Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "VẤN ĐỀ MỞ RỘNG THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.82 KB, 22 trang )

VẤN ĐỀ MỞ RỘNG THẨM QUYỀN XÉT XỬ
SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
VÕ THỊ KIM OANH
ThS. Khoa Luật hình sư - ĐH Luật TP.HCM

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã và
đang được tiến hành một cách toàn diện, sâu sắc.
Những thành tựu to lớn do quá trình đổi mới mang lại
đã tạo ra những tiền đề cần thiết đưa đất nước ta bước
vào một thời kỳ mới. Hiến pháp 1992 được ban hành
đã tạo ra cơ sở pháp luật quan trọng cho hoạt động
của Nhà nước và toàn bộ đời sống xã hội. Trên cơ sở
Hiến pháp năm 1992, Nhà nước ta đã và đang tiến
hành cải cách đổi mới hệ thống pháp luật cho phù
hợp với Hiến pháp, với sự phát triển của xã hội, trong
đó có việc hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự. Bộ luật
tố tụng hình sự ban hành năm 1988 có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 1989. Sau hơn 10 năm thi
hành đến nay, Bộ luật tố tụng hình sự đã ba lần sửa
đổi, bổ sung. Tuy vậy, Bộ luật tố tụng hình sự vẫn
bộc lộ những hạn chế nhất định . Quá trình tổng kết
10 năm thi hành luật của ngành Kiểm sát, Tòa án,
Nội vụ, Tư pháp có khoảng 50% số điều luật được đề
nghị sửa đổi. Nhiều quy định về phân cấp thẩm
quyền giải quyết vụ án hình sự chưa phù hợp, đặc
biệt là phân định thẩm quyền xét xử của Tòa án các
cấp. Xác định được tầm quan trọng của cuộc cải cách
tư pháp, Nghị quyết hội nghị lần thứ VIII của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đưa ra quan
điểm chỉ đạo về việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự,


trong đó nghiên cứu mở rộng thẩm quyền của Tòa án
nhân dân cấp huyện, cụ thể là “Nghiên cứu tăng thẩm
quyền cho Tòa án nhân dân cấp huyện, quận theo
hướng xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Tòa
án cấp này. Tòa án tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm,
Tòa án nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc
thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử thống nhất theo
pháp luật. Hạn chế việc xét xử sơ thẩm đồng thời
chung thẩm. Nghiên cứu thành lập Tòa án chuyên
môn”.
Như vậy nghiên cứu mở rộng thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân cấp huyện là một trong những nội
dung quan trọng của việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình
sự, xác định sự cần thiết khách quan của việc sửa đổi,
làm rõ các cơ sở để xác định mức thẩm quyền phù
hợp là việc làm hết sức cần thiết.
I
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã khẩn trương
bắt tay xây dựng củng cố bộ máy Nhà nước để bảo vệ
thành quả Cách mạng, xây dựng một Nhà nước của
nhân dân, vì nhân dân. Ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ra sắc lệnh thành lập Tòa án quân sự ở
các địa phận khác nhau trong cả nước. Tuy nhiên vì
yêu cầu Cách mạng lúc bấy giờ, Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa mới chỉ thiết lập các tòa án quân
sự mà chưa tổ chức hệ thống Tòa án các cấp và các
Tòa án quân sự cũng chỉ xét xử các vụ án hình sự mà
không xét xử các vụ án dân sự.
Ngày 24/01/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc

