầu máy trạm phát tán yêu cầu
về địa chỉ IP lên mạng, nghĩa là mọi máy chủ
DHCP đều có thể nhận thông điệp nầy. Do đó,
có thể có nhiều hơn một máy chủ DHCP tìm
cách cho thuê địa chỉ IP bằng cách gởi thông
điệp chào hàng. Máy trạm chỉ chấp nhận một
thông điệp chào hàng, sau đó phát tán thông
điệp khẳng định lên mạng. Vì thông điệp nầy
được phát tán, tất cả máy chủ DHCP có thể
nhận được nó. Thông điệp chứa địa chỉ IP của
máy chủ DHCP vừa cho thuê, vì thế các máy
chủ DHCP khác rút lại thông điệp chào hàng
của mình và hoàn trả địa chỉ IP vào vùng địa
chỉ, để dành cho khách hàng khác.
Các nhà quản trị mạng thiết lập một hay nhiều
DHCP server mà bảo đảm thông tin định cấu
hình TCP/IP và cung cấp việc định cấu hình địa
chỉ cho các DHCP client có thể theo dạng của
một đề nghị thuê bao. DHCP server lưu trữ
thông tin việc định cấu hình trong cơ sở dữ
liệu, bao gồm:
Các tham số câú hình TCP/IP có giá trị cho tất
cả các client trên mạng.
Các địa chỉ IP có giá trị , được bảo quản trong
vùng phân công đối với khách hàng cũng như
các địa chỉ đảo lại cho sự phân công thủ công.

Trong suốt quá trình thuê bao được đề nghị
bởi server thì chiều dài thời gian cho địa chỉ IP
có thể được sử dụng trước khi thuê bao làm
mới được yêu cầu.
Một DHCP client được làm có thể trên sự chấp
nhận của một yêu cầu thuê bao nhận:
Một địa chỉ IP có giá trị cho mạng mà nó đang
tham gia.
Các tham số định cấu hình TCP/IP bổ sung ,
tham chiếu đến như các tuỳ chọn DHCP.
III> Lợi ích của DHCP
Việc định cấu hình an toàn và đáng tin cậy:
DHCP giảm thiểu các lỗi của việc định cấu hình
là nguyên nhân gây ra bởi địa chỉ IP được phân
công hiện tại đang được tái cấp phát một cách
tình cờ cho máy tính khác.
Rút gọn sự quản trị mạng:
+ Việc định cấu hình TCP/IP được tập trung
hoá và tự động hoá.
+ Các nhà quản trị mạng có thể định nghĩa
một cách tập trung và các cấu hình TCP/IP chỉ
định mạng con.
+ Các client có thể được phân công tự động
một phạm vi đầy đủ của các giá trị việc định
cấu hình TCP/IP bổ sung bởi việc sử dụng các
tuỳ chọn DHCP.
+ Việc thay đổi địa chỉ cho việc định cấu hình
client phải được cập nhật một cách thường
xuyên chẳng hạn như các khách hàng truy cập
xa thì thay đổi quanh một hằng số, có thể

được thực hiện một cách hiệu quả và tự động
khi client bắt đầu lại trong vị trí mới của nó.
+ Hầu hết các router có thể định hướng các
yêu cầu việc định cấu hình DHCP, loại trừ các
yêu cầu của việc thiết lập DHCP server trên
một mạng con, trừ phi không có một lý do nào
khác để làm như vậy.
IV> Những đặc tính mới của DHCP
Nâng cấp nền tảng sự kiểm tra và các khả
năng báo cáo server.
Hỗ trợ mở rộng cho các scope multicast và
superscope(siêu tầm vực)
Các tầm vực multicast hiện nay cho phép trình
ứng dụng có nhận thức multicast để giải phóng
lớp D các địa chỉ IP (224.0.0.0 đến
239.255.255.255) cho sự tham dự trong nhóm
multicast.
Hỗ trợ cho các tuỳ chọn DHCP người sử dụng
đặc biệt và người cung cấp đặc biệt.
Sự hoà hợp của DHCP với DNS.
Một DHCP server có thể cập nhật động trong
không gian tên DNS cho bất cứ client DHCP
nào mà hỗ trợ sự cập nhật này. Các client
scope có thể sử dụng DNS với sự cập nhật
động để cập nhật địa chỉ tên IP của máy tính
của chúng biểu diễn thông tin bất cứ khi nào
sự thay đổi xảy ra đến các địa chỉ được cấp
phát DHCP của chúng.
Sự bảo vệ server DHCP yếu.
Điều này ngăn chặn các server DHCP yếu từ

