Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

HỆ THỐNG PHÂN LOẠI - ĐỊNH DANH CÁC LOÀI NẤM DA – PHẦN 1 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.3 KB, 20 trang )

HỆ THỐNG PHÂN LOẠI - ĐỊNH DANH
CÁC LOÀI NẤM DA – PHẦN 1


5.1. Lịch sử nghiên cứu nấm da:
Lịch sử nghiên cứu nấm y học bắt đầu bằng việc phát hiện và xác định căn
nguyên gây bệnh nấm da. Năm 1839 J, L. Schoenlein là người đầu tiên quan sát
thấy nấm dạng sợi trên tổn thương ở một bệnh nhân nấm tóc. Năm 1942, Robert
Remak đã lấy bệnh phẩm trên da đầu một bệnh nhân bị nấm tóc dạng chốc lở
(favus) cấy lên cánh tay của mình và phát hiện ra căn nguyên gây chốc lở có thể
lây nhiễm. Từ năm 1841 đến năm 1843, Gruby đã có nhiều công trình nghiên
cứu về các nấm gây bệnh ở da, Ông đã mô tả đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm
của bệnh do T.schoenleinii, Ông cũng phát hiện đặc điểm xâm nhập ectothrix và
endothrix của nấm ở tóc, phát hiện ra Microsporum audouinii và sau đó Ông đặt
tên chi là Microsporum (genus Microsporum). Malmsten (1845) phát hiện ra một
loài mới Trichophyton tonsurans gây bệnh ở da và đã đặt tên Trichophyton cho
một chi mới (genus Trichophyton). Từ năm 1892, Sabouraud bắt đầu các công
trình nghiên cứu về nấm da; năm 1910, Ông đã xuất bản cuốn Les Teines, trong
đó có hệ thống phân loại nấm, hình thái, các phương pháp nghiên cứu labo và



điều trị bệnh nấm da. Tuy đã có hệ thống phân loại của Sabouraud nhưng hệ
thống phân loại nấm da còn có nhiều điều chưa rõ ràng do các tác giả đặt tên một
loài mới không những dựa vào các đặc điểm hình thể nấm mà còn vào đặc điểm
lâm sàng. Đến năm 1934, Emmons đã đưa ra hệ thống phân loại nấm da dựa vào
hình thái bào tử và các cấu trúc khác của nấm.
Trong những năm 1950, Benham, Goerge và Camp, Silva đã nghiên cứu các
đặc điểm sinh lý và các chất cần thiết để nuôi cấy một số loài nấm da, đó là cơ sở
của nutritional test để định loại một vài loài nấm da.
Vanbreuseghem phát minh ra phương pháp mồi tóc (1952) và đã được ứng


dụng nhiều trong nghiên cứu; sau đó một số tác giả đã phát hiện dạng sinh sản
hữu tính của nấm da. Dawson và Gentles (1959) dùng phương pháp mồi tóc nuôi
cấy Trichophyton ajelloi đã phát hiện bào tử túi (ascospore). Năm 1960, Griffin
đã phát hiện dạng sinh sản hữu tính của Microporum gypseum.
Do kỹ thuật nuôi cấy phát triển nên số loài được phát hiện ngày càng nhiều
đặc biệt sau khi phương pháp mồi tóc của Vanbreuseghem ra đời (1952). Ajello
(1968) đã giới thiệu 21 loài của 3 chi. Đến năm 1974, theo Ajello: số loài đã tăng
lên 37 loài, trong đó 1 loài Epidermophyton, 15 loài Microsporum và 21 loài
Trichophyton. Năm 1977, Ajello đã giới thiệu 38 loài với 42 chủng. Đến nay,
dựa trên các loài đã được công nhận nấm da bao gồm 41 loài với 46 chủng.


5.2. Vị trí của nấm da trong giới nấm:
+ Phân loại nấm nói chung và nấm da (Dermatophytes) nói riêng chủ yếu dựa
vào các đặc điểm hình thể của các cơ quan sinh sản vô tính hay hữu tính
(imperfect hay perfect) của nấm hoặc dựa vào các đặc tính sinh lý, sinh học,
thành phần cấu trúc của thành tế bào Trước đây do chưa biết dạng sinh sản hữu
tính của các nấm da nên người ta sắp xếp tất cả nấm da vào lớp nấm bất toàn
(Fungi Imperfecti). Ngày nay một số loài nấm da chưa biết dạng sinh sản hữu
tính nhưng người ta vẫn xếp chung vào lớp Imperfecti như sau (Ajello, 1977):
Subdivision : Deuteromycota (Fungi Imperfecti).
Class : Hyphomycetes.
Order : Moniliales.
Family : Moniliaceae.
Genus : Epidermophyton, Microsporum, Trichophyton.
+ Một số loài nấm da người ta đã tìm thấy dạng sinh sản hữu tính, đặc biệt
sau khi phương pháp Vanbreuseghem (1952) xuất hiện thì dạng sinh sản hữu tính
của nhiều loài được biết đến. Dựa trên đặc điểm cấu tạo và hình dạng của các
dạng sinh sản hữu tính, người ta xếp những loài này vào hai chi là Arthroderma
và Nannizzia.