lệnh số 13 về tổ chức Tòa án và ngạch thẩm phán.
Sắc lệnh này đã phân chia Tòa án xét xử thành hai
cấp sơ cấp và đệ nhị cấp. Tòa án cấp sơ cấp gồm các
Tòa án của phủ, huyện, châu. Tòa án đệ nhị cấp là
gồm các Tòa án tỉnh. Nhưng để phân biệt thẩm quyền
của các Tòa án, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 51 ngày
17/04/1946 ấn định thẩm quyền xét xử của các Tòa
án. Theo quy định của Sắc lệnh này thì thẩm quyền
xét xử của Tòa án sơ cấp về hình sự có quyền xét xử
chung thẩm: những án phạt bạc từ 0,50 đồng đến 9,00
đồng; những án xử bồi thường từ 150 đồng trở xuống
do nguyên cáo bị thiệt hại trong một vụ vi cảnh thỉnh
cầu trong đơn khiếu kiện hay chậm nhất lúc việc vi
cảnh đem ra Tòa xử và sơ thẩm những vụ án phạt
giam từ 1 đến 5 ngày. Việc phân định thẩm quyền xét
xử về hình sự trong Sắc lệnh này tồn tại một thời gian
khá dài, cho đến ngày 14/07/1960 tại kỳ họp thứ nhất
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa II
đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Trên cơ
sở của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 23/6/1967
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh
quy định cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân địa
phương. Pháp lệnh này quy định Tòa án nhân dân
thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành
chính tương đương có thẩm quyền phân xử những
việc hình sự nhỏ không phải mở phiên Tòa; sơ thẩm
những vụ án hình sự có thể bị phạt tù từ 2 năm trở
xuống. Năm 1980, khi Hiến pháp 1980 ban hành,
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày

04/7/1981 theo quy định tại Điều 36 Luật này thì các
Tòa án nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án hình
sự trừ những loại việc sau đây:
+ Những tội xâm phạm an ninh quốc gia
+ Những tội xâm phạm khác có tính chất nghiêm
trọng, phức tạp hoặc gây hậu quả quá lớn
Ngày 28/8/1988 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Bộ
luật tố tụng hình sự, đồng thời Quốc hội đã thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung luật Tòa án nhân dân và Hội
đồng Nhà nước thông qua Pháp lệnh tổ chức Tòa án
quân sự. Theo quy định tại hai văn bản pháp quy này
thì thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được quy
định cụ thể hơn…Theo Khoản 1 Điều 145 Bộ luật tố
tụng hình sự thì Tòa án nhân dân huyện và Tòa án
quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử những tội
phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù từ 7
năm tù trở xuống trừ các tội đặc biệt nguy hiểm xâm
phạm an ninh quốc gia và trừ các tội quy định tại các
Điều 89, 90, 91, 92, Khoản 3 Điều 101, các Điều 102,
179, 231, và 232 Bộ luật hình sự. Quy định trên về
thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp tập trung
vào Tòa án nhân dân huyện. Khi quy định và hướng
dẫn này đã đầy đủ thì việc thực hiện thẩm quyền xét
xử của tòa án nhân dân tỉnh sẽ giảm đi nhiều vướng
mắc. Vì vậy, sau khi Bộ luật tố tụng hình sự ban
hành, để thi hành một số quy định của Bộ luật này về
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối

cao, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã có văn bản hướng
dẫn như Thông tư liên ngành số 02 ngày 12/1/1989
và Thông tư liên ngành số 02 ngày 15/2/1990. Ngày
9/6/2000 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật tố tụng hình sự đã quy định: “ Tòa án nhân dân
cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm
những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình
phạt tù từ 7 năm tù trở xuống trừ những tội sau đây:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc qia.
- Các tội quy định tại các Điều 95, 96, khoản 1 Điều
172 và các Điều 222, 223, 263, 293, 294, 295, 296,
Bộ luật hình sự.
II
Như vậy, về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
huyện đã có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành nhưng
đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về thẩm
quyền xét xử của Tòa án này trong lĩnh vực xét xử
hình sự. Trên cơ sở Nghị quyết lần thứ 8 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VII đã có hai loại ý kiến
khác nhau về việc tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án
nhân dân cấp huyện:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng bước đầu chỉ nên tăng
thẩm quyền xét xử cho một số Tòa án nhân dân cấp
này mà không nên tăng thẩm quyền theo kiểu đồng
loạt với lý do là về cơ sở vật chất, tổ chức con người
ở Tòa án cấp này hiện tại không đồng đều nhau. Mặt
khác, ở một số Tòa án nhân dân tỉnh (phần lớn miền
núi) thì số lượng vụ án hình sự xét xử hàng năm
không nhiều. Nếu tăng thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân huyện thì số lượng vụ án mà Tòa án nhân

