Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TỔNG QUAN về THÀNH PHẦN hóa học và tác DỤNG SINH học của cây lược VÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.14 KB, 30 trang )

TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ TÁC DỤNG SINH
HỌC CỦA CÂY LƯỢC VÀNG
1.1. Thực vật học
1.1.1. Vài nét về chi Callisia Loefling
Callisia Loefling là một chi nhỏ thuộc họ Commelinaceae (Thài lài). Chi này
có khoảng 20 loài tập trung ở châu Mỹ với trung tâm phân bố là Mexico. Những
loài thuộc chi có dạng thân thảo, sống nhiều năm hiếm khi là cây một năm. Rễ
mảnh, vài loài có dạng củ. Thân trườn hoặc bò sát đất. Lá lưỡng phân hoặc xếp
xoắn ở ngọn, không cuống. Cụm hoa dạng xim, như tán, xếp xít, không cuống,
được bao bởi lá bắc; phát hoa ở ngọn hoặc nách lá, thường gồm nhiều chùy hoặc
gié, đơn vị được tạo thành bởi các cặp xim. Lá bắc khó nhận, nhỏ hơn 1cm; không
có mo; có các lá dạng lá bắc tồn tại. Hoa lưỡng tính (cả lưỡng tính và có hoa đực ở
C. repens), đối xứng tỏa tròn; đài rời, gần bằng nhau; cánh hoa rời, trắng hoặc
hồng (hiếm khi có màu xanh), dài bằng nhau, có dạng vuốt; nhị (1-3) hoặc 6, hữu
thụ, bằng nhau; chỉ nhị trơn hoặc có rãnh; bầu 2-3 ô, lá noãn (1) 2 mỗi ô. Quả
nang, 2-3 mảnh. Hạt (1) 2 hoặc 3 mỗi mảnh, có dạng hình trụ ngắn, rốn hạt dạng
điểm [34].
Đa số các loài thuộc chi Callisia được trồng làm cảnh như Callisia repens
(Jacquin) Linnaeus, Callisia elegans Alexander ex H. E. Moore Ở Trung Quốc
chỉ có 1 loài là Callisia repens (Jacquin) Linnaeus được nhập trồng làm cảnh ở
Hồng Kông [33]. Ở Việt Nam, chưa phát hiện thấy các loài thuộc chi này phân bố
trong tự nhiên. Trong vài năm trở lại đây loài Callisia fragrans (Lindl.) Woods.
được nhập trồng vào nước ta với tên gọi là lan vòi hay lược vàng.
1.1.2. Loài Callisia fragrans (Lindl.) Woods.
Đặc điểm thực vật: Callisia fragrans (Lindl.) Woods. là cây thảo nhiều năm,
thân mọng nước có thể dài tới 100cm hoặc hơn, phân nhánh với thân bò ở gốc. Lá
mọc tập trung ở ngọn thân; rải rác ở phía dưới, dạng mác thuôn, dài 18-25cm, rộng
3,5-4cm, cuống lá có gân rõ, ôm thân, có lông mịn và thường có sọc tía. Hoa mọc
thành cụm 2-3 hoa dạng xim trên phát hoa hình chuỳ dài tới 60cm, mỗi cặp xim
được ôm bởi các lá bắc dạng răng cưa (3 răng) dài 10-15mm; lá đài trong suốt,
màu trắng, khô xác, dạng mác, dài 5-6mm; cánh hoa bóng, trong suốt, màu trắng,


mỏng, có dạng trứng hẹp; nhị 6. Cây ra hoa vào mùa xuân [34].
3
Cây ưa những nơi đất màu mỡ, ẩm, thoát nước tốt và che bóng một phần.
Nếu trồng ở nơi nhiều ánh sáng, lá thường chuyển sang màu tía và thân mọc thấp.
Cây được nhân trồng bằng hạt và cành giâm.
Callisia fragrans được trồng làm cảnh ở nhiều nước bởi có thân bò khá đẹp
và dễ trồng. Người ta thường trồng Callisia fragrans trong các chậu treo để thân
buông rủ tạo dáng hoặc phủ kín mặt đất tạo thảm xanh trong vườn nhà. Do khả
năng phát triển nhanh, ở Florida - Mỹ, loài cây này được xếp vào danh sách “Các
loài thực vật nhập trồng xâm lấn” [45].
1.2. Thành phần hóa học của chi Callisia Loefling
Trong các loài Callisia có một số loài như C. elegans, C. fragrans, C.
insignis, C. macdougallii, C. repens, C. soconusensis đã được Maria A và cs. khảo
sát sơ bộ bằng sắc ký giấy và sắc ký lớp mỏng cho thấy đều có chứa flavon C-
glycosid, một nhóm chất thường gặp trong các cây thuộc họ Commelinaceae [67].
Lá của các loài C. elegans, C. insignis, C. macdougallii được xác định có cyanidin
3,7,3’-triglucosid acyl hóa [46].
Từ năm 2007, các tác giả Nga và Việt Nam bắt đầu nghiên cứu sâu về thành
phần hóa học loài C. fragrans và cho thấy loài cây này chứa nhiều các nhóm chất
khác nhau như chất béo, carotenoid, terpenoid, acid hữu cơ, hợp chất phenol,
flavonoid, dẫn chất anthocyan, acid amin, đường tự do và polysaccharid [25], [77],
[78], [104]. Dưới đây là tổng hợp các kết quả nghiên cứu hóa học về loài cây này.
Các hợp chất phenol
Bằng phương pháp sắc ký cột kết hợp sắc ký lớp mỏng điều chế, Olennikov
D.N. và cs đã phân lập được từ dịch ép thân bồ lược vàng 7 hợp chất phenol là
aloe-emodin, umbelliferon, scopoletin, quercetin, acid gallic, acid caffeic và acid
chicoric [77].

Aloe emodin C
15

H
10
O
5
Umbelliferon C
9
H
6
O
3
4
Scopoletin C
10
H
8
O
4
Quercetin C
15
H
10
O
7


Acid gallic C
7
H
6
O

5
Acid caffeic C
9
H
8
O
4
Acid chicoric C
22
H
18
O
12
Khi phân tích dịch ép này bằng HPLC, đối chiếu với các chất chuẩn đã biết,
đã xác định ngoài 7 chất nói trên còn có kaempferol, acid ferulic [78].
Kết quả định lượng cho thấy hàm lượng các nhóm hợp chất phenol chính
trong dịch ép này (so với cắn khô kiệt) là: coumarin (umbelliferon, scopoletin)
0,14%, anthraquinon (aloe-emodin) 0,008%, acid phenolic (acid gallic, caffeic và
chicoric) 0,37%, flavonoid (kaempferol, quercetin) 0,05% [78].
Năm 2009, Châu Văn Minh và cs. đã công bố phân lập được 1 hợp chất
flavon C-glycosid là isoorientin từ dịch chiết methanol toàn cây lược vàng [14].
5
Isoorientin
Saponin
Ginsenosid Rg1 đã được Phan Văn Kiệm và cs. phân lập từ cây lược vàng
trồng tại Việt Nam [13].
Ginsenosid Rg1
Các acid hữu cơ
Ngoài các acid phenolic nói trên, trong thân và lá cây lược vàng có acid
ascorbic [77][78]. Hàm lượng tổng các acid hữu cơ trong dịch ép thân bồ lược

vàng là 37,05% so với cắn khô kiệt [78].
Dầu béo
Phân tích dầu béo trong thân và lá C. fragrans, Chernenco T.V. và cs. thấy
có [25]:
- Phân đoạn trung tính: hydrocarbon parafinic, olefinic, aromatic;
carotenoid, sterol và triterpen acetat, triacylglycerid, acid béo tự do, triterpenol,
sterol, acid triterpenic và chlorophyl.
- Glycolipid: sulfolipid, digalactosyldiglycerid, sterol glycosid, cerebrosid
và monogalactosyldiglycerid.
6
- Phospholipid.
- Các sắc tố: chlorophyl A và B, caroten α và β, xanthophyl (neoxanthin và
anteraxanthin).
Hàm lượng chất béo trong dịch ép thân bồ C. fragrans là 0,21% so với cắn
khô [78].
Carbohydrat
Trong dịch ép thân bồ lược vàng có chứa tới 25,13% đường tự do và 2,44%
polysaccharid so với cắn khô kiệt [78]. Thủy phân polysaccharid thì thu được các
đường đơn là glucose, mannose, acid glucuronic, glucosamin và galactosamin
[104], [76].
Các acid amin
Phân tích, so sánh thời gian lưu với 24 acid amin chuẩn, Hikolaeva G. và
cs. đã xác định được 18 acid amin, trong đó 15 acid amin tự do và 14 acid amin
liên kết trong dịch ép thân bồ lược vàng tươi: asparagin, acid aspartic, threonin,
serin, glutamin, acid glutamic, glycin, alanin, valin, methionin, leucin, isoleucin,
tyramin, phenylalanin, lysin, histamin, arginin và acid γ-aminobutyric [74].
Từ cây lược vàng trồng tại Việt Nam, Phan Văn Kiệm và cs. đã phân lập
được L-tryptophan [13].
Các nguyên tố vô cơ
Trong thân bồ cây lược vàng trồng ở Nga đã xác định được 11 nguyên tố vô