việc tham gia vào mạng DHCP đang tồn tại nơi
mà Window 2000 Server và Đường dẫn động
bị huỷ. Một đối tượng DHCP server được tạo
trong đường dẫn động, đường dẫn mà danh
sách các địa chỉ IP của các server mà được
quyền cung cấp cho các dịch vụ DHCP đến
mạng. Khi một DHCP server nỗ lực để khởi
động trên mạng, đường dẫn động được truy
vấn và địa chỉ IP của máy tính server được so
sánh với danh sách các DHCP đã được cấp
quyền. Nếu sự thoả mãn được tìm thấy, máy
tính server được quyền như DHCP server và
cho phép hoàn tất hệ thống khởi động. Nếu
không thoả mãn, server được xem như yếu và
dịch vụ DHCP shut down một cách tự động.
Sự hỗ trợ động cho các client BOOTP
BOOTP động là một sự mở rộng của giao thức
BOOTP, cái mà cho phép DHCP server định cấu
hình cho BOOTP mà không phải sử dụng cấu
hình tường minh, phù hợp địa chỉ. Đặc tính
này rút gọn sự quản trị của mạng BOOTP rộng
bởi việc cho phép sự phân phối một cách tự
động của địa chỉ IP là cách giống mà DHCP đã
làm.
Chỉ đọc sự truy cập điều khiển đối với trình
quản lý DHCP.
Đặc tính này cung cấp một nhóm cục bộ mục
đích đặc biệt, nhóm DHCP Users, cái mà được
thêm vào một cách tự động khi dịch vụ DHCP
được cài đặt. Bằng việc thêm vào các thành

viên của nhóm này, bạn có thể cung cấp việc
truy cập chỉ đọc đối với thông tin liên hệ với
dịch vụ DHCP trên máy tính server. Sử dụng
sự quản lý DHCP , các user trong nhóm này có
thể nhìn nhưng không sửa thông tin và các đặc
tính lưu trên DHCP server đặc biệt.
Sự hỗ trợ DHCP client
Thuật ngữ client được sử dụng để mô tả một
máy tính mạng mà yêu cầu và sử dụng các
dịch vụ DHCP được đề nghị bởi DHCP server.
Bất cứ máy tính Windows cơ bản nào hoặc một
thiết bị mạng có thể khác mà hỗ trợ khả năng
liên lạc với DHCP server(trong sự bằng lòng
với RFC 2132) có thể được định cấu hình như
DHCP client.
Sự hỗ trợ của DHCP client được cung cấp cho
các máy tính chạy dươí bất cứ hệ điều hành
Microsoft nào sau đây:
+ Microsoft Windows NT Workstation (tất cả
các phiên bản được giải phóng)
+ Microsoft Windows NT Server(tất cả các
phiên bản được giải phóng)
+ Microsoft Windows 98
+ Microsoft Windows 95
+ Microsoft Windows for Workgroups version
3.11(với Microsoft 32 bit TCP/IP VxD được cài)
+ Microsoft NetWork Client version 3.0 cho
MS-DOS(với đường dẫn TCP/IP chế độ thực
được cài đặt)
+ LAN Manager version 2.2c.

