Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

ĐIỆN NÃO ĐỒ CĂN BẢN doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.4 KB, 27 trang )

ĐIỆN NÃO ĐỒ CĂN BẢN


THÔNG SỐ KỸ THUẬT
Dòng điện xuất phát từ não đương nhiên là không đủ mạnh để dịch chuyển kim
ghi điện não đồ, nên có bộ khuyếch đại (EEG amplifiers). Mặt khác cũng cần có
bộ lọc (EEG filters) để lọc các giao động điện xuất phát từ tim, cơ và từ môi
trường bên ngoài. Bộ lọc chỉ cho phép những hoạt động điện có tần số trong một
khoảng giới hạn (frequency range) định sẵn là được ghi nhận vào máy điện não,
những hoạt động điện nào có tần số cao hơn hoặc thấp hơn khoảng giới hạn đó, sẽ
bị lọc ra.
Máy điện não đồ dùng bộ lọc tần số (pass-filter): mức dưới là 0,5 Hz, mức trên là
70 Hz. Như vậy những giao động có tần số cao hơn 70 Hz sẽ được ghi thành
đường thẳng. Có tài liệu nói rằng mức lọc dưới (low pass filter) nên là 0,16 Hz hay
thậm chí thấp hơn nữa.
Ở độ khuyếch đại 106 (trong khi điện tim ECG là 103), trên bản ghi điện não đồ
EEG chiều cao 1 mm sẽ tương ứng với 10 microV. Ta thấy các sóng ở vùng trán
thường có biên độ thấp, khoảng 20-30 microV, và ở vùng chẩm có biên độ thường
cao hơn, khoảng 30-60 microV.
Trên điện não đồ, khi đường biểu diễn đi lên, ta gọi là dương, và khi đi xuống thì
gọi là âm.
Các điện cực dùng trong điện não đồ thường là những đĩa kim loại, da đầu chỗ đặt
điện cực được bôi kem dẫn điện, trước đó người ta hay tẩy sạch da đầu bằng chất
bột tẩy da. Để làm sạch chất bẩn, người ta cũng có thể dùng cồn làm sạch chất mỡ
nhờn trên da đầu, sao cho điện trở giữa da đầu với điện cực không vượt quá một
ngưỡng nào đó, thường là không quá 5 Kilo-Ohms. Nếu làm sạch da đầu tốt, cũng
có thể không dùng kem dẫn điện trên điện cực ghi, mà dùng miếng xốp tẩm dung
dịch muối. Người ta cũng hay dùng loại mũ cao su có gắn sẵn điện cực, và đặt
trùm lên đầu người bệnh.
Phòng ghi điện não đồ: là phòng có lưới chắn bảo vệ tránh ảnh hưởng của điện
trường và từ trường bên ngoài. Tuy nhiên những máy móc hiện đại có thể giúp ta


không cần tới kiểu phòng Faraday như vậy. Bệnh nhân nằm hoặc ngồi thoải mái,
trong ánh sáng mờ. Dặn bệnh nhân trong khi đang ghi điện não cần nằm ngồi yên,
không được cử động.
Trước khi ghi điện não đồ, cần thực hiện việc đo chuẩn độ (calibration) để đảm
bảo là máy sẽ cho đường ghi chính xác. Sóng ghi chuẩn độ cung cấp cho ta giá trị
so sánh biên độ các sóng điện não. Người ta dùng một xung điện hình chữ nhật,
hình tam giác, hay hình sin, có biên độ biết trước, đưa vào đầu vào của bộ phóng
đại của máy ghi điện não đồ. Như vậy tín hiệu chuẩn độ sẽ đi vào tất cả các đường
ghi EEG, tạo ra một sóng chuẩn độ trên bản ghi. Căn cứ vào sóng chuẩn độ này,
người ta đánh giá các sóng điện não về mặt biên độ.