dân tỉnh xét xử sơ thẩm sẽ giảm xuống và do đó sợ
rằng Tòa án cấp tỉnh sẽ không có việc làm. Vì vậy,
theo quan điểm này thì chỉ nên tăng thẩm quyền xét
xử của Tòa án nhân dân huyện cho một số Tòa án
như các Tòa án nhân dân quận của thành phố trực
thuộc Trung ương như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,
Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng ta dễ thấy rằng, loại
ý kiến này xuất phát từ mục đích giảm bớt sự quá tải,
san bớt gánh nặng mà không xuất phát từ nguyên tắc
tổ chức bộ máy Nhà nước, không xuất phát từ nguyên
tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và sẽ
quy định như thế nào về vấn đề này để có sự thống
nhất trong nhân dân. Bên cạnh đó, sẽ giải thích như
thế nào về chế độ chính sách đối với các Tòa án cấp
này được tăng thẩm quyền; đối với Thẩm phán, cán
bộ các Tòa án này, chưa nói đến yêu cầu, tiêu chuẩn
đối với Thẩm phán các Tòa án được tăng thẩm quyền
có khác với yêu cầu, tiêu chuẩn của Thẩm phán các
Tòa án không được tăng thẩm quyền hay không?
Loại ý kiến thứ hai là nên tăng thẩm quyền xét xử về
hình sự cho tất cả các Tòa án nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Tòa án quân sự
khu vực với lý do bảo đảm sự thống nhất trong tổ
chức bộ máy Nhà nước, bảo đảm sự thống nhất trong
pháp luật. Đặc biệt đảm bảo thực hiện thống nhất
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về
việc từng bước tăng thẩm quyền cho Tòa án nhân dân
cấp huyện là Tòa án xét xử sơ thẩm đại đa số các vụ
án hình sự. Mặc dù ở các Tòa án nhân dân huyện hiện
nay cơ sở vật chất, tổ chức, con người ở Tòa án này

không đồng đều, ở một số Tòa án cấp tỉnh số lượng
các vụ án hình sự xét xử sơ thẩm hàng năm không
nhiều. Thế nhưng việc tăng thẩm quyền xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự cho Tòa án cấp huyện không
chỉ phụ thuộc vào số lượng vụ án hình sự mà Tòa án
nhân dân cấp tỉnh xét xử hàng năm nhiều hay ít mà
còn phụ thuộc vào cơ sở vật chất, tổ chức, con người,
vào nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước và yêu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm… mà đây là những
vấn đề mang tính tạm thời và có khả năng khắcc phục
được. Vì vậy chúng tôi ủng hộ loại ý kiến thứ hai
này. Tuy nhiên tăng thẩm quyền xét xử về hình sự
cho tất cả các Tòa án nhân dân cấp huyện đến bao
nhiêu và tăng như thế nào thì trong dự thảo Bộ luật
Tố tụng hình sự vẫn còn nhiều phương án khác nhau
chưa thống nhất, cụ thể là:
- Phương án 1: Căn cứ vào việc phân loại tội phạm
trong Bộ luật hình sự mới, quy định cho Tòa án nhân
dân huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các
tội phạm ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và tội rất
nghiêm trọng trừ các tội xâm phạm an ninh quốc qia,
những tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên
lãnh thổ Việt Nam; các tội khác quy định tại các điều
của Bộ luật hình sự như giết người, ma túy, buôn lậu
qua biên giới…
- Phương án 2: Có thể quy định liệt kê trong Bộ luật
tố tụng hình sự (sửa đổi) những điều luật và khung
hình phạt cụ thể của Bộ luật hình sự thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện theo hướng
được áp dụng tất cả các khung 1, khung 2 và khung 3