cơ, trong đó Ba, Mn và Cu có hàm lượng cao nhất [74].
Nhìn chung, chi Callisia còn ít loài được nghiên cứu về thành phần hóa
học, chỉ có loài C. fragrans được chú ý nghiên cứu. Mặc dù mới được bắt đầu
nghiên cứu từ 2007, nhưng cho đến nay các tác giả Nga và Việt Nam đã có được
khá nhiều kết quả về thành phần hóa học của cây lược vàng C. fragrans này với 10
chất đã được phân lập và xác định cấu trúc và những phân tích sâu về thành phần
các nhóm chất như carbohydrat, lipid, acid amin.
1.3. Tác dụng sinh học của các cây thuốc chi Callisia Loefling
Sử dụng trong dân gian
Các loài thuộc chi Callisia chủ yếu được trồng làm cảnh. Một số loài sau
đây đã được dùng làm thuốc theo kinh nghiệm dân gian của một số nước châu Mỹ:
- C. grasilis: làm đẹp tóc, chữa cao huyết áp, thấp khớp, chữa mụn cơm
[19], [93].
7
- C. repens: chữa cảm cúm, hoại thư, viêm dạ dày, cao huyết áp, nhiễm
trùng, thấp khớp, làm thuốc thư giãn [93].
Loài C. fragrans được dùng như một cây thuốc dân gian ở Nga để chữa
các bệnh dạ dày – ruột, bệnh túi mật, lá lách; các bệnh đường hô hấp như ho, viêm
họng, viêm phế quản, hen phế quản; các bệnh đường tiết niệu; các bệnh ngoài da
như viêm da, zona, chàm, bỏng, dị ứng, hắc lào, vết thương ngoài da và cả ung
thư…[41],[43].
Về kết quả nghiên cứu tác dụng sinh học của các loài Callisia, chúng tôi tìm
thấy một số công bố trong 2 năm gần đây của các tác giả Nga về C. fragrans và
một bài báo nói đến tác dụng chống herpes virus của dịch chiết cồn C. grasilis.
Sau đây là những kết quả cụ thể.
Tác dụng chống oxy hóa
Dịch ép thân bồ của loài C. fragrans có tác dụng chống oxy hóa in vitro
trên mô hình thử nghiệm với DPPH với IC
50
= 1,07mg/ml. Các phân đoạn có tác

dụng mạnh nhất lần lượt là phân đoạn chiết ethyl acetat (IC
50
0,024mg/ml), phân
đoạn nước (IC
50
0,032mg/ml), phân đoạn butanol (IC
50
0,087mg/ml) và phân đoạn
cloroform (IC
50
0,21mg/ml). Dich ép thân bồ lược vàng cũng được chứng minh có
khả năng liên kết với ion Fe
2+
(IC
50
0,79mg/ml), với O
2

-
(IC
50
0,36mg/ml), gây bất
hoạt H
2
O
2
(IC
50
0,57mg/ml). Thử nghiệm hoạt tính trên NO, dịch ép này có hoạt
tính mạnh hơn tanin (IC

50
2,96mg/ml so với tanin 3,50mg/ml) nhưng yếu hơn acid
ascorbic (IC
50
1,28mg/ml) [78].
Tác dụng bảo vệ khả năng hoạt động
Dịch ép thân bồ lược vàng C. fragrans khi cho chuột cống trắng uống với
liều 5ml/kg một lần/ngày đã làm tăng thời gian bơi của chuột từ 8,8 phút lên 11,5
phút nhưng chưa có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, khi tăng liều lên 10ml/kg thể
trọng/ngày dịch ép này đã làm tăng thời gian bơi của chuột có ý nghĩa gấp hơn 2
lần so với nhóm chứng (23,7 phút so với 11,3 phút). Phân tích sinh hóa cho thấy
tác dụng bảo vệ khả năng hoạt động này là do dịch ép thân lược vàng đã hoạt hóa
quá trình tổng hợp ATP trong cơ xương và cơ tim, làm tăng hàm lượng glycogen
trong gan và giảm nồng độ acid pyruvic và acid lactic trong máu. Ngoài ra, dịch ép
này đã giúp làm giảm stress oxy hóa của chuột bị cưỡng bức chạy, thể hiện ở việc
làm giảm nồng độ MDA trong huyết thanh, trong cơ xương và cơ tim chuột thí
nghiệm cũng như làm tăng hoạt độ enzym catalase [105].
8
Tác dụng chống stress
Trên mô hình gây stress ở chuột bằng cách giữ tình trạng không hoạt động
liên tục 24h, dịch ép thân C. fragrans uống với liều 5ml/kg/ngày trong 7 ngày
trước khi gây stress không có ảnh hưởng có ý nghĩa lên trọng lượng của tuyến ức,
tuyến tụy, nhưng đã gây tăng có ý nghĩa số lượng tế bào có nhân của tuyến ức và
tuyến tụy lên tương ứng là 36 và 49%. Ở chuột được uống dịch ép thân lược vàng,
tình trạng loét dạ dày do stress giảm còn 25% so với 100% ở nhóm chứng, không
thấy có chuột nào có u dạng vân ở nhóm uống lược vàng trong khi nhóm đối
chứng bị u 100%. Tác dụng chống stress này cũng được cho là do tác dụng chống
oxy hóa của dịch ép này, biểu hiện ở việc làm giảm 40% nồng độ MDA trong
huyết thanh và làm tăng nồng độ glutation 3 lần, tăng hoạt độ các enzym catalase
(54%) và superoxid dismutase (20%) [106].

Tác dụng trên hệ miễn dịch
Thử nghiệm trên mô hình gây ức chế miễn dịch ở chuột bằng azathioprin,
dịch ép thân bồ lược vàng đã thể hiện tác dụng tăng cường miễn dịch, làm tăng
trọng lượng tuyến ức (12%) và lách (27%) bị suy giảm do azathioprin, tăng 25%
số lượng tế bào có nhân của hai cơ quan này. Dịch ép này cũng làm tăng chỉ số
thực bào 1,5 lần so với nhóm chứng bệnh và đưa các chỉ số này về gần với nhóm
chứng sinh lý [106].
Tác dụng chống virus
Dịch chiết ethanol của C. gracilis thể hiện hoạt tính chống herpes virus trên
thử nghiệm in vitro với herpes simplex virus type 2 (HSV-2) với trị số EC
50
= 10,5
µg/ml [19].
1.4. Tác dụng sinh học của một số chất có trong C. fragrans
Các chất đã được biết có trong lược vàng đều là những chất quen biết đã
được phân lập từ nhiều cây thuốc khác và đã được nghiên cứu chứng minh có
nhiều tác dụng sinh học đáng chú ý. Sau đây là một số kết quả nghiên cứu về tác
dụng sinh học của các hợp chất này.
Quercetin
Quercetin là một flavonoid rất phổ biến trong thực vật. Quercetin được biết
đến là một chất có nhiều tác dụng sinh học đáng chú ý như tác dụng chống viêm,
chống oxy hóa, chống lão hóa, tác dụng bảo vệ gan, điều biến miễn dịch và phòng
chống ung thư.
9
Hoạt tính chống oxy hóa, chống lão hóa của quercetin được nghiên cứu khá
kỹ trong một số nghiên cứu gần đây. Quercetin và dẫn xuất của nó, cụ thể là
quercetin caprylat (QU-CAP) là một chất hoạt hóa mạnh proteasom, với tác dụng
chống oxy hóa, do đó nó ảnh hưởng đến tuổi thọ của tế bào và khả năng sống sót
của nguyên bào sợi HFL-1 ở người; khi bổ sung hợp chất này vào các nguyên bào
sợi đã hóa già thì quan sát được hiện tượng trẻ hóa [28]. Ngoài ra, người ta thấy có