Hình chuẩn độ: đỉnh nhọn chứng tỏ máy đủ độ nhậy để ghi được những sóng có
tần số cao và biên độ nhỏ; đoạn dốc xuống phải bằng khoảng 2/3 tổng chiều cao
Điện não đồ kỹ thuật số (Digital EEG): Ngày nay, các máy ghi điện não đồ số hóa
đã thay thế các máy ghi cổ điển theo kỹ thuật tương tự (analog). Các máy số hóa
này có thể giúp ta: khi đã kết thúc cuộc ghi điện não đồ rồi, với những tính hiệu số
hóa được lưu trên máy tính, ta có thể bố trí lại các kiểu kết nối đạo trình khác
nhau, và vẫn có được các bản ghi mới, mà không cần thực sự kêu bệnh nhân tới để
ghi điện não đồ này. Nó giúp ta nhanh chóng (bằng những cách mắc đạo trình
khác nhau) khảo sát được nhiều bản ghi điện não hơn, và làm bột lộ rõ hơn những
sóng và ổ sóng bất thường. Điện não đồ số hoá giúp lưu trữ được nhiều dữ liệu
hơn trong khi chiếm ít không gian lưu trữ, tiết kiệm chi phí giấy nếu có những bản
ghi kéo dài, và giúp ta trao đổi dễ dàng các bản ghi với các chuyên gia, nếu máy
ghi được nối mạng. Nó còn có thể tự động phát hiện các loạt sóng bất thường Máy
tính sẽ tự động đặt các chuẩn độ, chỉ số lọc (filter), và tốc độ chạy giấy, do vậy
tránh được các sơ suất do kỹ thuật viên. Với máy ghi điện não đồ kỹ thuật số, ta có
thể không còn lo chuyện canh chỉnh các bút ghi trên giấy. Bất tiện lớn nhất của
điện não kỹ thuật số là không trao đổi các bản ghi giữa 2 hệ thống máy do 2 nhà
chế tạo khác nhau cung cấp.
CÁCH MẮC ĐIỆN CỰC VÀ CÁC KIỂU ĐẠO TRÌNH


Hệ thống đặt điện cực ghi 10-20 quốc tế (international 10-20 system) để ghi điện
não. Có 3 đường nối chính: 1- nốì 2 ống tai ngoài (thực ra là ngay trước tai -
preauricular points), 2- nối gốc mũi với ụ chẩm ngoài, cả 2 đường nối này đều đi
qua đỉnh sọ, và 3- đường chu vi của sọ kết nối 2 điểm tận cùng nhất trên sọ. Ba
đường này được chia theo tỷ lệ 10-20-20-20-20-10%, theo cả trục trực giao (2
đường vuông góc), lẫn theo vòng tròn chu vi, theo kiểu chia đôi các điểm nối. Khi
nghiên cứu giấc ngủ, có thể người ta không dùng hết các vị trí ghi này, và chỉ đặt
điện cực ở một số vị trí: trên hình vẽ là những chỗ có vòng tròn đen.
Thông thường chúng ta sẽ dùng một bộ 21 điện cực gắn trên da đầu theo hệ thống
đặt điện cực 10-20 của quốc tế (the 10-20 International System).
Ta lấy các điểm mốc sau đây:
- Điểm gốc mũi (nasion), nằm giữa 2 chân lông mày (glabella).
- Điểm chẩm (inion). - Ống tai ngoài 2 bên.
Với các k ý hiệu sau đây:
- F là trán (Frontal).
- O là chẩm (Occipital).
- C là trung tâm (Central). - P là đỉnh (Parietal).
Đánh số lẻ nếu là bên trái, và số chẵn nếu là bên phải.
Nối 2 điểm gốc mũi và chẩm với nhau, ta có đường dọc giữa. Ta chia chiều dài
của đường này theo tỷ lệ %: điểm cách gốc mũi 10% là F0 (hay Fpz), cách tiếp
theo 20% nữa là Fz, tiếp 20% nữa là Cz. Cz chính là điểm chính giữa đỉnh đầu,
tiếp sau nó 20% là Pz. Cách điểm chẩm 10% (tức cách Pz 20%) là O0 (hay còn gọi
Oz).
Nối 2 ống tai ngoài với nhau, ta được một đường cắt ngang đường dọc giữa ở
điểm Cz. Các ống tai ngoài 10% bên trái là T3, bên phải là T4. Cách thêm 20%
(chính giữa T3 hay T4 với Cz) là C3 (bên trái) và C4 (bên phải).
Vẽ đường đồng tâm với đường chu vi của đầu, nối các điểm mốc phía ngoài nhất:
Fpz-T3-Oz-T4. Trên đường (gần như là đường tròn) này, cũng chia theo tỷ lệ %
như vậy. Cách 10% phía trước có Fp1 bên trái và Fp2 bên phải, sau đó 20% là F7