trừ một số trường hợp ngoại lệ.
- Phương án 3: Mở rộng thẩm quyền cho Tòa án
quận, huyện được xét xử những tội phạm mà Bộ luật
hình sự quy định hình phạt tới 10 năm hoặc 12 năm,
15 năm tù trừ các tội xâm hạm an ninh quốc gia,
những tội do người nước ngoài thực hiện trên lãnh
thổ Việt Nam và một số tội khác. Chúng tôi ủng hộ
phương án này, vì đây là cách tăng hợp với việc quy
định thẩm quyền xét xử cho Tòa án huyện có tính
truyền thống từ trước đến nay, cụ thể là từng bước
mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Tòa án (các
huyện) một cách phù hợp với tình hình thực tiễn về
trình độ, số lượng Thẩm phán và cơ sở vật chất kỹ
thuật của Tòa án huyện. Với điều kiện hiện nay,
chúng tôi nhận thấy cần mở rộng thẩm quyền cho
Tòa án nhân dân huyện đến 10 năm tù trừ các tội xâm
phạm an ninh quốc gia (tại chương XI Bộ luật hình
sự 1999 trừ những tội do người nước ngoài thực hiện
trên lãnh thổ Việt Nam).
III
Theo chúng tôi việc tăng thẩm quyền của Tòa án
nhân dân huyện được xét xử những tội phạm mà Bộ
luật hình sự qui định hình phạt đến 10 năm tù là một
đòi hỏi tất yếu khách quan, phù hợp với điều kiện
thực tế của xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển chung
và có tính khả thi với những lý do sau:
1) Hệ thống pháp luật hiện nay đã được cơ bản hoàn
thiện. Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự cùng
các luật và văn bản dưới luật khác trong hệ thống
pháp luật là cơ sở thuận lợi cho việc điều tra, truy tố

và xét xử vụ án hình sự.
2) Việc xét xử ở Tòa án nhân dân cấp huyện bao giờ
cũng thuận lợi hơn cho những người tham gia tố tụng
có mặt tại phiên tòa. Đó là một trong những yếu tố
đảm bảo cho việc xét xử khách quan, chính xác đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo và các
đương sự. Vì phạm vi lãnh thổ của tỉnh quá rộng nên
tình trạng xét xử vắng mặt những người tham gia tố
tụng ở các Tòa án cấp tỉnh xảy ra phổ biến hơn ở các
Tòa án nhân dân cấp huyện.
3) Xét ở góc độ kinh tế, việc xét xử ở Tòa án nhân
dân cấp huyện tiết kiệm hơn nhiều so với xét xử ở
cấp tỉnh. Từ việc chi phí cho các hoạt động điều tra,
xét xử đến chi phí đi lại, sinh hoạt của những người
thamgia tố tụng, tổ chức xã hội tham gia phiên tòa
khi phải xét xử ở Tòa án nhân dân tỉnh thì luôn dẫn
đến sự hao tốn nhiều về thời gian, tiền của, nhân lực.
4) Việc xét xử ở Tòa án nhân dân huyện có nhiều
điều kiện thuận lợi như về phương tiện đi lại, thời
gian… nên ít có trường hợp phải hoãn phiên tòa vì
vắng mặt người tham gia tố tụng, vì vậy thời hạn xét
xử không bị kéo dài, số án tồn đọng ít hơn so với việc
xét xử ở Tòa án nhân dân tỉnh.
5) Thực trạng đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân
hiện nay: đội ngũ cán bộ Tòa án nói chung, Tòa án
nhân dân huyện nói riêng hình thành sau chiến tranh.
Lúc này do thiếu cán bộ nên chủ yếu cán bộ ở Tòa án
là từ quân đội hoặc từ các cơ quan đoàn thể khác
chuyển sang. Số cán bộ này hầu như không qua đào
tạo cơ bản chuyên ngành. Trong nước, các trường