mối tương quan giữa stress oxy hóa gây ra bởi quá trình chuyển hóa
diethylnitrosamin (DEN) và sự phát triển ung thư gan. Quercetin là một flavonoid
có tác dụng chống oxy hóa và chống ung thư qua cơ chế thúc đẩy hệ thống phòng
thủ chống oxy hóa enzym và không-enzym trong giai đoạn khởi đầu của ung thư
gan [97].
Cũng liên quan đến việc phòng chống bệnh ung thư nhưng nghiên cứu ở
mức độ phân tử, quercetin tương tác với một số thụ thể, cụ thể là thụ thể aryl
hydrocarbon, là một thụ thể có liên quan đến sự phát triển của bệnh ung thư do các
chất hóa học nhất định gây ra. Quercetin điều chỉnh một vài tín hiệu của sự truyền
tính trạng trong chuỗi các phản ứng hóa sinh liên quan đến MEK/ERK và
NRF2/KEAP1, là những chất gắn liền với quá trình viêm và gây ung thư. Những
nghiên cứu về loài gặm nhấm đã chỉ ra rằng chế độ ăn uống có nhiều flavonol giúp
ngăn ngừa các chất hóa học gây ung thư, đặc biệt là trong ung thư ruột kết. Nhiều
nghiên cứu dịch tễ học cũng đã cho thấy quercetin có thể có liên quan đến phòng
ngừa ung thư phổi [70].
Quercetin còn được biết đến là một chất có tác dụng bảo vệ các tế bào gan.
Trong những nghiên cứu về tác động của quercetin trên những tế bào HepG2
nhiễm aflatoxin B (1) (AFB (1)) cho kết quả là quercetin ức chế sự sản xuất các
loại oxy phản ứng và các chất gây độc tế bào, và ngăn chặn sự giảm glutathion
(GSH) trong các tế bào HepG2 nhiễm AFB (1). Tuy nhiên, quercetin làm giảm
không đáng kể nồng độ phosphatase kiềm trong huyết thanh; trong khi alanin
aminotransferase và aspartat aminotransferase ở chuột nhiễm AFB(1) lại tăng lên.
Do đó, tác dụng bảo vệ gan của quercetin là không trực tiếp chống lại AFB(1) mà
tăng cường hệ thống phòng vệ chống oxy hóa và ức chế sự peroxy hóa lipid [27].
Các tế bào đuôi gai (DCs) cần thiết cho hệ thống điều hòa miễn dịch. Kết
quả nghiên cứu in vitro về sự tác động của quercetin trên các tế bào đuôi gai cho
thấy quercetin giảm độ bám dính của DCs (-42%, p<0,05) và sự biểu hiện của
CD11a (-21%; p < 0.05) và ức chế một phần sự phân hóa DCs do OxLDL
(oxidized low density lipoprotein) gây ra (BDCA-1-29%; BDCA-2-33%, p <0,05).
10

Thử nghiệm in vivo được tiến hành với 8 tình nguyện viên nam khỏe mạnh, được
dùng 500 mg quercetin 2 lần/ngày trong 4 tuần. Kết quả cho thấy quercetin làm
giảm BDCA-2 + DCs trong máu ngoại vi 42% (p<0,05) cũng như dimethylarginin
bất đối xứng ức chế NO-synthase trong cơ thể (-31%, p<0,05). Như vậy, tác dụng
điều biến miễn dịch của quercetin cũng góp phần chống xơ vữa động mạch [73].
Một tác dụng khác của quercetin cũng được quan tâm nhiều là tác dụng
chống viêm. Quercetin ức chế đáng kể mức độ mARN của iNOS, COX-2 và CRP
của tế bào gan Chang. Flavonoid này cũng có tác dụng ức chế trên NF-kappaB
hoạt động và trên protein cô đặc của mẫu phosphoryl hóa của chất ức chế IkappaB
alpha và IKK (IkappaB kinase) alpha. Các nghiên cứu hiện nay cho thấy rằng tác
dụng điều chỉnh iNOS, COX-2 và CRP trong tế bào gan Chang của quercetin có
thể góp phần vào tác dụng chống viêm, thông qua các cơ chế có liên quan đến việc
phong tỏa NF-kappaB hoạt động và điều hòa tăng của các gen tiền viêm [36].
Ngoài ra, quercetin ức chế sự tiết các chất trung gian gây dị ứng trong các tế bào
RBL-2H3 và ngăn cản sự biểu hiện mARN CD23 và p38 MAPK hoạt hóa trong
IL-4 kích thích các tế bào CaCO-2. Flavonol này cũng ngăn cản IgE-OVA gây
thêm tín hiệu hoạt hóa protein kinase (ERK) và giải phóng chemokin. Như vậy,
quercetin ngăn cản một cách hiệu quả sự phát triển của chứng viêm dị ứng qua
trung gian IgE của các mô hình tế bào đường ruột [58].
Kaempferol
Kaempferol là một flavonoid thiên nhiên, nó là một trong những flavonol
phổ biến trong nhiều loài thực vật như trà, bưởi, bông cải xanh, táo…Kaempferol
(3, 4',5,7-tetrahydroxyflavon) có cấu trúc hóa học tương tự quercetin và cũng có
nhiều tác dụng sinh học tương tự như quercetin. Nó cũng có tác dụng chống oxy
hóa và chống viêm; ngoài ra còn có tác dụng gây chết tế bào theo chương trình
(apoptosis) trên nhiều dòng tế bào ung thư.
Giống như quercetin, tác dụng chống viêm của kaempferol một phần là do
tác dụng điều chỉnh iNOS, COX-2 và CRP trong tế bào gan Chang thông qua các
cơ chế có liên quan đến việc phong tỏa NF-kappaB hoạt động và điều hòa tăng các
gen tiền viêm [36]. Kaempferol cũng ngăn cản một cách hiệu quả sự phát triển của

chứng viêm dị ứng qua trung gian IgE của các mô hình tế bào đường ruột [58] .
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng tác dụng chống oxy hóa của kaempferol
có thể liên quan đến việc cảm ứng apoptosis các tế bào H460. Đây là một kiểu làm
chết tế bào theo chương trình điển hình kèm theo sự cô đặc ADN và sự tăng mức
ATP nội bào. Điều này có liên quan tới khả năng thay đổi mức độ biểu hiện của
11
caspase-3 (caspase-phụ thuộc) và AIF (caspase-độc lập). Sự biểu hiện quá mức của
enzym chống oxy hóa Mn-SOD được đẩy mạnh để tạo một loại gen mới ức chế
khối u trong một vài tế bào ung thư của người; và có thể nó đóng vai trò quan
trọng vào tác dụng apoptosis trên tế bào H460 của hợp chất kaempferol [60].
Kaempferol có tác dụng gây apoptosis trên nhiều dòng tế bào ung thư. Các
tế bào MDA-MB-453 được điều trị bằng kaempferol ở các nồng độ khác nhau (từ
1 đến 200 μM) trong 24 và 48 giờ. Kaempferol ức chế một cách đáng kể sự tăng
trưởng của tế bào ung thư ở các tế bào tiếp xúc với 50 và 10 μM kaempferol và ủ
trong thời gian tương ứng là 24 và 48 giờ. Kaempferol ức chế sự phát triển của tế
bào bằng cách phá vỡ chu trình tế bào, kết hợp mạnh với việc ngăn cản sự phân
chia tế bào ở pha G2/M và có thể gây apoptosis thông quá sự phosphoryl hóa p53
ở các tế bào MDA-MB-453 trong ung thư vú ở người [26]. Trong điều kiện
hypoxic (1% oxy), kaempferol ức chế một cách hiệu quả hoạt động của HIF-1 theo
kiểu phụ thuộc liều (IC50 = 5,16 microM). Cơ chế của sự ức chế này không liên
quan đến việc ngăn cản mức độ protein HIF-1alpha mà là do bất hoạt p44/42
MAPK bởi kaempferol (IC50 = 4,75 microM). Khi cho các tế bào Huh7 tiếp xúc
với 10 microM kaempferol làm giảm đáng kể khả năng tồn tại của chúng và điều
này được thể hiện rõ hơn trong điều kiện hypoxic. Như vậy, kaempferol ức chế cả
MAPK và HIF-1 hoạt động ở nồng độ sinh lý (5-10 microM) và ngăn chặn sự sống
sót của các tế bào ung thư gan hiệu quả hơn trong điều kiện oxy giảm. Do đó
kaempferol là một tác nhân rất có tiềm năng giúp phòng ngừa hay chữa trị ung thư
biểu mô tế bào gan (HCC) [71].
Isoorientin
Hợp chất isoorientin là một flavon có mặt trong một số loài thực vật bậc

cao. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy hợp chất này thể hiện nhiều hoạt tính sinh học
có giá trị trong các thử nghiệm in vitro và in vivo bao gồm hoạt tính chống oxy
hoá, kháng viêm, kháng sinh, bảo vệ gan, chống tiểu đường, giảm đường máu.
Giống như các chất thuộc nhóm flavonoid, hoạt tính chống oxy hoá của isoorientin
thể hiện rõ rệt trong các nghiên cứu trên hệ DPPH và sự peroxy hóa lipid với giá
trị IC50 khá thấp (9-10 μM) Khả năng chống oxy hoá này được chứng minh do
isoorientin kích thích sự hoạt hoá của yếu tố phiên mã Nrf2, từ đó thúc đẩy quá
trình tổng hợp các gen liên quan đến khả năng chống oxy hoá như NAD(P)H:
quinon oxidoreductase 1 (NQO-1), hem oxigenase 1 (HO-1), periaxin (PRX) [22],
[29], [61].
12
Hoạt tính chống viêm của isoorientin cũng được nghiên cứu khá chi tiết
trong thời gian gần đây. Năm 2004, Kupeli và cộng sự đã thử nghiệm tác dụng
chống viêm của isoorientin trên chuột nhắt gây viêm bằng carrageenan. Kết quả
cho thấy với liều 30 mg/kg thể trọng, isoorientin làm giảm đến hơn 40% thể tích
khối viêm mà hoàn toàn không gây độc cho dạ dày [57]. Trong một thí nghiệm
khác, isoorientin ở liều 25 mg/kg thể trọng làm giảm đến 57% tế bào bạch cầu và
40% hoạt tính myeloperoxidase trên mô hình chuột nhắt gây viêm bằng
carrageenan [103].
Một hoạt tính đáng quan tâm khác của isoorientin là tác dụng chống tăng
đường huyết. Thí nghiệm trên mô hình chuột gây tiểu đường bằng streptozotocin
cho thấy isoorientin với liều 15 mg/kg thể trọng làm giảm đáng kể lượng đường
glucose trong máu trong vòng 5-15 ngày [31].
Hợp chất isoorientin thể hiện hoạt tính kháng sinh yếu trên các chủng vi
khuẩn và nấm với giá trị MIC trong khoảng 100-200 μg/mL. Trong một số nghiên
cứu, mặc dù dịch chiết các mẫu thực vật chứa isoorientin ức chế mạnh sự phát
triển các chủng vi sinh vật kiểm định nhưng khi được phân lập ra, hoạt tính của
isoorientin lại có giá trị thấp hơn dịch chiết ban đầu [32]. Ngoài những hoạt tính
sinh học kể trên, isoorientin còn thể hiện những nhiều tác dụng khác như bảo vệ
gan, thận [35], [79].