và F8. Cách Oz 10% từ phía sau là O1 bên trái và O2 bên phải. Cách tiếp 20% (là
chính giữa O1 với T3) là T5 bên trái và (là chính giữa O2 với T4) T6 bên phải.
Vẽ tiếp đường vòng cung phía trong, tiếp nối Fp1-C3-O1 bên trái, và Fp2-C4-O2
bên phải. Ở khoảng cách 20% (chính giữa các mốc) là F3 phía trước bên trái, F4
phía trước bên phải, P3 phía sau bên trái, P4 phía sau bên phải.
Vậy ta có 1 mạng ghi điện não đồ. Về phương diện điện học, người ta coi tai và
gốc mũi là 0, là điện cực trung hòa. Như vậy kiểu kết nối 1 điện cực trên mạng ghi
điện não đồ với tai, ta có kiểu ghi đơn cực. Còn cách nối 2 điện cực trên mạng với
nhau mà không nối với tai, thì gọi là cách ghi lưỡng cực. (xem thêm về điện cực
đối chiếu).
Vị trí Oz và Fpz ít được dùng để đặt điện cực ghi trong điện não đồ, nhưng lại hay
được dùng khi ghi điện thế gợi (ví dụ VEP). Theo sơ đồ (mạng) điện cực như trên,
ta có 19 vị trí đặt điện cực để ghi điện não đồ. Với những nối điện cực khác nhau,
ta sẽ có nhiều kênh ghi. Máy điện não đồ cần có tối thiểu 24 kênh. Tại một số
phòng ghi điện não trên thế giới, người ta còn chia tách ra tỷ mỷ hơn để đặt được
nhiều điện cực ghi EEG hơn, có thể có số vị trí đặt điện cực ghi trên da đầu là 32,
64, thậm chí 256).
Điện cực đối chiếu: Cũng như điện tim và điện cơ, để ghi được 1 đường ghi trên
màn hình, điện cực ghi cần có 1 cặp gồm điện cực hoạt động và điện cực đối
chiếu. Điện cực hoạt động (active electrode) là điện cực đặt trên da đầu theo các vị
trí như đã mộ tả trên mạng ghi EEG. Như vậy có nhiều điện cực hoạt động. Còn
điện cực đối chiếu (reference electrode) thường chỉ có 1, và được dùng chung cho
tất cả các điện cực hoạt động, mỗi một điện cực hoạt động (active) sẽ được đối
chiếu về mặt điện tích so với điện cực đối chiếu. Thông thường nó được đặt ở một
nơi coi như không có hoạt động điện, đó thường là dái tai bên trái hoặc bên phải.
Tuy nhiên có thể có chênh lệch về điện giữa 2 bán cần khi đặt điện cực đối chiếu ở
1 bên như vậy, và bản ghi điện não đồ có thể mất cân xứng 2 bên. Vì vậy người ta
có thể kết nối tất cả các điện cực hoạt động lại với nhau, kết nối ấy tạo nên một
điện cực trung bình hóa của tất cả hoạt động điện của các điện cực, và coi đó là
điện cực đối chiếu. Các này giúp tránh hiện tượng mất cân đối giữa 2 bên trên bản

ghi EEG, nhưng lại không phản ánh đúng biên độ điện thế thực sự. Như đã nêu ở
trên, cách ghi đơn cực là nối mỗi một điện cực hoạt động trên mạng với điện cực
đối chiếu, còn cách ghi lưỡng cực là nối 2 điện cực hoạt động với nhau.
Bổ xung mới:
Hệ thống đặt điện cực 10-20 quốc tế, được đề nghị vào năm 1958, hiện được dùng
rộng rãi, và được coi là phương pháp chuẩn (standard method) để ghi điện não trên
da đầu (scalp EEG). Gần đây Hội điện não Hoa Kỳ (The American EEG Society)
tán thành một biến đổi nhỏ trong danh pháp theo số và chữ cái nguyên thủy. Trong
đó, trước đây là T3, T4, T5 and T6 thỉ nay chuyển thành T7, T8, P7 và P8. Cải tiến
này nhằm làm tăng phạm vi đặt điện cực đã chuẩn hóa vào trong vùng dưới thái
dương - subtemporal region (ví dụ: F9, T9, P9, F10, T10, P10) và chỉ rõ tên của vị
trí điện cực nằm ở đường vòng trung gian, giữa các đường vòng chuẩn (ví dụ:
AF7, AF3, FT9, FT7, FC5, FC3, FC1, TP9, TP7, CP5, CP3, CP1, PO7, PO3 và
v.v.). Những điện cực đặt thêm và gần sát nhau hơn, cách đặt thêm điện cực ở
chính giữa các điện cực tiêu chuẩn của hệ thống đặt điện cực 10-20, tất cả những
cách đặt thêm điện cực như vậy thường sẽ giúp cho định khu các bất thường tốt
hơn (ví dụ định khu ổ phát sóng dạng động kinh - epileptiform discharges ở bệnh
nhân bị động kinh cục bộ - partial seizures). Cũng có một vài kiểu điện cực được
chế để ghi hoạt động điện ở thùy thái dương. Các điện cực xương bướm
(sphenoidal electrodes) cũng đặc biệt hữu ích để phát hiện các phóng điện bất
thường ở thái dương giữa nền não (mediobasal temporal discharges), chúng được
găm vào phía dưới khuyết xương hàm dưới (mandibular notch) – khoảng 2.5 tới 3
cm phía trước của gờ bình tai (tragus), và hướng theo hướng lên trên và ra sau về
phía lỗ bầu dục (foramen ovale). Các điện cực xương bướm này hiện nay tỏ ra ưu
việt hơn so với các điện cực mũi họng (nasopharyngeal electrodes), và có thể dùng
cách dẫn đường bằng huỳnh quang (fluoroscopic guidance) để đảm bảo là chúng
đã tiến sát. Điện cực gò má trước (anterior "cheek" electrodes) đặt trên xương hàm
trên và khoảng 2 cm trước chổ găm điện cực xương bướm, và điện cực thái dương
trước (anterior temporal electrodes) đặt ở 1 cm phía trên của điểm nối 1/3 của
khoảng cách từ ống tai ngoài (external auditory meatus) cho tới đuôi mắt (external