Đại học Luật thành lập muộn hơn so với các trường
Đại học khác. Những điểm này đã ảnh hưởng đáng kể
đến chất lượng cán bộ Tòa án nói chung và Tòa án
huyện nói riêng. Mặc khác, chế độ bầu cử Thẩm phán
lúc ấy chưa quy định tiêu chuẩn cụ thể về chuyên
môn của Thẩm phán, thủ tục tuyển chọn Thẩm phán
có phần thiếu chặt chẽ so với hiện nay. Từ khi có
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm phán nhân dân
ngày 14/5/1993, Thẩm phán Tòa án các cấp được chủ
tịch nước bổ nhiệm, tiêu chuẩn được bổ nhiệm Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp huyện được quy định khá
chặt chẽ. Hiện nay, Thẩm phán của Tòa án nhân dân
cấp huyện ngoài những tiêu chuẩn quy định tại Điều
4 pháp lệnh thì họ phải có trình độ cao đẳng Tòa án,
hoặc đại học Luật, có thời gian làm công tác pháp
luật từ 4 năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án
theo thẩm quyền. Với qui định như hiện nay, thực
trạng số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân huyện và
trình độ chuyên môn như thế nào? Theo báo cáo số
124CP-PCM ngày 28/10/1997 của Chính phủ trước
Quốc hội thì từ đầu nhiệm kỳ đến nay Chủ tịch nước
đã bổ nhiệm 908 Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
tỉnh; 2199 Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện;
108 Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và khu vực.
Nhìn chung đội ngũ Thẩm phán Tòa án địa phương
đã được tăng cường về số lượng. Tuy nhiên so với số
lượng Thẩm phán mà ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định cho Tòa án nhân dân huyện thì số Thẩm phán
hiện có của Tòa án nhân dân huyện còn thiếu 1316
người (tỉnh thiếu 210 người, Tòa án quân sự thiếu 32

người) số lượng thẩm phán thiếu chủ yếu tập trung
vào phía Nam, một số huyện mới chia tách và các địa
phương ở vùng sâu vùng xa, vùng miền núi. Để khắc
phục tình trạng này, Bộ Tư pháp đã có phương án
giải quyết là các địa phương có kế hoạch chuẩn bị
nguồn bổ sung. Nguồn này chủ yếu là đội ngũ thư ký,
chuyên viên các Tòa án ở địa phương với hơn 1000
người có trình độ Đại học và tham gia công tác tại cơ
quan Tòa án từ 2 đến 3 năm trở lên. Mặc khác, trong
nước đã có trường đào tạo chức danh tư pháp đã mở
lớp đào tạo tư pháp khóa 2, số này ra trường có thể
tuyển chọn để bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện. Bộ
Tư pháp có phương án phối hợp với Tòa án tối cao để
điều động thuyên chuyển nhằm đảm bảo số Thẩm
phán thiếu hụt cho các tỉnh phía Nam.
6) Khảo sát trình độ chuyên môn của Thẩm phán Tòa
án huyện qua hai nhiệm kỳ đã cho thấy sự phát triển
đội ngũ Thẩm phán cả về số lượng và chất lượng.
Thẩm phán huyện đã từng bước nâng cao trình độ
học vấn, chuyên môn và đạt tiêu chuẩn cần thiết theo
quy định của pháp luật. Cụ thể theo nhiệm kỳ trước
năm 1993, Thẩm phán (huyện) có trình độ đại học chỉ
có 250 người, chiếm tỉ lệ 18,2%. Từ nhiệm kỳ 1994 –
1999 đã có 1282 Thẩm phán (huyện) có trình độ đại
học, chiếm tỉ lệ 58,3%. Mặc khác, chất lượng xét xử
của Tòa án huyện ngày càng được nâng cao thể hiện
ở kết quả xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh. Cụ thể, năm 1997 có 5922 vụ trong đó y án
90,18%, hủy án 3,07%, sửa án 6,75%; năm 1998 có
5211 vụ trong đó y án 63,92%, hủy án 7,53%, sửa án