V> Tự cấu hình IP
Các client Windows 2000 cơ bản có thể cấu
hình địa chỉ IP và mặt nạ mạng con (subnet
mask) một cách tự động nếu DHCP server là
không có sẵn trong hệ thống lúc khởi động.
Đặc tính này, địa chỉ IP riêng tự
động(Automatic Private IP Addressing-APIPA)
thì hữu ích cho các client trên các mạng riêng
nhỏ chẳng hạn như văn phòng doanh nghiệp
nhỏ, văn phòng home, hoặc một client truy
cập từ xa.
-Dịch vụ DHCP client Windows 2000 thông qua
tiến trình sau để tự định cấu hình client:
1- DHCP client nỗ lực để định vị DHCP server
và nhận một địa chỉ và định cấu hình.
2- Nếu DHCP server không thể tìm thấy hoặc
không đáp ứng thì DHCP client tự định cấu
hình địa chỉ IP của nó và subnet mask sử dụng
một địa chỉ được chọn lựa từ mạng lớp B dự
trữ Microsoft, 169.254.0.0, với địa chỉ subnet
mask là 255.255.0.0. DHCP client kiểm tra
một địa chỉ xung đột làm đảm bảo rằng địa chỉ
IP đã được chọn thì chưa sẵn sàng trong việc
sữ dụng trên mạng. Nếu có sự xung đột tìm
thấy, client chọn địa chỉ IP khác. Client sẽ xem
lại việc tự định cấu hình lên đến 10 địa chỉ.
3- Khi một DHCP client thành công trong một
địa chỉ tự chọn, nó định cấu hình giao diện
(interface) mạng của nó với địa chỉ IP. Client
tiếp tục, trên nền tảng, để kiểm tra một DHCP

client trong 5 phút. Nếu DHCP sever được tìm
thấy sau đó, client loại bỏ thông tin tự định
cấu hình của nó. DHCP client sử dụng một địa
chỉ được đề nghị bởi DHCP server(và bất cứ
thông tin tuỳ chọn DHCP được cung cấp khác)
để cập nhật việc thiết lập định cấu hình IP của
nó.
- Nếu DHCP client đã nhận trước sự thuê từ
DHCP server:
1- Nếu sự thuê của client vẫn còn có giá trị tại
thời gian khởi động hệ thống, client sẽ cố gắng
làm mới sự thuê của nó.
2- Nếu trong suốt sự nỗ lực làm mới, client
thất bại để định vị bất cứ DHCP server nào, nó
sẽ nỗ lực để ping gateway mặc định được liệt
kê trong sự thuê và tiến hành theo một trong
những cách sau:
* Nếu việc ping là thành công, DHCP client cho
rằng nó vẫn còn định vị trên một mạng giống
nhau nơi nó nhận được sự thuê hiện tại của
nó, và tiếp tục sử dụng sự thuê. Theo mặc
định, client sẽ nỗ lực trong nền tảng, để làm
mới sự thuê của nó khi 50% thời gian thuê
được phân công được kết thúc.
* Nếu việc ping thất bại, DHCP client cho rằng
nó đã di chuyển đến một mạng nơi mà các
dịch vụ DHCP không có sẵn. Client tự định cấu
hình địa chỉ IP của nó như đã miêu tả trước
đây. Khi client tự định cấu hình, mỗi 5 phút nó
nỗ lực để định vị DHCP server và nhận được sự

thuê.
VI> Sự lưu trữ cục bộ
Microsoft DHCP hỗ trợ việc lưu trữ cục bộ, cho
phép các client lưu thông tin DHCP trên các đĩa
cứng của chúng. Sự lưu trữ cục bộ thì hữu ích
bởi vì khi hệ thống client khởi động, nó nỗ lực
đầu tiên để làm mới sự thuê của địa chỉ IP
giống nhau. Sự lưu trữ cục bộ cũng có nghĩa là
một client có thể được shut down và khởi động
lại việc sử dụng địa chỉ và cấu hình thuê bao
một cách trước tiên, thậm chí DHCP server
không thể đạt được hoặc ngoại tuyến tại thời
gian máy tính client là khởi động lại. Sự lưu
trữ cục bộ cũng làm cho có thể khả năng đối
với thể hiện việc tự định cấu hình IP.
1- Tiến trình thuê bao DHCP
Một client DHCP làm cho có thể nhận được sự
thuê bao cho một địa chỉ IP từ DHCP server.
Trước khi thuê bao kết thúc, DHCP server phải
làm mới sự thuê bao cho client hoặc client phải
nhận được sự thuê bao mới. Các sự thuê bao
là tiếp tục dùng trong cơ sở dữ liệu DHCP
server xấp xỉ với một ngày sau khi kết thúc.
Điểm uyển chuyển này bảo vệ sự thuê bao của
client trong trường hợp client và server ở các
vùng thời gian khác nhau, các đồng hồ bên
trong thì không đồng bộ, hoặc client thì rớt
khỏi mạng khi thuê bao kết thúc.
2- Các thông điệp DHCP
*DHCPDiscover :Thời gian đầu tiên một máy