canthus) cũng giúp ích cho việc tìm kiếm các phóng điện bất thường từ thùy thái
dương và hiệu quả có thể so sánh được với các điện cực xương bướm.
Cách đặt điện cực thông thường có thể không phát hiện được sóng dạng động kinh
ở khoảng 10% bệnh nhân động kinh thùy trán, có thể tăng khả năng phát hiện trên
những bệnh nhân này bằng những điện cực đặt ở khoảng cách gần sát nhau hơn,
kiểu như F1, C1, F2, C2 (đặt ở giữa khoảng cách của Fz/F3, Cz/C3, Fz/F4 và
Cz/C4), hoặc điện cực trên ổ mắt (supraorbital electrodes) ở 2.5 cm phía ngoài
điểm gốc mũi (inion) và trên gờ xương trên ổ mắt (supraorbital ridge).


Cách đặt điện cực theo kiểu 21 kênh



Cách đặt điện cực theo kiểu 36 kênh


Cách đặt điện cực theo kiểu 74 kênh
PHÂN BIỆT CÁC SÓNG
Việc đọc một bản ghi điện não đồ (EEG - electroencephalography) bao gồm việc
diễn giải được các kiểu sóng, quan trọng nhất là diễn giải các sóng dựa trên tần số
của sóng, thứ nhì là dựa vào hình dạng của 1 sóng hoặc phức bộ của vài sóng.
Khó khăn trong đọc điện não đồ là ở chỗ phân biệt cho được các nhiễu (artifact),
cũng như phải có khả năng nhận biết được những biến thể bình thường, đừng
nhầm với các bất thường bệnh l ý .
XÁC ĐỊNH SÓNG DỰA VÀO TẦN SỐ
Tổng quát: Năm 1924, nhà tâm thần học người Áo tên là Hans Berger là người đầu
tiên ghi được EEG. Ông nhận thấy trên bản ghi EEG bình thường, nhịp của các
sóng điện não gồm có vài loại. Nhịp sóng dễ thấy nhất được Berger đặt tên cho là
nhịp hay sóng alpha (alpha wave, alpha rhythm). Đôi khi người ta cũng gọi là nhịp