Scopoletin
Scopoletin là một coumarin có nhiều tác dụng sinh học. Nhiều kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng scopoletin có tác dụng chống oxy hóa, chống viêm khớp,
chống ung thư, làm hạ huyết áp và có tác dụng chống trầm cảm.
Năm 2003, Shaw CY và cộng sự đã tiến hành thử tác dụng chống oxy hóa
của scopoletin phân lập từ Sinomonium acutum. Kết quả chỉ ra rằng scopoletin
đóng vai trò dọn sạch các gốc anion superoxid trong hệ thống phản ứng
xanthin/xanthin oxidase theo kiểu phụ thuộc nồng độ, nhưng không ức chế xanthin
oxidase. Nó có thể được sử dụng trong việc ngăn ngừa các gốc anion superoxid
gây hại trong cơ thể [90].
13
Cơ chế làm hạ huyết áp của scopoletin, phân lập từ quả Tetrapleura tetraptera
T AUB (Mimosaceae), đã được nghiên cứu in vivo và in vitro. Các kết quả thu
được cho thấy, scopoletin gây tác dụng hạ huyết áp trên động vật thí nghiệm
thông qua các cơ chế: (a) hoạt động làm giãn các cơ trơn – nghĩa là có thể làm
giãn nở các mạch máu; và (b) đóng vai trò như một tác nhân chống co thắt
không đặc hiệu (giống papaverin) [75].
Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng scopoletin có thể là một hợp chất có
tiềm năng chống lại khối u, được sử dụng để điều trị ung thư. Scopoletin phân lập
từ T. cordata Mill., đã được tiến hành thử tác dụng kháng phân bào và tác dụng
gây độc tế bào trên các u lympho bào. Các tác dụng khác nhau ở các nồng độ khác
nhau được phân tích liên quan đến việc cảm ứng apoptosis. Scopoletin làm tăng
nhanh tế bào lympho T bình thường (chỉ số kích thích sự tăng sinh tế bào:
1microg/ml scopoletin: 1,26 +/-0,1; 10microg/ml scopoletin: 3 +/-0,25; 100
microg/ml scopoletin: 1,86 +/-0,08). Tác dụng kích thích này là do sự tương tác
của scopoletin với protein kinase C (PKC) [66]. Ngoài ra, scopoletin ức chế sự
tăng sinh của tế bào PC3 bằng cách cảm ứng quá trình apoptosis của chúng.
Scopoletin ức chế sự tăng sinh của PC3, PAA và tế bào Hela với IC
50
lần lượt là

(157 +/- 25), (154 +/- 51), và (294 +/- 100) mg/L. Scopoletin làm giảm hàm lượng
protein và giảm mức ACP trong các tế bào PC3 theo kiểu phụ thuộc nồng độ. Các
tế bào được xử lý với scopoletin cho thấy những sự thay đổi về hình thái điển hình
của apoptosis bằng kính hiển vi ánh sáng, kính hiển vi huỳnh quang và kính hiển
vi điện tử truyền qua. Tỷ lệ tế bào chết theo chương trình là 0,3%, 2,1%, 9,3% và
35% tương ứng với liều scopoletin là 0, 100, 200, và 400 mg/L và các tế bào ở pha
G2 giảm rõ rệt sau khi được xử lý bằng scopoletin [64].
Scopoletin là thành phần chính của coumarin tìm thấy trong thân cây
Erycibe obtusifolia Benth, một loại dược liệu được sử dụng trong y học cổ truyền
của Trung Quốc để điều trị viêm khớp dạng thấp. Tiêm scopoletin vào màng bụng
với liều 50, 100 mg/kg làm giảm sự sưng tấy chân cũng như các chỉ số về khớp và
làm tăng trọng lượng trung bình cơ thể của chuột bị viêm khớp. Chuột được điều
trị với scopoletin liều cao hơn thì các khớp có cấu trúc mô học gần như bình
thường và giảm sự hình thành các mạch máu mới trong các mô hoạt dịch. Hơn
nữa, scopoletin điều hòa ức chế sự biểu hiện quá mức của yếu tố tăng trưởng nội
mạc mạch máu, yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi cơ bản và interleukin - 6 trong
các mô hoạt dịch. Kết quả là scopoletin có khả năng giảm dần các triệu chứng lâm
sàng của chuột bị viêm khớp [80].
14
Scopoletin phân lập từ Polygala sabulosa (Polygalaceae) có tác dụng giống
như thuốc chống trầm cảm. Scopoletin làm giảm thời gian bất động trong mô hình
treo đuôi chuột (10-100mg/kg, p.o.), nhưng không giảm trong thử nghiệm bơi
cưỡng bức. Các rối loạn bất động làm tăng thời gian bất động trong các thử
nghiệm bơi cưỡng bức (hành vi giống như trầm cảm), được làm giảm bởi
scopoletin (1-100mg/kg, p.o.). Tác dụng giống như thuốc chống trầm cảm của
scopoletin phụ thuộc vào các hệ thống thu thể serotonergic (thụ thể 5-HT (2A)),
noradrenergic (alpha (1) - và alpha (2)-adrenoceptors) và dopaminergic (thụ thể
dopamine D (1) và D ( 2)) [21].
Umbelliferon
Umbelliferon (7-hydroxycoumarin), một dẫn xuất của coumarin, là

benzopyron trong tự nhiên. Nó có nhiều tác dụng sinh học như chống oxy hóa, hạ
đường huyết và chống béo phì.
Ramesh B., Pugalendi K.V. đã tiến hành thử nghiệm các tác dụng sinh học
của umbelliferon trên chuột bị tiểu đường. Umbelliferon tăng cường khả năng
chống oxy hóa nên được xem là một chất chống oxy hóa mạnh. Chuột tiểu đường
được điều trị bằng umbelliferon (30 mg/kg trọng lượng cơ thể) hòa tan trong 10%
dimethyl sulfoxide (DMSO) trong 45 ngày, làm giảm mức peroxy hóa lipid và
tăng cường những chất chống oxy hóa enzym và không-enzym lên mức gần như
bình thường [87].
Ở chuột tiểu đường, mức đường huyết, hemoglobin glycosyl hóa (HbA
(1c)) tăng và hoạt động của các enzym tân tạo glucose như glucose-6-phosphatase
và fructose-1, 6-bisphosphatase cũng tăng; trong khi mức insulin huyết tương,
hemoglobin (Hb), glycogen gan giảm và các hoạt động của glucokinase và
glucose-6-phosphate dehydrogenase cũng giảm. Tiêm umbelliferon vào màng
bụng chuột tiểu đường (với liều 10, 20 và 30 mg/kg trọng lượng cơ thể) và
glibenclamid (600 micro g/kg trọng lượng cơ thể) trong 10% DMSO hòa tan trong
nước, trong 45 ngày, làm giảm đáng kể mức độ glucose máu, HbA (1c) và hoạt
động của glucose-6-phosphatase và fructose-1,6-bisphosphatase, trong khi đó làm
tăng nồng độ insulin huyết tương, Hb, glycogen gan và hoạt động của glucokinase
và glucose-6-phosphate dehydrogenase lên gần như bình thường. Ngoài ra, ở chuột
tiểu đường, các thành phần glycoprotein trong huyết tương và trong các mô (gan,
thận, tim và não) như acid sialic, hexose toàn phần, fucose, và hexosamin tăng
lên. Điều trị với umbelliferon hòa tan trong 10% DMSO trong 45 ngày đưa các
15
thành phần glycoprotein về gần bình thường. Như vậy, kết quả cho thấy rằng
umbelliferon với liều 30 mg/kg trọng lượng cơ thể có tác dụng hạ đường huyết, tác
dụng này có thể so sánh được với glibenclamid. Umbelliferon đã cải thiện việc
kiểm soát mức đường huyết, do đó giảm sự hình thành các thành phần
glycoprotein, giúp chống lại nguy cơ biến chứng của bệnh tiểu đường [86], [88].
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng umbelliferon ngoài tác dụng chống đái tháo