tính DHCP client nỗ lực để gia nhập mạng, nó
yêu cầu thông tin địa chỉ IP từ DHCP server bởi
việc broadcast một gói DHCPDiscover. Địa chĩ
IP nguồn trong gói là 0.0.0.0 bởi vì client chưa
có địa chỉ IP. THông điệp củng là 342 hoặc 576
byte chiều dài-phiên bản cũ hơn của Windows
sử dụng khung thông điệp dài hơn.
*DHCPOffer:Mỗi DHCP server nhận được gói
DHCPDiscover client đáp ứng với gói
DHCPOffer chứa địa chỉ IP không thuê bao và
thông tin định cấu hình TCP/IP bổ sung(thêm
vào), chẳng hạn như subnet mask và gateway
mặc định. Nhiều hơn một DHCP server có thể
đáp ứng với gói DHCPOffer. Client sẽ chấp
nhận gói DHCPOffer đầu tiên nó nhận được.
Thông điệp là 342 byte chiều dài.
*DHCPRequest: Khi DHCP client nhận được
một gói DHCPOffer, nó đáp ứng lại bằng việc
broadcast gói DHCPRequest mà chứa yêu cầu
địa chỉ IP, và thể hiện sự chấp nhận của địa
chỉ IP được yêu cầu. Thông điệp cũng là 342
hoặc 576 byte chiều dài phụ thuộc vào chiều
dài của thông điệp DHCPDiscover phù hợp.
*DHCPAcknowledge : DHCP server được chọn
lựa chấp nhận DHCPRequest client cho địa chỉ
IP bởi việc gửi một gói DHCPAck. Taị thời điểm
này, server cũng định hướng bất cứ các tham
số định cấu hình tuỳ chọn. Sự chấp nhận trên
của DHCPAck, client có thể tham gia trên
mạng TCP/IP và hoàn thành hệ thống khởi

động. Thông điệp này cũng là 342 byte chiều
dài.
*DHCPNak: Nếu địa chỉ IP không thể được sữ
dụng bởi client bởi vì nó không còn giá trị nữa
hoặc được sử dụng hiện tại bởi một máy tính
khác, DHCP server đáp ứng với gói DHCPNak,
và client phải bắt đầu tiến trình thuê bao lại.
Bất cứ khi nào DHCP server nhận được yêu
cầu từ một địa chỉ IP mà không có giá trị theo
các scope(tầm vực) mà nó được định cấu hình
với, nó gửi thông điệp DHCPNak đối với client.
*DHCPDecline : Nếu DHCP client quyết định
tham số thông tin được đề nghị nào không có
giá trị, nó gửi gói DHCPDecline đến các server
và client phải bắt đầu tiến trình thuê bao lại.
*DHCPRelease: Một DHCP client gửi một gói
DHCPRelease đến một server để giải phóng địa
chỉ IP và xoá bất cứ thuê bao nào đang tồn
tại.
*DHCPInform: DHCPInform là loại thông điệp
DHCP mới, được định nghĩa trong RFC 2131,
được sử dụng bởi các máy tính trên một mạng
yêu cầu và nhận thông tin từ DHCP server cho
việc sử dụng trong việc định cấu hình cục bộ
của nó. Khi thông điệp này được sử dụng,
người gửi sẵn sàng việc định cấu hình cho địa
chỉ IP của nó trên mạng, cái mà có thể hoặc
không thể đã được nhận việc sử dụng DHCP.
Thông điệp này không được hỗ trợ một cách
hiện tại bởi dịch vụ DHCP được cung cấp trong

các version trước đây của Windows NT Server
và có thể không được nhận ra bởi sự thực thi
phần 3 của phần mềm DHCP.
3- Hoạt động của tiến trình thuê bao
Thời gian đầu tiên DHCP client khởi động và nỗ
lực để gia nhập mạng, nó theo dõi việc khởi
tạo tiến trình một cách tự động để nhận được
sự thuê bao từ DHCP server.
DHCP client yêu cầu một địa chỉ IP bởi việc
broadcast thông điệp DHCPDiscover để định vị
mạng con.
Client được đề nghị một địa chỉ khi DHCP
server đáp ứng với thông điệp DHCPOffer chứa
địa chỉ IP và thông tin định cấu hình cho thuê
bao đối với client. Nếu không có DHCP đáp
ứng đối với yêu cầu client, client có thể tiến
hành theo 2 cách:
+ Nếu nó là client Windows 2000 based, và
việc tự định cấu hình IP không thể không có
khả năng, client tự định cấu hình địa chỉ IP cho
interface của nó.
+ Nếu client không phải là client Windows
2000 based hoặc việc tự định cấu hình là
không có thể, sự khởi động mạng client thất
bại. Client tiếp tục gửi lại các thông điệp
DHCPDiscover trong nền tảng(4 lần, mỗi lần 5
phút) cho đến khi nó nhân được thộng điệp
DHCPOffer từ DHCP server.
__________________