Berger (Berger rhythm) nhằm vinh danh ông. Các sóng này thường có biên độ
khoảng 50 microvolts (mặc dù cũng có thể giao động từ 5 tới 100 microvolts) và
xuất hiện 8-13 lần trong 1 giây (8-13 Hertz). Sóng này thấy rõ nhất ở phần phía
sau của não người, vốn là nơi xử l ý các tín hiệu thị giác, tức là vùng chẩm
(occipital region). Vì vậy, đôi khi người ta còn gọi nhịp alpha là nhịp trội ở phía
sau (the posterior-dominant rhythm). Sóng alpha trở nên rõ nhất khi ta nhắm mắt
lại. Nó bị triệt tiêu khi ta mở mắt. Như vậy sóng alpha là dấu hiệu cho biết não
đang ở tình trạng không chú ý (inattentive brain), và đang chờ để được kích thích.
Thực tế là có một vài tác giả đã gọi nó là “nhịp chờ đợt” ("waiting rhythm"). Nói
một cách hình ảnh, ta có thể hình dung nó như là một người đang sốt ruột chờ đợi,
với biểu hiện nhịp 2 chân hay gõ ngón tay trên mặt bàn, chờ đợi được vùng đứng
dậy làm một việc gì đó. Khi mà không còn phải chờ đợi nữa (bằng cách mở mắt
hay tính nhẩm trong đầu), thì sóng alpha cũng biến mất.
Ở các phần vùng trán của não (frontal region), có một sóng nhanh hơn, gọi là sóng
beta (beta wave). Nó xuất hiện 13-35 lần trong 1 giây, nhưng có biên độ dưới 30
microvolts. Còn một loại sóng khác nữa, gọi là sóng theta (theta wave), thì có tần
số 4-8 Hz, và thường thấy khi đang trong tình trạng buồn ngủ và trong các giai
đoạn ngủ nông (light stages of sleep). Dạng sóng thứ tư là sóng delta (delta wave)
thì hiếm khi ghi được trên người bình thường đang thức tỉnh, nhưng bình thường
vẫn thấy khi ngủ sâu (deep sleep) hoặc vào lúc tỉnh giấc của trẻ nhỏ. Sóng delta là
sóng có biên độ cao nhất trong tất cả các sóng điện não. Nói chung nếu nó xuất
hiện trên một người lớn (trừ khi đang ngủ) thì chứng tỏ não có vấn đề nào đó: ví
dụ u não, động kinh, tăng áp lực nột sọ, khiếm khuyết về trí tuệ, hay hôn mê. Khi
đã xuất hiện, thì nó có khuynh hướng thay thế cho nhịp alpha. Cả sóng beta lẫn
sóng delta đều không bị ảnh hưởng bởi mở mắt hay nhắm mắt.
Chi tiết: Tần số của sóng tức là số lượng của sóng đó trong một đơn vị thời gian, ở
đây là trong 1 giây. Tần số của các sóng điện não ở vào khoảng từ 0,5/giây cho tới
vài trăm/giây. Tuy nhiên các máy ghi EEG thường chỉ ghi được các sóng có tần số
dưới 26/giây.
Các sóng được phân biệt bởi tần số, và được chia thành các loại sau:


Alpha
Beta
Theta
delta
Alpha là những sóng có tần số trong khoảng từ 7,5 tới 13 sóng/giây (Hz). Thường
thấy rõ alpha nhất là ở các vùng phía sau của đầu, cả 2 bên, nhưng thường bên bán
cầu ưu thế thì có biên độ (chiều cao) cao hơn. Alpha thường rõ lên khi nhắm mắt
và thư giãn, và biến đi khi mở mắt hoặc thức tỉnh cảnh giác bởi bất cứ cơ chế nào
(suy nghĩ, đếm). Đây là nhịp sóng chủ yếu thấy được trên người lớn bình thường
và thư giãn – sóng hiện diện trong hầu hết các thời kỳ của cuộc đời, nhất là khi
trên 30 tuổi, khi ấy sóng này chiếm ưu thế trên đường ghi EEG lúc nghỉ ngơi.
Beta là những sóng “nhanh”. Tần số của nó là từ 14 Hz trở lên. Sóng beta thường
thấy ở cả 2 bán cầu, phân bố đối xứng hai bên, và rõ nhất là ở vùng trán. Sóng sẽ
nổi bật lên khi dùng thuốc an thần gây ngủ, nhất là khi dùng benzodiazepines và
barbiturates. Sóng có thể mất hoặc suy giảm ở vùng có tổn thương vỏ não. Nhịp
beta thường được coi là nhịp bình thường. Nó là nhịp chiếm ưu thế ở những bệnh
nhân đang thức tỉnh cảnh giác hăọc lo sợ, hoặc khi mở mắt.
Theta là những sóng có tần số từ 3,5 tời 7,5 Hz, và được xếp vào loại sóng
“chậm”. Nó được coi là bất thường nếu thấy ở người lớn đang tỉnh táo, nhưng lại
coi là hoàn toàn bình thường ở trẻ dưới 13 tuổi và đang ngủ. Cũng có thể thấy
theta tạo thành 1 vùng bất thường cục bộ trên những nơi có tổn thương dưới vỏ
cục bộ; Có thể thấy sóng theta lan tỏa trong các bệnh l ý não lan tỏa hay bệnh não
do chuyển hóa, hoặc bệnh l ý đường giữa nằm sâu (deep midline disorders) hoặc
trong một số trường hợp não nước (hydrocephalus).
Delta là những sóng có nhịp từ 3 Hz trở xuống. Nó có xu hướng là những sóng có
biên độ cao nhất và là những sóng chậm nhất. Nó hoàn toàn được coi là bình
thường và là sóng ưu thế ở trẻ sơ sinh dưới 1 tuổi và ở giai đoạn 3 hoặc 4 (stages 3
and 4) của giấc ngủ. Nó có thể xuất hiện cục bộ khi có tổn thương dưới vỏ và phân
bố rộng khắp khi có tổn thương lan tràn, trong bệnh não do chuyển hóa (metabolic