đường còn có tác dụng chống tăng lipid máu. Trong huyết tương của chuột bị tiểu
đường, cholesterol toàn phần (TC), cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL-C),
cholesterol lipoprotein tỷ trọng rất thấp (VLDL-C), triglycerid (TG), acid béo tự
do (FFA) và phospholipid (PL) tăng cao còn cholesterol lipoprotein tỷ trọng cao
(HDL-C) giảm sút. Trong mô gan và thận của chuột bị tiểu đường TC, TG, FFA,
và PL có nồng độ cao. Ở chuột được điều trị tiểu đường bằng umbelliferon, các chỉ
số TC, TG, PL và FFA trong huyết tương và mô; và LDL-C, VLDL-C, và HDL-C
huyết tương gần trở lại như bình thường [85].
Aloe emodin
Aloe emodin là một hydroxyanthraquinon, có một số tác dụng sinh học
đáng chú ý như tác dụng chống viêm, chống virus và tác dụng chống ung thư.
Cơ chế gây viêm chính của đại thực bào là do chúng gây cảm ứng nitric
oxid synthase (iNOS) dẫn đến việc sản xuất ra oxid nitric ở mức cao. Aloe emodin
có tác dụng chống viêm vì nó ức chế việc sản xuất oxid nitric (NO), yếu tố hoại tử
u TNF- α và interleukin IL-12 từ các đại thực bào đã hoạt hóa bởi
lipopolysaccharid (LPS) và interferon-gamma (IFN- γ). Kết quả cho thấy, IC
50
của
aloe emodin trên NO, TNF-α và IL-12 từ các đại thực bào ở phúc mạc đã hoạt hóa
là 30 μM [69].
Kết quả nghiên cứu của Lin C.W. và cộng sự ở Trung Quốc đã cho thấy
aloe emodin là tác nhân tạo ra IFN với tác động kháng virus, ức chế virus viêm
não Nhật Bản (JEV) và enterovirus 71 (EV71). Aloe emodin có tác dụng gây độc
tế bào thấp đến các tế bào tiền đơn nhân HL-CZ của người và các tế bào
medulloblastoma TE-671 (bướu nguyên bào tủy) và hoạt hóa mạnh yếu tố đáp ứng
kích thích interferon (ISRE – interferon-stimulated response element) và chuỗi
hoạt hóa gamma (GAS- gamma-activated sequence). IC
50
của aloe emodin thay đổi
từ 0,50microg/mL đến 1,51microg/mL đối với JEV và từ 0,14microg/mL đến

0,52microg/mL đối với EV71. Aloe emodin cho thấy rõ khả năng ức chế mạnh
virus và đạt được các chỉ số điều trị cao, đặc biệt với các tế bào HL-CZ [62].
16
Hợp chất aloe emodin là một loại tác nhân chống ung thư mới với hoạt tính
chọn lọc chống lại khối u thần kinh ngoại bì (neuroectodermal) in vitro và in vivo.
Aloe emodin không ức chế sự tăng sinh của nguyên bào sợi bình thường cũng như
của các tế bào tiền tạo máu mà cơ chế gây độc tế bào của nó là cảm ứng apoptosis
làm chết tế bào theo chương trình. Tính chọn lọc chống lại các tế bào khối u thần
kinh ngoại bì phụ thuộc hiệu lực cụ thể của việc kết hợp thuốc [81].
Kết quả nghiên cứu tác dụng chống ung thư của aloe emodin trên hai dòng
tế bào ung thư gan ở người là Hep G2 và Hep 3B cho thấy aloe emodin ức chế sự
phát triển tế bào và gây apoptosis ở cả hai dòng tế bào được thử nghiệm, nhưng
với các cơ chế khác nhau. Ở các tế bào Hep G2, aloe emodin cảm ứng sự biểu hiện
p53 và kèm theo cảm ứng sự biểu hiện p21 kết hợp với việc ngăn cản chu trình tế
bào trong pha G1. Ngoài ra, aloe emodin làm tăng đáng kể lượng thụ thể
Fas/APO1 và sự biểu hiện của Bax. Ngược lại, với những tế bào Hep 3B thiếu p53,
tác dụng ức chế sự tăng sinh tế bào của aloe emodin qua trung gian phụ thuộc p21
mà không ngăn cản chu trình tế bào hoặc làm tăng lượng thụ thể Fas/APO1. Cơ
chế chính là aloe emodin gây cảm ứng apoptosis bằng cách tăng cường sự biểu
hiện của Bax [56].
Những nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy rằng aloe emodin có thể là một
loại thuốc hóa trị liệu mới và phù hợp để điều trị ung thư dạ dày ở người. Kết quả
điều tra tác dụng chống ung thư của aloe emodin trên hai dòng tế bào ung thư dạ
dày riêng biệt ở người là AGS và NCI-N87, cho thấy aloe emodin làm chết tế bào
theo cách thức phụ thuộc thời gian và liều lượng. Nó giải phóng các yếu tố cảm
ứng apoptosis và cytochrom c từ ty thể, tiếp theo là hoạt hóa caspase-3, dẫn đến co
rút nhân và gây apoptosis. Ngoài ra, aloe emodin ngăn cản sự hoạt động của casein
kinase II theo cách phụ thuộc thời gian và kèm theo sự giảm phosphoryl hóa Bid .
Trong một nghiên cứu khác, các tế bào MGC-803 được điều trị bằng 2,5, 5, 10, 20
và 40 microM aloe emodin trong 1-5 ngày. Kết quả cho thấy aloe emodin ức chế

sự tăng trưởng của tế bào ung thư theo cách phụ thuộc liều dẫn đến làm gián đoạn
chu trình tế bào. Hơn nữa, nó làm giảm hoạt tính của phosphatase kiềm (ALP) và
gây ra sự khác biệt giữa các tế bào [23], [38].
Acid caffeic
Nhiều nghiên cứu cho thấy acid caffeic có tác dụng chống oxy hóa, làm hạ
đường huyết, tác dụng chống viêm và làm lành vết thương.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy việc dùng acid caffeic cho chuột bị nhiễm
độc rượu làm giảm bớt những thương tổn oxy hóa do rượu gây ra trong gan và
17
thận. Uống acid caffeic với liều 12 mg/kg/trọng lượng cơ thể trong 45 ngày làm
giảm đáng kể stress oxy hóa do nhiễm độc rượu, bằng chứng là giảm mức peroxy
hóa lipid đồng thời tăng hàm lượng các chất chống oxy hóa enzym và không-
enzym (như vitamin C và E, superoxid dismutase (SOD), catalase (CAT),
glutathion peroxidase (GPx), glutathion (GSH), và glutathion S-transferase (GST))
trong gan và thận. Những nghiên cứu mô học gan và thận cũng cho thấy việc uống
acid caffeic làm giảm rõ rệt những thay đổi bệnh lý do rượu gây ra [51].
Ngoài tác dụng chống oxy hóa kể trên, acid caffeic còn được chứng minh là
có tác dụng làm hạ đường huyết ở chuột C57BL/KsJ-db/db. Ở nhóm sử dụng acid
caffeic: mức đường huyết và hemoglobin glycosyl hóa giảm nhiều hơn so với
nhóm đối chứng; mức insulin huyết tương, C-peptid và leptin cao hơn đáng kể so
với nhóm đối chứng. Tác dụng làm tăng insulin huyết tương của acid caffeic có thể
là do tác dụng chống thoái hóa trên các đảo nhỏ. Acid caffeic cũng làm tăng rõ rệt
glucokinase hoạt động và sự biểu hiện mARN của nó và tăng hàm lượng glycogen;
đồng thời giảm glucose-6-phosphatase và phosphoenolpyruvat carboxykinase hoạt
động và sự biểu hiện mARN của chúng, kèm theo việc giảm sự biểu hiện của chất
vận chuyển glucose 2 trong gan. Ngược lại với chất vận chuyển glucose 2 ở gan,
sự biểu hiện của chất vận chuyển glucose 4 ở tế bào tạo mỡ lại lớn hơn nhóm đối
chứng. Ngoài ra, acid caffeic còn làm tăng đáng kể hoạt động của các enzym SOD,
CAT, GPx và mức độ biểu hiện mARN của chúng; trong khi đó làm giảm mức
hydrogen peroxid và các chất phản ứng acid thiobarbituric trong hồng cầu và gan