Subdivision : Ascomycota.
Class : Ascomycetes.
Subclass : Plectomycetes.
Order : Eurotiales.
Family : Gymnoasceceae.
Genus : Arthroderma và Nannizzia.
- Các loài nấm da có dạng sinh sản hữu tính thuộc chi Arthroderma:

Arthroderma benhamiae T.mentagrophytes var.
mentagrophytes
A.ciferrii T.georgiae.
A.flavescens T.flavescens
A.geotleri T.vanbreuseghemii


A.gloriae T.gloriae
A.insigulare T.terrestre.
A.lenticularum T.terrestre
A.quadrifidum T.terrestre
A.simii T.simii
A.uncinatum T.ajelloi
A.vanbreuseghemii T.vanbreuseghemii.
- Các loài nấm da có dạng sinh sản hữu tính thuộc chi Nannizzia:
Nannizzia borellii Microsporum
amazonicum
N.cajetani M.cookei




N.fulva M.fulvum.
N.grubby M.vanbreuseghemii
N.gypsea M.gypseum
N.incurvata M.gypseum
N.obtuse M.nanum
N.otae M.canis
N.persicolor M.persicolor
N.racemosa M.racemosum.
5.3. Các hệ thống phân loại nấm da:
5.3.1. Hệ thống phân loại của Sabouraud:
Hệ thống sắp xếp các loài nấm da vào một bộ, ba chi Epidermophyton,
Microsporum và Trichophyton được Sabouraud (1910) nêu lên lần đầu tiên trong


bảng sau. Trong hệ thống này Sabouraud chủ yếu dựa vào đặc tính của bệnh phẩm,
đặc tính của nấm gây bệnh trên người hay trên động vật như khi nấm gây bệnh ở
tóc hay ở lông thì bào tử đốt có thể tạo thành theo hai cách: bào tử đốt bao quanh
phía ngoài sợi tóc (ectothrix) hay trong sợi tóc (endothrix).













Ectothrix
Tạo bào tử lớn

Microsporum

Ở người Ở động vật
M.aodouinii M.lanosum
M.tardum M.felineum
M.velveticum M.equinum
M.fulvum
M.villosum
M.pubescens
M.tomentosum

Achorion

Ở người Ở động vật
A.schoenleinii A.quinckeanum
A.gallinae
A.gypseum

Trichophyton

Endothrix

T.crateriforme
T.acuminatum
T.violaceum

T.effractum
T.umbilicatum
T.rugulare
T.sulfureum
T.poligonum
T.exsiccatum
T.cireonvolutum

T.piosum
T.glabrum

Neoendothrix
T.celebriforme
T.plicatile
Khuẩn lạc có
dạng như tuyết

T.radians
T.denticulatum

Khuẩn lạc
dạng lông mịn
T.rosaceum
T.vinosum
T.equinum
T.canium
Khuẩn lạc
dạng trụi
T.ochraceum


T.album
T.discoides
Tạo bào tử nhỏ

Khu
ẩn lạc dạng
như bột bó
T.asteroids
T.radiolatum
T.lacticolor
T.granulosum
T.farinulentum
T.persicolor






5.3.2. Hệ thống phân loại của Conant và cộng sự (1954):
Việc phân loại xác định các loài nấm da ngày càng được bổ sung chính xác
hơn, nên hệ thống các loại nấm da được sắp xếp hoàn thiện dần. Conant và cộng
sự xây dựng lại hệ thống phân loại nấm da trên cơ bản dựa vào đặc điểm sinh học
của nấm kết hợp với tính chất gây bệnh trên lâm sàng.
* Chi Microsporum: M.audouinii
M.canis
M.gypseum
* Chi Epidermophyton: E.floccosum
* Chi Trichophyton:
+ A. Nhóm Gypseum: T.mentagrophytes