encephalopathy), bệnh não nước (hydrocephalus) hay tổn thương đường giữa
trong sâu (deep midline lesions). Nó thường trội nhất ở vùng trán ở người lớn (ví
dụ FIRDA - Frontal Intermittent Rhythmic Delta – sóng delta có nhịp cách hồi ở
vùng trán) và phân bố trội ở các vùng phía sau trên trẻ em (ví dụ OIRDA -
Occipital Intermittent Rhythmic Delta - sóng delta có nhịp cách hồi ở vùng chẩm).
XÁC ĐỊNH SÓNG DỰA VÀO HÌNH DẠNG
Có một số sóng có hình dạng đặc trưng, bất kể là tần số của chúng là như thế nào,
và do vậy có thể nhận biết được nhờ vào hình dạng của chúng.Ngoài ra, có thể có
1 cặp hoặc 1 nhóm các sóng có hình dạng đặc trưng. Một ví dụ về những sóng có
hình dạng đặc trưng là các gai (spikes) và các sóng nhọn (sharp waves) – các sóng
này có đường dốc lên gấp tới đỉnh rồi dốc xuống tương đối đột ngột, như vậy nền
(cạnh đáy) của sóng tương đối nhỏ so với biên độ (chiều cao) của sóng.
Có một số sóng có thể nhận biết được nhờ vào hình dạng, bao gồm 2 loại chính
sau đây:
1. Những sóng có hình dạng đặc biệt
2. Những phức bộ sóng có hình dạng đặc biệt
Những sóng có thể nhận biết được nhờ vào hình dạng bao gồm: các gai (spikes)
hoặc sóng chậm (slow waves). Các gai là những só có nền (cạnh đáy) hẹp trong
khi có biên độ (amplitude - chiều cao) tương đối cao, tạo cho sóng có hình dạng
cao và hẹp với 1 đỉnh nhọn. Sóng nhọn là sóng có đáy hơi rộng hơn một chút so
với các gai, nhưng nghĩa thì cũng giống hệt – nó là chỉ điểm cho thấy có hoạt
động điện gây cơn kịch phát (seizure activity) và nó gợi có phóng điện hay hoạt
động điện đồng bộ đa ổ (multiple synchronous firing or activity) của các đuôi gai
của tế bào thần kinh (dendrites). Sóng nhọn được coi là biểu hiện của một ổ phóng
điện ở cách vị trí ghi một khoảng nào đó, còn gai được coi là do ổ phóng điện nằm
rất gần với vị trí ghi.
CÁC DẠNG SÓNG PHỨC HỢP (complex wave pattern):
Các dạng sóng có tính đặc hiệu do hình dạng của chúng bao gồm:
Gai và sóng (spike and wave): Dạng gai và sóng thấy có ở mọi lứa tuổi, nhưng
thường nhất là ở trẻ em.


Nó bao gồm 1 gai (có thể là nguồn phát nằm ở vỏ não) và một sóng chậm (thường
là delta) có biên độ cao, sóng chậm này được coi là có nguồn phát ở các cấu trúc
của đồi thị, phức bộ này lặp đi lặp lại. Chúng có thể xuất hiện đồng bộ (đồng thì –
synchronously) và cân đối hai bên trong các bệnh động kinh toàn thể hóa
(generalized epilepsies) hoặc khu trú trong bệnh động kinh cục bộ. Trong những
dạng gai và sóng toàn thể hóa, cơn vắng thực sự (true absense) hay là cơn nhỏ
(petit mal) đặc trưng bằng gai-sóng 3 Hz, trong khi gai chậm – sóng (slow spike-
wave) thường thấy hơn khi não bị tổn thương và trong hội chứng Lennox-Gastaut.
Những gai và sóng nhanh hơn 3 Hz sẽ được trình bày trong phần dưới đây, phần
về đa gai và sóng (polyspike-wave).
Đa gai và sóng (polyspike and wave):