của chuột db/db. Các kết quả này cho thấy cơ chế chống đái tháo đường của acid
caffeic là ngăn chặn sự tiến triển của đái tháo đường týp 2 do nó làm giảm lượng
glucose sản xuất ở gan và tăng cường hấp thu glucose ở các tế bào tạo mỡ, tăng
tiết insulin và tăng khả năng chống oxy hóa [49].
Ho Sun Song và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu một tác dụng đặc biệt của
acid caffeic là tác dụng làm lành vết thương trên chuột bị rạch da. Acid caffeic là
một chất có hoạt tính chống oxy hóa mạnh và chống viêm trong hệ thống tế bào
nuôi cấy; và có thể có liên quan đến việc chữa lành vết thương trên chuột bị rạch
da. Nó kích thích các polymer tổng hợp giống như collagen trong tế bào nguyên
bào sợi NIH 3T3; nhưng lại ức chế cả hai thế hệ loài oxy phản ứng do silica gây ra,
ức chế sự giải phóng acid arachidonic do melittin sinh ra, ức chế sự sản xuất PGE
2 trong tế bào Raw 264,7; và ức chế sự giải phóng histamin trong các tế bào RBL
2H3 được kích thích bởi melittin hoặc acid arachidonic [92].
Acid gallic
18
Acid gallic là một polyphenol, được phân bố rộng rãi trong các loài thực vật
cũng như trong nhiều loại thực phẩm khác nhau và nhiều tác dụng sinh học của nó
đã được báo cáo.
Acid gallic là một hợp chất chống oxy hóa tự nhiên. Đặc tính chống oxy
hóa hỗ trợ cho tác dụng bảo vệ gan của hợp chất này. Các tác dụng này được đánh
giá trên chuột bị tổn thương gan do nhiễm độc paracetamol và được so sánh với
silymarin, một thuốc bảo vệ gan tiêu chuẩn. Chuột được nhận một liều
paracetamol (900 mg/kg trọng lượng cơ thể); và được cho acid gallic (100 mg/kg
trọng lượng cơ thể) và silymarin (25 mg/kg trọng lượng cơ thể) 30 phút sau khi
tiêm paracetamol. Khi so sánh với nhóm đối chứng, ở nhóm chuột uống
paracetamol: hoạt động của các enzym gan (aspartat transaminase, alanin
transaminase và phosphatase kiềm) được tăng cường; TNF- α và mức độ peroxy
hóa lipid cũng tăng cao (p < 0,05); trong khi mức chống oxy hóa lại suy giảm (p <
0,05). Điều trị bằng acid gallic làm giảm đáng kể những thay đổi trên (p <0,05) do
tác dụng chống oxy hóa của acid gallic [89].

Theo kết quả nghiên cứu của Giftson J.S. và cộng sự (năm 2010), acid
gallic là một tác nhân có khả năng phòng ngừa ung thư ruột kết do 1,2-dimethyl
hydrazin (DMH) gây ra. Do acid gallic có tác dụng chống oxy hóa; nó làm giảm
các sản phẩm của sự peroxy hóa lipid (LPO) như các chất phản ứng acid
thiobarbituric (TBARS), các hydroperoxid lipid (LOOH) và các dien liên hợp
(CD) và cũng làm tăng mức độ các chất chống oxy hóa như superoxid dismutase
(SOD), catalase (CAT), glutathion (GSH), glutathion reductase (GR) và glutathion
peroxidase (GPx) trong các mô của chuột nhiễm DMH nên hạn chế được những
tác động do DMH gây ra. [37].
Acid gallic có hoạt tính ức chế tyrosinase mạnh với IC50 = 3,59 x 10
-6
M
trên các tế bào u hắc sắc tố B16. Acid gallic có tác dụng điều hòa ức chế việc sản
sinh các loài phản ứng (RS) và tăng cường tỉ lệ glutathion (GSH) / glutathion đã
oxy hóa (GSSG) [53].
Acid gallic đã chứng tỏ được khả năng ức chế đáng kể sự tăng sinh tế bào
và gây apoptosis trên một loạt các dòng tế bào ung thư.
Nghiên cứu in vitro cho thấy, acid gallic gây ra những thay đổi về hình thái,
giảm tỷ lệ tế bào sống sót và gây apoptosis trên tế bào hắc sắc tố A375-S2 theo
cách phụ thuộc thời gian và liều. Quan sát cơ chế apoptosis ở mức độ phân tử
trong tế bào A375-S2 cho thấy acid gallic điều hòa tăng các protein pro-apoptotic
19
như Bax và gây cảm ứng hoạt động của dòng thác caspase, nhưng lại điều hòa ức
chế các protein anti-apoptotic như Bcl-2. Acid gallic kích thích giải phóng nguyên
sinh chất của các phân tử apoptotic, cytochrom c, thúc đẩy sự hoạt hóa caspase-9
và caspase-3 và cuối cùng là làm chết tế bào. Ngoài ra, acid gallic cũng thúc đẩy
việc giải phóng nguyên sinh chất của yếu tố cảm ứng apoptosis (AIF) và
endonuclease G (Endo G). Do đó, acid gallic gây cảm ứng apoptosis thông qua cả
2 cơ chế phụ thuộc caspase và không phụ thuộc caspase [65].
Acid gallic còn có tác dụng cảm ứng apoptosis trên các tế bào bạch cầu

dạng tiền tuỷ bào promyelocytic HL-60RG. Phân tích Flow cytometric (phương
pháp đo dòng chảy tế bào) cho thấy rằng apoptosis không được kích hoạt ở một
giai đoạn cụ thể của chu kỳ tế bào và các tế bào HL-60RG chỉ cần tiếp xúc với
acid gallic 2h là đủ để gây ra apoptosis. Các thử nghiệm khác cho thấy tác dụng
gây chết tế bào của acid gallic qua trung gian bởi các loài oxy phản ứng như
hydrogen peroxid, các anion superoxid , các enzym phụ thuộc calmodulin [44].
Cũng liên quan đến tác dụng gây chết tế bào theo chương trình của acid
gallic, các nhà khoa học của Hàn Quốc, You BR và cộng sự đã tiến hành nghiên
cứu những tác động của acid gallic liên quan đến việc ức chế sự tăng trưởng và
gây chết tế bào trên các tế bào ung thư cổ tử cung HeLa. IC50 của acid gallic
khoảng 80 microM trong 24h đối với các tế bào HeLa; trong khi IC50 của acid
gallic đối với các tế bào nội mô tĩnh mạch rốn của người (HUVEC) là khoảng 400
microM. Acid gallic ức chế sự tăng trưởng của tế bào HeLa và HUVEC qua
apoptosis và/hoặc hoại tử. Độ nhạy cảm của các tế bào HeLa đối với acid gallic
cao hơn của HUVEC [101].
Acid chicoric
Một tác dụng đáng chú ý và đang được quan tâm nghiên cứu nhiều của acid
chicoric là tác dụng chống HIV. Acid chicoric là một dẫn xuất của acid caffeic,
trong tương lai nó có thể là hợp chất chống HIV đa mục tiêu, hỗ trợ mạnh cho việc
điều trị HIV. Acid L - chicoric đã được xác định là một chất ức chế mạnh HIV-1
IN (Human immunodeficiency virus 1 integrase), là enzym chịu trách nhiệm tích
hợp DNA của virus vào bộ gen của vật chủ, và đóng vai trò quan trọng trong việc
sao chép, nhân lên của virus [18], [40]. Hoạt tính kháng virus HIV-1 của acid L -
chicoric là do ức chế sự tích hợp HIV-1. Acid L - và D -chicoric và các dẫn xuất
ester tetra-acetyl của chúng ức chế sự sao chép của virus HIV-1 (III (B) và NL4.3)
20
và HIV-2 (ROD) trên các tế bào MT- 4 với EC50 khác nhau từ 1,7 đến 70,6
microM và IC50 khác nhau từ 40 đến 60 microM [63], [83].
Ngoài tác dụng chống HIV, acid chicoric còn là một hợp chất có tiềm năng
chống đái tháo đường. Sử dụng các nghiên cứu in vitro để đánh giá tác động của

acid chicoric tinh khiết phân lập từ Cichorium intybus trên sự hấp thu glucose và
tiết insulin. Kết quả cho thấy rằng acid chicoric làm tăng sự hấp thu glucose ở các
tế bào cơ L6, một tác dụng chỉ được quan sát khi có mặt insulin ở nồng độ kích
thích; và có thể kích thích tiết insulin từ dòng tế bào tiết insulin INS-1E và các đảo
nhỏ Langerhans của chuột. Như vậy acid chicoric chống đái tháo đường theo cơ
chế vừa tăng hấp thu glucose vừa có khả năng làm nhạy cảm insulin và tăng tiết
insulin [95].
Ginsenosid Rg1
Ginsenosid Rg1 (GRg1), một trong những thành phần chính có hoạt tính
mạnh của rễ Panax notoginseng, đã được chứng minh là có nhiều tác dụng sinh
học đáng chú ý.
GRg1 cho thấy một tác dụng bảo vệ thần kinh mạnh bằng cách giảm đáng
kể nhồi máu não và các chỉ số thần kinh trong mô hình chuột MCAO. Tuy khả
năng vận chuyển của GRg1 qua hàng rào máu não khá hạn chế; nhưng GRg1 lại
thể hiện tác dụng bảo vệ tương đối mạnh, chống lại những tổn thương hàng rào
máu não và có thể tác dụng này xuất phát từ tác dụng bảo vệ trực tiếp chống lại
thiếu máu cục bộ gây ra bởi thương tổn ở hàng rào máu não. Ngoài ra, GRg1 còn
có tác dụng bảo vệ thần kinh chống lại độc tính do 6-OHDA (6-hydroxydopamin)
gây ra trên tế bào MES23.5. Cơ chế của nó bao gồm việc tăng điều chỉnh sự biểu
hiện gen và protein của Bcl-2, kích hoạt sự phosphoryl hóa Akt cũng như ức chế
sự phosphoryl hóa ERK1/2 gây ra bởi 6-OHDA. [52], [99].
Ngoài tác dụng trên hệ thần kinh trung ương, GRg1 còn có khả năng thúc
đẩy sự phục hồi dây thần kinh sau những tổn thương thần kinh. Liều cao GRg1
giúp tái tạo và phục hồi chức năng của sợi trục thần kinh tốt hơn liều thấp GRg1 và
mecobalamin. Như vậy, GRg1 có thể được sử dụng như một tác nhân bảo vệ thần
kinh có tác dụng phục hồi thần kinh ngoại vi [50].
Với tác dụng bảo vệ thần kinh, GRg1 còn được sử dụng trong điều trị bệnh
Parkinson. Cơ chế bảo vệ thần kinh của GRg1 là chống lại apoptosis gây ra bởi
dopamine ngoại sinh trong các tế bào PC12. GRg1 làm giảm rõ rệt việc sản xuất
các loại oxy phản ứng gây ra bởi dopamin và giải phóng cytochrom c từ ti thể vào