+ B. Nhóm Rubrum: T.rubrum
+ C. Nhóm Crateriform: T.tonsurans


+ D. Nhóm faviform: T.schoenleinii
T.concentricum
T.ferrugineum
T.violaceum
T. verrucosum
+ E. Nhóm rosaceum: T.megniniii
T.gallinae
5.3.3. Hệ thống phân loại của Novak và Galgóczy (1975):
Hệ thống phân loại nấm da ngày càng được hoàn chỉnh hơn và người ta thấy
rằng: dựa vào đặc điểm của bào tử có thể tiến hành phân loại một số lớn các loài
nấm da. Bên cạnh đó kết hợp với các đặc điểm sinh lý, sinh hoá… việc sắp xếp
hệ thống phân loại có nhiều ưu điểm hơn. Novak và Galgóczy đã dựa vào bào tử
lớn của các loài trên môi trường Sabouraud và môi trường Sabouraud có bổ sung
thêm nguồn vitamin để kích thích sự tạo bào tử lớn của một số loài nấm. Các tác
giả xếp ba chi Epidermophyton, Microsporum và Trichophyton vào bộ phụ
Trichophytoideae, hai chi Achorion và Kaufmannvolfia không tạo bào tử lớn
được xếp vào bộ phụ thứ hai là Achorioideae.
Hệ thống phân loại của Novak và Galgóczy:



Deuteromycetes (Fungi Imperfecti)
Monitiales
Trichophytaceae
Trichophytoideae Achorioideae
Chi Microsporum Chi Trichophyton Chi

Epidermophyton
M.audouinii T.tonsurans E.floccosum
M.felineum T.mentagrophytes E.ajlloi
M.gypseum T.gallinae E.longifusum
M.umbonatum T.quinckeanum
M.fulvum T.megninii
M.persicolor T. verrucosum
M.rivalieri T.violaceum Chi Achorion Chi
Kaufmannwolfia
M.nanum T.equinum A.schoenleinii
K.pedis


M.cookei T.rubrum A.soudanense
M.vanbreuseghemii T.gourvilii A.ferrugineum
M.racenosum T.terrestre A.yaoundei
M.boullardii T.kuryangei
M.amazonicum T.georgiae
5.3.4. Hệ thống phân loại nấm da ngày nay:
Hiện nay hệ thống phân loại trên có một số loài nấm da được thay đổi. Người
ta đã chuyển loài T.gallinae thành M.gallinae do đặc điểm của bào tử lớn. Tương
tự như vậy người ta đã bỏ chi Achorion và đưa tất cả các loài có trong chi này
vào chi Trichophyton hay Microsporum. Chi Epidermophyton chỉ còn lại một
hay hai loài, các loài khác được đưa vào Trichophyton do phát hiện được các bào
tử nhỏ trên môi trường đặc biệt. Người ta cũng bỏ K.pedis vì loài này chỉ là một
chủng của T.mentagrophytes mang tên T.mentagrophytes var. interdigitale.
Ajello đã sắp xếp tất cả các loài vào ba chi Trichophyton, Microsporum,
Epidermophyton theo bảng 14:
Bảng 14: Các loài nấm da.





ST
T
Tên chi Tên loài
1 Epidermophyto
n
(có 2 loài)
E.floccosum, E.stockdaleae.
2 Microsporum
(có 18 loài)
M.amazonicum, M.audouinii, M.boullardii, M.canis,
M.cookei, M.distortum, M.equinum, M.ferrugineum,
M.fulvum, M.gallinae, M.nanum, M.persicolor,
M.praecox, M.racemosum, M.rapariae, M.vivalieri,
M.vanbreuseghemii.
3 Trichophyton
(có 23 loài)
T.ajelloi, T.concentricum, T.equinum, T.fischeri,
T.flavesens, T.fluviomuniese, T.georgiae, T.gloriae,
T.gourvilii, T.longifusum, T.megninii,
T.mentagrophytes var. erinacei, T.mentagrophytes
var.interdigitale, T.mentagrophytes
var.mentagrophytes, T.mentagrophytes var.granulare
(nodulare), T.mentagrophytes var.quinckeanum,


T.phaseoliforme, T.rubrum, T.schoenleinii, T.simii,
T.soudanense, T.terrestre, T.tonsurans,

T.vanbreuseghemii, T. verrucosum, T.verrucosum var.
autrophicum, T.violaceum, T.yaoundei.