là một dạng của gai sóng, trong đó mỗi một sóng chậm đi kèm với 2 hoặc nhiều
gai. Dạng thường gặp là dạng gai và sóng có tần số nhanh hơn 3 Hz – thường là
3.5 tới 4.5 Hz. Dạng này thường có đi kèm với giật cơ (myoclonus) hoặc các cơn
kịch phát giật cơ (myoclonic seizures). Đừng nhầm lẫn nó với gai sóng 6 Hz, vốn
được coi là gai sóng không thực (phantom spike and wave) – là một biến thể của
bình thường.
Các phóng điện dạng động kinh lệch bên theo chu kỳ (PLEDS - Periodic
Lateralized Epileptiform Discharges): là một dạng phóng điện đi kèm với tổn
thương hay chấn thương não cấp tính.

Người ta thấy dạng sóng này rõ nhất khi tổn thương não cấp tính có kết hợp thêm
với rối loạn chuyển hóa. Nó khởi đầu bằng những sóng nhọn xuất hiện một cách
đều đặn, trên một nền tương đối bằng phẳng, ở 1 vùng hay 1 bên của não. Sau đó
nhịp của nó chậm dần lại và xuất hiện các sóng chậm theo chu kỳ, và hoạt động
điện cơ sở nằm giữa các phóng điện dạng động kinh này cũng khá dần lên. Cuối
cùng các sóng dạng động kinh kiểu này cũng biến mất hoàn toàn. Kiểu PLEDS
thường thấy khi có triệu chứng định khu nặng, hoặc là trên một bệnh nặng đang có

xu hướng khá dần lên.
Các sóng 3 pha (triphasic waves): Sóng 3 pha là 3 sóng tạo viền cho mầu trắng
trên hình minh họa. Chúng thường xuất hiện khi có các hoạt động điện giả cơn
kịch phát (pseudoparoxysmal activity).

Các sóng này thấy có trong bệnh não do gan (hepatic encephalopathy), nhưng
cũng có thể thấy trong các dạng bệnh não do chuyển hóa khác.
Bùng nổ và ức chế (burst supression):

Bùng nổ và ức chế là một dạng bùng nổ các sóng chậm và hỗn hợp (mixed waves)
thường với biên độ cao, và xen kẽ luân phiên bằng đường đẳng điện. Thường là có
ở cả hai bên, nhưng không phải lúc nào cũng cân đối 2 bên. Loại sóng này thường
thấy sau một tổn thương não nặng, như sau đột quỵ thiếu máu não (postischemia),
hay sau trạng thái thiếu oxy (postanoxia). Cũng có thể thấy tạm thời (thoáng qua)
trong gây mê sâu, ở trạng thái trước khi EEG trở nên đẳng điện hoàn toàn.
NHIỄU (ARTIFACTS)
Nhiễu là những sóng hoặc những nhóm các sóng do lỗi kỹ thuật hoặc do các lỗi
khác gây ra, và không phải do hoạt động điện của não gây ra. Nhiễu là các rối loạn
do khiếm khuyết kỹ thuật gây ra, thường đó là những lỗi có tính tạm thời. Bao
gồm do di động các điện cực làm cho mất tiếp xúc, các hoạt động điện của cơ che
khuất điện não đồ, do cử động của đầu, chầy xước da đầu, ra mồ hôi, v.v…

Nếu ta dùng độ phóng đại lớn, thì tất cả các biến loạn kể trên đều được phóng đại
lên, bao gồm các nhiễu của mạch và điện tâm đồ, của điện cực và các cử động,
nhiễu 60 Hz và nhiễu do mồ hôi, là loại nhiễu biểu hiện có dung dịch muối nằm
giữa các điện cực làm cho nó bị đoản mạch.
Nhiễu do điện tâm đồ và do mạch (EKG and pulse artifacts): Cả 2 loại nhiễu này
đều có thể nhận biết được nhờ vào tính chất có chu kỳ của chúng.