trong tế bào chất và sau đó ức chế sự hoạt động của caspase-3. Ngoài ra, GRg1
21
cũng làm giảm mức protein iNOS và giảm sản xuất NO. GRg1 có thể làm hạn chế
sự chết tế bào theo chương trình do dopamine gây ra thông qua ức chế stress oxy
hóa nội bào, và nhờ đó có thể bảo vệ tế bào thần kinh dopamin trong bệnh
Parkinson [24].
Ngoài những tác dụng trên hệ thần kinh, Ginsenoside Rg1 còn có tác dụng
bảo vệ mạch máu. GRg1 có thể hạn chế sự giảm sản xuất NO do TNF-α gây ra
theo cách phụ thuộc liều. Thêm nữa, GRg1 có thể làm cho mức độ biểu hiện của
các protein như MEKK3, phosphoglycerat mutase giảm đi, còn nitric-oxid
synthase, mineralocorticoid receptor tăng lên ở HUVECs (tế bào nội mạc tĩnh
mạch rốn của con người) được kích thích bởi TNF-α. Việc GRg1 làm tăng sản
xuất NO đóng một vai trò quan trọng trong tác dụng bảo vệ các HUVECs bị TNF-
α kích thích [102].
Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng GRg1 là một phytoestrogen có hoạt
tính như estrogen, mà không cần có sự tương tác trực tiếp với thụ thể estrogen
(ERs) trong các tế bào ung thư vú ở người (MCF-7). Tác dụng giống như estrogen
của GRg1 thông qua trung gian các ERs nội sinh. GRg1có thể kích hoạt ERE-
luciferase hoạt động qua trung gian ER-α theo cách phụ thuộc liều (10
-14
đến 10
-6
M); trong khi đó, việc kích hoạt ERE-luciferase hoạt động qua trung gian ER-β
của GRg1 chỉ xảy ra ở nồng độ cao (10
-6
M) [98].
Kết quả nghiên cứu của Xi-Sheng Xie và cộng sự (năm 2009) cho thấy
GRg1 ngăn cản sự biến đổi hình thái trong NRK-52E và ức chế sự biểu hiện của
P-ERK1/2 tại NRK-52E gây ra bởi TGF- β1. GRg1 còn ức chế sự biểu hiện của α-
SMA và sự thiếu hụt E -cadherin, sau đó giảm mức collagen I và fibronectin theo

cách phụ thuộc vào liều. GRg1 có thể ức chế EMT qua cơ chế ngăn cản sự biểu
hiện của P-ERK1/2 in vitro và do đó nó cũng có vai trò chống xơ hóa ở thận [100].
Các phân tích mô học cho thấy rằng GRg1 cải thiện đáng kể mức độ xơ hóa
gan gây ra bởi thioacetamid ở chuột như ức chế các chỉ số xơ hóa trong huyết
thanh và hàm lượng hydroxyprolin gan. GRg1 làm giảm mức alanin transaminase,
aspartat transaminase và phosphatase kiềm trong huyết thanh và làm suy giảm các
chất phản ứng acid thiobarbituric trong gan ở chuột nhiễm thioacetamid. Như vậy,
GRg1 vừa có hoạt tính chống oxy hóa vừa có khả năng chống xơ hóa gan [47].
Ginsenosid Rg1 có thể là một tác nhân có tiềm năng phòng và điều trị ung
thư. GRg1 điều trị các tế bào u xương ác tính MG-63, làm giảm sự biểu hiện
nucleophosmin, là một phosphoprotein nhân chính có liên quan đến sự tổng hợp
rRNA, duy trì sự ổn định của hệ gen và sự phân chia của tế bào bình thường.
Nucleophosmin cũng có chức năng như một phân tử chaperon có thể tương tác với
22
nhiều oncogen và gen ức chế ung thư. GRg1 điều hòa các oncogen c-myc, c-fos và
gen ức chế khối u, P53, Rb [84].
Đặc biệt, ginsenosid Rg1 được biết là có nhiều tác dụng điều biến miễn
dịch, như tăng hoạt tính miễn dịch của tế bào T helper (T
h
). Kết quả nghiên cứu
cho thấy GRg1 giúp tế bào vật chủ chống lại sự lan rộng của nấm candida do phản
ứng miễn dịch qua trung gian tế bào CD4+ T từ một phản ứng cytokine do T
h
1 chi
phối [48].
Bảng 1.1. Tổng hợp tác dụng sinh học của một số chất có trong cây lược vàng
Stt Tên hoạt chất Tác dụng sinh học
1 Quercetin Chống oxy hóa, chống lão hóa [28], [97]
Bảo vệ gan [27]
Điều biến miễn dịch [73]

Chống viêm [36], [58]
Phòng chống ung thư [70]
2 Kaempferol Chống oxy hóa [60]
Chống viêm [36], [58]
Tác dụng gây chết tế bào theo chương trình trên nhiều dòng
tế bào ung thư, phòng chống ung thư [26], [71]
3 Isoorientin Chống oxy hoá [22], [29], [61]
Chống viêm [57]
Kháng khuẩn [32]
Bảo vệ gan, thận [35], [79]
Hạ đường huyết, chống đái tháo đường và chống béo phì [31]
4 Scopoletin Chống oxy hóa [90]
Hạ huyết áp [75]
Chống ung thư [64], [66]
Chống viêm khớp [80]
Chống trầm cảm [21]
5 Umbelliferon Chống oxy hóa [87]
Hạ đường huyết, chống đái tháo đường, chống tăng lipid máu
[85], [86], [88]
6 Aloe emodin Chống ung thư [23], [38], [56], [81]
Chống virus [62]
Chống viêm [69]
7 Acid caffeic Chống oxy hóa [49], [51]
Hạ đường huyết [49]
Chống viêm, làm lành vết thương [92]
8 Acid gallic Chống oxy hóa, bảo vệ gan [37], [44], [53], [89]
Tác dụng gây chết tế bào theo chương trình trên nhiều dòng
tế bào ung thư, phòng chống ung thư [37], [44], [53], [65],
[101]
9 Acid chicoric Chống đái tháo đường [95]

23
Tác dụng chống HIV [18], [40], [63], [83]
10 Ginsenosid Rg1 Tác dụng bảo vệ thần kinh [24], [50], [52], [99]
Tác dụng giống estrogen [98]
Chống xơ hóa [47], [100]
Bảo vệ mạch [102]
Chống ung thư [84]
Điều biến miễn dịch, chống nấm Candidas [48]
1.5. Một số chế phẩm chứa lược vàng
Kem bôi Callisia fragrans với nọc ong [42]
Dạng bào chế: tuýp kem 75ml
Nơi sản xuất: Nga – Ucraina
Thành phần: nước với ion bạc, sáp ong, nọc ong, dịch chiết lược vàng, dầu bách
xù, mật gấu…
Chỉ định: có tác dụng giảm đau, chống viêm, làm ấm nóng, hồi phục; phòng tránh
tích lũy muối, làm đĩa đệm cột sống đàn hồi và mềm dẻo hơn. Hỗ trợ điều trị viêm
đầu dây thần kinh, đau thần kinh tọa, gout.
Trà túi lọc Tâm Lan [12]
Dạng bào chế: trà túi lọc 120g/ hộp (30 túi x 4g)
Nơi sản xuất: Cơ sở Võ Thị Lấn, Tây Ninh
Thành phần: Cây hoàn ngọc (rễ, thân, lá) 40%, Cúc hoa 20%, Kim ngân hoa 20%,
Cây lược vàng 20%
Chức năng: Hỗ trợ điều trị rối loạn tiêu hóa, thanh nhiệt giải độc cho cơ thể
Cách sử dụng: Mỗi lần cho túi lọc vào cốc nước sôi, sau 3-5 phút là uống được, có
thể uống nhiều lần, dùng thay nước uống hằng ngày.
24
T I LIÀ ỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1.
Vũ Triệu An, Lê Đức Cư, Văn Đình Hoa, Nguyễn Ngọc Lanh, Đỗ Trung Phấn,