5.4. Chi Epidermophyton (Sabouraud, 1910):
+ Đặc điểm của chi Epidermophyton:
- Theo những tài liệu phân loại gần đây chi này vẫn chỉ có hai loài là
E.floccosum (Harz, 1871) và E.stockdaleae (Prochecki và cộng sự, 1974).
- Các loài Epidermophyton không tạo ra bào tử nhỏ. Bào tử lớn bề mặt nhẵn,
thành mỏng, các bào tử được hình thành bên cạnh hoặc cuối các sợi nấm, thường
đứng thành từng chùm hoặc phân nhánh có dạng như nải chuối hay như găng tay,
có khi giống như quả phật thủ. Trên môi trường “già” tạo nhiều bào tử áo
(chlamydospora).
- Có thể thấy những sợi nấm có dạng vợt, không thấy những sợi nấm có vòng
xoắn lò xo.



+ Sabouraud (1910) đã đặt tên chi là Epidermophyton, sau đó Langeron và
Milochevitch (1930) đã gọi là loài Acrothecium floccosum, Harz (1871) gọi là
E.floccosum.
5.4.1. Epidermophyton floccosum (Harz, 1871; Langeron và Milochevitch, 1930):
+ Tên khác: Trichthecium floccosum, Trichophyton intertrigines, Trichophyton
ingunale, Epidermophyton crusis, E.plicarum, E.clypeiforme.
+ Hình dạng khuẩn lạc: nấm phát triển tốt trên môi trường Sabouraud, khuẩn
lạc màu vàng xanh, bề mặt không đồng dạng, giữa có dạng giống như “bột”, các
phần xung quanh những sợi nấm không khí phát triển nhô lên giống như những
sợi bông. Khi cấy chuyển nhiều lần khuẩn lạc thay đổi chuyển sang dạng như
nhung mịn.
+ Hình dạng vi thể:
- Bào tử lớn nhiều, thường đứng tập trung và phân nhánh tạo nên dạng nải

chuối hay dạng găng tay. Bào
tử lớn có dạng hình thoi hay
chùy ngắn, thành mỏng, bề
mặt nhẵn, kích thước 20-35 
6-8 m. Khi cấy chuyển trên

Hình 5.1: Bào tử của E.floccosum.
1. Bào tử áo; 2. Bào tử lớn.



những môi trường tiếp theo thì bào tử thường biến dạng, kéo dài ra (hình 5.1).
- Không có bào tử nhỏ. Bào tử áo xuất hiện nhiều tạo thành chuỗi.
- Những sợi nấm dạng vợt cũng được tạo thành.
+ Đặc điểm riêng: cơ quan “đâm chọc” trên tóc in vitro cũng hình thành
nhưng yếu. Trên môi trường urea hoạt tính ureaza yếu. Hoạt tính cellulaza được
thể hiện trên môi trường có chứa celluloza. Hoạt tính thủy phân gelatin tương đối
mạnh.
+ Nơi cư trú và khả năng gây bệnh: không xuất hiện trong đất, sống ký sinh và
gây bệnh ở người, thường gây bệnh ở thân mình, móng tay, móng chân, ở bẹn,
dưới vú. Từ bệnh phẩm đem soi thường thấy sợi nấm hoặc bào tử đốt dạng chuỗi.
5.4.2. Loài E.stockdaleae (Prochecke, Engalhardt-Zasada, 1974):
+ Hình dạng khuẩn lạc: trên môi trường Sabouraud ở nhiệt độ phòng sau một
tuần đường kính khuẩn lạc là 1,5 cm. Bề mặt nhẵn, ở giữa có hình rốn, bề mặt lúc
đầu có dạng như bụi sau có dạng như nhung mịn. Màu đen như màu da trâu, mặt
dưới có màu vàng sau chuyển sang màu rỉ sắt, cuối cùng có màu rỉ sắt đen.
+ Hình dạng vi thể:
- Những sợi nấm không trong suốt, có vách ngăn, đường kính 0,8 m.




- Bào tử lớn có thành nhẵn, dạng hình côn hoặc hình bút chì, hình thành ở
bên cạnh hoặc ở cuối sợi nấm, kích thước 60-20  9-4 m, độ dày vách ngăn
trong bào tử là 0,5-2,9 m.
- Trên môi trường “già”,
nhiều bào tử áo được hình thành
từ những tế bào của bào tử lớn
“chín” (hình 5.2).
+ Đặc điểm riêng: trên in vitro
tạo cơ quan “đâm chọc” ở tóc.
+ Nơi cư trú và khả năng gây bệnh: phân lập được từ đất. Khả năng gây bệnh
ở người hay động vật chưa được nói đến.
5.5. Chi Microsporum (Gruby, 1843):
+ Đặc điểm chung: đặc điểm có ý nghĩa phân loại là bào tử lớn có thành dày,
cứng và phía ngoài thường xù xì như da cóc (hình 5.3).
+ Những đặc điểm khác:
- Những loài nấm thuộc chi Microsporum tạo ra bào tử nhỏ, bào tử áo, sợi
nấm có dạng hình vợt, dạng cuộn do các sợi nấm quấn vào nhau. Một số loài chỉ
tạo ra bào tử lớn ở trên môi trường đặc biệt.