Nhiễu điện tâm đồ cho thấy rõ phức bộ QRS theo chu kỳ, vì điện tâm đồ thì có tín

hiệu điện lớn hơn nhiều so với điện não đồ. Nhiễu do mạch là do mạch đập ở phía
dưới của điện cực làm cho nó chuyển động theo chu kỳ. Cả 2 loại nhiễu nàu đều
dễ nhận diện, nhưng cũng có thể gây khó khăn cho đọc điện não.
Nhiễu do chuyển động của điện cực và các chuyển động khác: nhiễu do chuyển
động của bệnh nhân thì có đường biểu thị đột ngột, và trong hầu hết trường hợp nó
dốc ngược đột ngột. So với các sóng EEG chuẩn thì các nhiễu đó có biên độ cao
và kéo dài về thời gian. Một nhiễu kiểu “POP” là do chuyển dịch điện cực rất ngắn
(nhanh), người mới vào nghề dễ nhầm lẫn nó với một gai (spike), tuy nhiên gai
kiểu này chỉ thấy ở 2 kênh cạnh nhau và không thấy ở kênh thứ ba như những gai
động kinh.


Nhiễu do dụng cụ truyền tĩnh mạch và nhiễu 60 Hz:

những nhiễu này thường được thấy trong khi ghi điện não ở trong phòng săn sóc
đặc biệt (ICU) và cả 2 đều là những giao thoa về điện. Trên hình vẽ, nhiễu do
dụng cụ truyền là nhiễu có mầu đỏ; nó có tính chất chu kỳ, có biên độ thấp và dễ
dàng nhận biết. Nhiễu sáu mươi Hz thấy có ở những nơi điện cục tiếp xúc kém,
nối đất không tốt, và có một thiết bị điện chuyên dùng đặt ở gần đó. Nó gây nên
những gai (spikes) có tần số 60 chu kỳ giây – tạo thành vết mực in trên giấy chạy
với tốc độ thông thường.
CÁC BIẾN THỂ BÌNH THƯỜNG
Có một só sóng hoặc hình dạng sóng ít khi thấy xuất hiện, nhưng chúng không có
nghĩa bất thường hay bệnh l ý. Nhưng chúng có thể làm cho ta diễn giải nhầm lẫn
về bản ghi điện não đồ. Trong các biến thể bình thường này, thường gặp nhất là
nhịp mu (mu rhythm), biến thể tâm thần vận động (psychomotor variant), các sóng
lambda, POSTS, các thoi (spindles), sóng của đỉnh sọ (vertex waves) và phức bộ
K (K Complexes).
Lambda và POSTS: Lambda và POSTS tương tự nhau về hình dạng và có hình
tam giác.


Chúng xuất hiện ở khu vực phía sau và cân xứng hai bên. POSTS là biểu hiện của
“sóng dương thoáng qua ở chẩm của giấc ngủ (positive occipital transients of
sleep) và xuất hiện trong giấc ngủ giai đoạn 2. Lambda xuất hiện ở bệnh nhân tỉnh
táo khi nhìn trừng trừng vào một bề mặt trắng. Cả hai loại này đều là dạng sóng
bình thường, và xuất hiện đơn độc, hay kéo dài, hay thành một chuỗi ngắn.
Phức bộ K:

phức bộ K (K Complexes) xuất hiện khi đang ngủ mà bị đánh thức – ta thấy nó khi
có kích thích âm thanh hay các kích thích khác khi bệnh nhân đang ngủ. Tiếp sau
phức bộ K thường có đáp ứng thức tỉnh – cụ thể là một chuỗi các sóng theta có
biên độ cao. Tiếp sau phức bộ K, điện não đồ lại cho thấy biểu hiện giấc ngủ, hoặc
trạng thái thức tỉnh.
Sóng V (V Waves): Sóng V xuất hiện ở vùng cạnh dọc giữa (parasaggital areas)
của 2 bán cầu và có dạng một sóng nhọn

(sharp waves) hoặc thậm chí là dạng gai (spikes), ở khu vực lưỡng đỉnh (biparietal
regions), tức là đỉnh đầu (vertex), với pha ngược đảo nhau tại đường giữa, ở những
đạo trình bắc ngang (tranverse montages) hoặc ở đỉnh sọ trên các đạo trình trước -
sau (front-to-back). Các sóng này thấy có trong giấc ngủ giai đoạn 2 (stage 2
sleep), cùng với các thoi (spindles), phức bộ K, POSTS, v.v
Hoạt động điện MU (MU activity):

hoạt động điện Mu là dạng nhịp trong đó các sóng có hình nhọn giống như hình
rào chắn (wicket fence) với đỉnh nhọn và chân cong tròn. Giữa 2 kênh, nhịp Mu có
thể có pha nghịch đảo nhau. Tần số nói chung vào khoảng một nửa của hoạt động
điện nhanh hiện có.

×