28,54%; 3 tháng cuối năm 1998 và 3 tháng đầu năm
1999 có 3095 vụ trong đó 61,83% y án, hủy án
6,09%, và sửa án 32,04%. Nhìn chung trong những
năm qua Tòa án nhân dân huyện trong cả nước đã
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên chất
lượng xét xử không đồng đều qua các năm, tỉ lệ sửa
án và hủy án tương đối cao.
7) Vấn đề Hội thẩm nhân dân, cơ sở vật chất củaTòa
án huyện cũng là một vấn đề cần quan tâm khi mở
rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án huyện. Theo
pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm
1993 thì tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ, trình độ
học vấn của Hội thẩm nhân dân chưa được quy định,
do đó chất lượng Hội thẩm nhân dân là vấn đề đáng
quan tâm hiện nay. Hội thẩm nhân dân của Tòa án
nhân dân huyện do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu
ra đa số đều không được đào tạo và không có chuyên
môn về xét xử, việc quản lý Hội thẩm nhân dân, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm nhân dân cấp huyện
là khâu yếu hiện nay. Trong khi đó, khi xét xử, Tòa
án xét xử theo nguyên tắc xét xử tập thể, quyết định
theo đa số, mà Hội thẩm nhân dân trong thành phần
Hội đồng xét xử sơ thẩm cấp huyện lại chiếm đa số,
nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng án hình sự
của Tòa án cấp huyện. Ngoài ra, điều kiện cơ sở vật
chất của Tòa án nhân dân huyện cũng cần phải kiện
toàn mới có khả năng đáp ứng yêu cầu khi tăng thẩm
quyền cho Tòa án huyện.
8) Nghiên cứu hệ thống khung hình phạt trong Bộ
luật hình sự mới (có hiệu lực từ ngày 1/7/2000) cho

thấy có tổng số 626 khung hình phạt trong đó tăng số
khung có mức cao nhất dưới và từ 7 năm tù trở xuống
có 343 khung, chiếm 54,79%; tổng số khung có mức
cao nhất dưới và từ 10 năm tù trở xuống có 405
khung, chiếm 64,69%; tổng số khung có mức cao
nhất dưới và từ 12 năm tù trở xuống có 432 khung,
chiếm 69%; tổng số khung có mức cao nhất dưới và
từ 15 năm tù trở xuống có 504 khung, chiếm 80,5%.
Theo Bộ luật hình sự hiện hành có 431 khung, nếu
tính theo quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật tố
tụng hình sự thì Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ được
xét xử 229 khung, chiếm tỉ lệ 39,67%. Như vậy, nếu
mở rộng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp
huyện được xét xử những tội mà khung hình phạt quy
định đến 10 năm tù theo Bộ luật hình sự mới, Tòa án
huyện sẽ được xét xử 405 khung, chiếm tỉ lệ 64,69%
và so với thẩm quyền xét xử hiện hành thì Tòa án
nhân dân huyện đã được xét xử tăng thêm 176 khung.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, việc tăng
thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp huyện trong
giai đoạn này là hoàn toàn hợp lý và là một nhu cầu
cấp thiết. Việc mở rộng thẩm quyền cho Tòa án cấp
huyện như thế sẽ giảm bớt gánh nặng xét xử sơ thẩm
cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Các Tòa án nhân dân
tỉnh tập trung chủ yếu vào việc xét xử phúc thẩm, và
đồng thời cũng giảm bớt việc xét xử phúc thẩm cho
Tòa án nhân dân tối cao, để Tòa án nhân dân tối cao
tập trung vào giám đốc xét xử và tổng kết hướng dẫn
áp dụng thống nhất pháp luật cho các Tòa án địa
phương, và đây là sự mở rộng thẩm quyền cho Tòa

án nhân dân cấp huyện một cách hợp lý và có tính
khả thi cao.

×