1 2
Hình 5.2: Bào tử của E.stockdaleae.
1. Bào tử lớn, 2. Bào tử áo hình thành từ bào tử lớn.




- Đặc biệt có một vài loài có sợi nấm dạng hình lược thưa hoặc có vòng xoắn
tròn, một vòng hay nhiều vòng.


Hình 5.3: Bào tử lớn của một số loài Microsporum.
1. M.audouinii, 4. M.cookei, 7. M.gypseum, 10.
M.racemosum,
2. M.canis, 5. M.vanbreuseghemii, 8. M.fulvum, 11.
M.boullardii,
3. M.nanum, 6. M.ferrugineum, 9. M.distortum, 12. M.amazonicum.
9 10 11 12

6 7 8
3 4 5
1 2




5.5.1. Microsporum amazonicum (Moraes, Borelli và Feo, 1967):
+ Hình dạng khuẩn lạc: trên môi trường Sabouraud khuẩn lạc phát triển
nhanh, lúc đầu bề mặt khuẩn lạc mịn như bông, có màu trắng ngà, sau đó chuyển
sang dạng giống như bột với màu đỏ hồng. Mặt dưới khuẩn lạc không màu. Hiện
tượng biến dạng (pleomorphism) xảy ra chậm.
+ Hình dạng vi thể:
- Sợi nấm đục, không trong suốt. Mặt ngoài thành sợi nấm nhẵn, có các sợi
nấm hình vợt.
- Bào tử nhỏ có thành nhẵn hoặc có nốt nhỏ, thường là một tế bào hoặc bên
trong có một vách ngăn.
- Bào tử lớn đứng một mình hoặc đứng thành chùm, có dạng hình thoi, thường
có 2-5 ngăn, trong ngăn có dạng như giọt dầu, mặt ngoài nhăn, sần sùi. Bào tử lớn
khi đứng thành chùm có màu vàng, kích thước 310 m hoặc 1335m (hình 5.4).
Đặc điểm riêng: không tạo cơ quan “đâm chọc”
vào tóc người hoặc lông bờm ngựa in vitro. Nhiệt độ

thích hợp cho nấm phát triển là 23-28
0
C, nhiệt độ tối
thiểu cho nấm phát triển là 11
0
C, nhiệt độ tối đa là

Hình 5.4: Bào tử lớn của
M.amazonicum.



37
0
C; có men thủy phân gelatin; phát triển tốt trên da ngựa, bò.
+ Nơi cư trú: thường xuất hiện trên lông của chuột cống hoang dại.
+ Dạng sinh sản hữu tính của M.amazonicum: Nannizzia borelli (Moraes,
Padhlye, Ajello, 1975):
- Thể quả (gymnothecium) được hình thành từ hai sợi nấm khác nhau (“đực”
và “cái”) của hai khuẩn lạc (heterothallikus) có dạng hình cầu, màu trắng hoặc
vàng nhạt, đường kính 300 - 500 m, cấu tạo xốp. Những sợi của vỏ thể quả
không trong suốt mà đục, có vách ngăn và phân nhánh đôi, thành tế bào mỏng, mặt
ngoài hơi xù xì, phần ở giữa tế bào co lại, về đầu và cuối phình ra.
- Những sợi phụ của sợi vỏ thể quả có hai loại:
. Những sợi kéo dài, mảnh, độ lớn giảm dần về phía đầu và cuối, độ dài
khoảng 150 m, đường kính phía đầu là 2-3 m, phía giữa là 1,2-1,5m.
. Những sợi tạo thành những vòng xoắn dày hoặc thưa có thành nhẵn.
- Bào tử lớn: hình thành từ đỉnh của các sợi vỏ thể quả.
- Túi bào tử có dạng hình cầu, dễ vỡ, thành phía ngoài của nang bào tử nhẵn, mịn,
có 8 bào tử, đường kính của nang bào tử là 4,5 m. Bào tử túi không trong suốt, có

dạng thấu kính, khi đứng tập trung có màu vàng, kích thước bào tử 2-3  2-2,5m.



- Nơi cư trú: xuất hiện trên chuột cống.

×