07-27-2009
#2
Hc C uongMeocH
Super Moderator


Tham gia: Oct 2008
Đến từ: Chùa Thốp
Posts: 2,006
Cám ơn: 183
Thanked 574 Times in 410 Posts

+ Client chỉ ra sự chấp nhận của đề nghị
bởi việc chọn lựa địa chỉ được đề nghị và
việc đáp ứng đối cho server với một thông
điệp DHCPRequest.
+ Client đựơc phân công địa chỉ và DHCP
server gửi một thông điệp DHCPAck, chấp
nhận sự thuê bao. Thông tin tuỳ chọn
DHCP khác có lẽ được bao gồm trong
thông điệp.
+ Khi client nhận được sự chấp nhận, nó
định cấu hình các đặc tính TCP/IP của nó
sử dụng bất cứ thông tin tuỳ chọn DHDP
nào trong sự trả lời, và gia nhập mạng.
Trong các trường hợp hiếm thấy, DHCP
server có thể trả lại sự chấp nhận phủ
định đối với client. Điều này có thế nếu
một client yêu cầu một giá trị vô nghĩa
hoặc trùng. Nếu một client nhận một sự

đáp ứng phủ định(DHCPNak),client phải
bắt đầu toàn bộ tiến trình thuê bao trở
lại.
VII> Các trạng thái DHCP client trong tiến
trình thuê bao
Các DHCP client quay vòng tròn thông qua
6 trạng thái khác nhau trong suốt tiến
trình thuê bao DHCP, như minh hoạ trong
hình 4.3.
1> Trạng thái khởi tạo:
Trạng thái này xảy ra lần đầu tiên khi xếp
chồng giao thức TCP/IP(protocol stack)
được khởi tạo trên máy tính DHCP client.
Client chưa có địa chỉ IP để yêu cầu từ các
DHCP server. Trạng thái này cũng xảy ra
nếu client đựơc từ chối địa chỉ IP nó đang
yêu cầu hoặc địa chỉ IP nó đã được giải
phóng một cách trước tiên. Hình 4.5 thể
hiện trạng thái khởi tạo.
Khi DHCP client trong trạng thái này, địa
chỉ IP của nó là 0.0.0.0. Để nhận được
một địa chỉ có gía trị, client broadcast một
thông điệp DHCPDiscover từ cổng UDP 68
đến cổng UDP 67, cái mà địa chỉ nguồn
của 0.0.0.0 và đích đến của
255.255.255.255(client chưa biết địa chỉ
của bất cứ DHCP server nào). Thông điệp
DHCPDiscover chứa địa chỉ điều khiển truy
cập đa phương tiện của DHCP client và tên
máy tính.

2-Sự chọn lựa
Kế tiếp, client di chuyển trong trạng thái
chọn lựa, nơi mà nó chọn DHCPOffer. Tất
cả các DHCP server mà nhận thông điệp
DHCPDiscover và có địa chỉ IP có giá trị để
đề nghị DHCP client đáp ứng với thông
điệp DHCPOffer được gửi từ cổng UDP 68
đến cổng UDP 67. DHCPOffer được gửi qua
sự điều khiển truy cập đa phương tiện và
broadcast IP bởi vì DHCP client chưa có
giá trị IP đúng để có thể được sử dụng
như đích đến. DHCP server duy trì địa chỉ
IP để ngăn chặn nó từ việc được đề nghị
tới DHCP client khác.Thông điệp
DHCPOffer chứa địa chỉ IP và subnet mask
thỏa mãn, một thành phần DHCP
server(địa chỉ IP của việc đề nghị DHCP
server) và trong suốt sự thuê bao. Hình
4.6 thể hiện trạng thái chọn lựa.

×