Phạm Hoàng Phiệt (1982), Những kỹ thuật cơ bản dùng trong miễn dịch học,
Nhà xuất bản Y học.
2.
Bộ môn Miễn dịch- Sinh lý bệnh (1992), Miễn dịch thiết yếu, Bản dịch của
Roitt I.M, Trường Đại học Y H Nà ội.
3.
Bộ môn Miễn dịch-Sinh lý bệnh (1997), Miễn dịch học, Trường Đại học Y Hà
Nội, Nh xuà ất bản Y học.
4.
Bộ Y tế (1996), Quy chế đánh giá tính an to n v hià à ệu lực của thuốc cổ
truyền, Phụ lục 3: Hướng dẫn về khảo sát độc tính của thuốc cổ truyền, (ban
h nh kèm theo quyà ết định 371 BYT/QĐ ng y 12/03/1996 cà ủa Bộ trưởng Bộ Y
tế), H Nà ội.
5.
Đ o Và ăn Chinh, Nguyễn Quốc Tuấn, Phạm Văn Thức (2002), Miễn dịch học
lâm s ng, à Nh xuà ất bản Y học.
6.
Đỗ Trung Đ m (1996), Phà ương pháp xác định độc tính cấp của thuốc, Nxb. Y
học, H Nà ội.
7.
Đỗ Trung Đ m, Sà ử dụng Microsoft Excel trong thống kê sinh học, Nxb. Y học,
H Nà ội, 2003.
8.
Trịnh Thị Điệp, Nguyễn Thượng Dong, Bùi Thị Bằng, Nguyễn Kim Phượng, Đỗ
Thị Phương, Lê Minh Phương, Nguyễn Thị Dung (2005), Tác dụng dược lý của
chế phẩm silymarin chiết xuất từ quả cúc gai di thực, Tạp chí dược liệu, tập 10,
số 5, tr. 142-146.
9.
Trịnh Thị Điệp, Bùi Thị Bằng, Nguyễn Kim Phượng, Nguyễn Thị Thu Hương và
cs. (2010), Tác dụng chống viêm và giảm đau của hai chế phẩm chiết xuất từ bài

thuốc chữa viêm đa khớp dạng thấp, Tạp chí Dược liệu, tập 15, số 2, tr.118-123.
10.
Trịnh Thị Điệp, Đỗ Thị Phương, Nguyễn Kim Phượng, Nguyễn Minh Khởi
(2008), Bước đầu nghiên cứu về thành phần hóa học v tác dà ụng sinh học của
cây lược v ng à Callisia fragrans (Lindl.) Woods., Tạp chí Dược liệu, Tập 13,
số 6, tr. 276-279.
11.
Nguyễn Thị Vinh Hà, Phạm Huy Quyến, Phan Thị Phi Phi (1994), “Về mô hình
gây suy giảm miễn dịch thực nghiệm”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học,
Đại học Y Hà Nội, 5, tr. 16-17.
12.
http://tra tamlan .com
25
13.
Phan Văn Kiệm, Châu Văn Minh, Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Tiến Đạt, Trần
Thu Hương, Lê Văn Sang, Lê Huyền Trâm, Ninh Khắc Bản (2009), Ginsenoside
Rg1 và L-Tryptophan từ cây lược vàng (Callisia fragrans), Tạp chí dược học.
14.
Châu Văn Minh, Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Tiến Đạt, Phan Văn Kiệm, Trần
Thu Hương, Lê Văn Sang, Lê Huyền Trâm, Ninh Khắc Bản (2009), Isoorientin
phân lập từ cây lược vàng và những hoạt tính sinh học đáng chú ý của hợp chất
này, Tạp chí Hóa học, 47 (4A), 400-404.
15.
Phan Thị Phi Phi, Nguyễn Thanh Đạm (1982), "Tác dụng tổn thương miễn dịch
trong chiếu tia", Chuyên san phóng xạ Bệnh viện Chợ Rẫy.
16.
Phạm Huy Quyến (1996), Tác dụng kích thích miễn dịch của dịch chiết rễ cây
Nh u trên súc và ật thí nghiệm, Luận án Phó tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y
H Nà ội.
17.

Viện Dược liệu – Bộ Y Tế (2006), Phương pháp nghiên cứu tác dụng dược lý
của thuốc từ Dược thảo, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 140-149, 231-258,
286-289.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
18.
Bailly F, Cotelle P (2005), Anti-HIV activities of natural antioxidant caffeic
acid derivatives: toward an antiviral supplementation diet, Curr Med Chem.;
12(15): 1811-8.
19. Betancur-Galvis LA, Saez J, Granados H, et al. (1999), Antitumor and antiviral
activity of Colombian medicinal plant extracts, Mem. Inst. Oswaldo Cruz, Rio
de Janeiro, Vol. 94(4), pp. 531-535.
20. BeverlyA.Teicher (1997) Anticancer drug development guide Preclinical
screening, Clinicaltrials and Approval. Humana Press, Totowa, New Jersey.
21.
Capra JC, Cunha MP, Machado DG, Zomkowski AD, Mendes BG, Santos AR,
Pizzolatti MG, Rodrigues AL. (2010), Antidepressant-like effect of scopoletin, a
coumarin isolated from Polygala sabulosa (Polygalaceae) in mice: Evidence for
the involvement of monoaminergic systems, Eur J Pharmacol; 643(2-3): 232-
238
22.
Cheel J, Theoduloz C, Rodríguez J, Schmeda-Hirschmann G (2005), Free
radical scavengers and antioxidants from Lemongrass (Cymbopogon citratus
(DC.) Stapf.), Agric Food Chem; 53(7) : 2511-7
23.
Chen SH, Lin KY, Chang CC, Fang CL, Lin CP (2007), Aloe-emodin-induced
apoptosis in human gastric carcinoma cells, Food Chem Toxicol; 45(11): 2296-
303.
24.
Chen Xiao-Chun, Zhu Yuan-Gui, Zhu Li-An, Huang Chun, Chen Ying, Chen
Li-Min, Fang Fang, Zhou Yi-Can, Zhao Chao-Hui (2003),Ginsenoside Rg1

attenuates dopamine-induced apoptosis in PC12 cells by suppressing oxidative
stress, European Journal of Pharmacology, 473, 1– 7
26
25. Chernenko T. V., Glushenkova A. I. Redzhepov D. (2007), Chemical
investigation of Callisia fragrans, Chemistry of natural compounds, Vol. 43 (3),
pp. 253-255.
26.
Choi EJ, Ahn WS (2008), Kaempferol induced the apoptosis via cell cycle arrest
in human breast cancer MDA-MB-453 cells. Nutr Res Pract. Winter; 2(4): 322-
5.
27.
Choi KC, Chung WT, Kwon JK, Yu JY, Jang YS, Park SM, Lee SY, Lee JC
(2010), Inhibitory effects of quercetin on aflatoxin B(1)-induced hepatic damage
in mice.Food Chem Toxicol.
28.
Chondrogianni N, Kapeta S, Chinou I, Vassilatou K, Papassideri I, Gonos ES.
(2010), Anti-ageing and rejuvenating effects of quercetin. Exp Gerontol.
29. Coelho R.G., Gonzalez F.G., Sannomiya M., Di Stasi L.C., Vilegas W. (2009).
Nat Prod Res. Vol. 23, 51-59.
30.
Ducrot R., Zulou L. et al. (1963), Ann. Pharm. Fr., 21, pp. 703-717.
31.
Ekrem Sezik, Mustafa Aslan, Erdem Yesilada, Shigeru Ito (2005),
Hypoglycaemic activity of Gentiana olivieri and isolation of the active
constituent through bioassay- directed fractionation techniques, Life Sciences,
Volume 76, Issue 11, Pages 1223-1238.
32. F. Cottigli, G. Loy, D. Garau, C. Floris, M. Caus, R. Pompei, L. Bonsignore
(2001), Antimicrobial evaluation of coumarins and flavonoids from the stems of
Daphne gnidium L. Phytomedicine, Volume 8, Issue 4, Pages 302-305
33. Flora of China Editorial Committee (2000) "Callisia". in Flora of China Vol. 24:

38-39. Science Press, Beijing, and Missouri Botanical Garden Press, St. Louis.
34. Flora of North America Editorial Committee (2000). "Callisia". in Flora of
North America Vol. 22. Oxford University Press.
35.
Gallo MB, Vieira PC, Fernandes JB, da Silva MF, Salimena-Pires FR. (2008),
Compounds from Vitex polygama active against kidney diseases, J
Ethnopharmacol; 115(2): 320-2.
36.
García-Mediavilla V, Crespo I, Collado PS, Esteller A, Sánchez-Campos S,
Tuñón MJ, González-Gallego J. (2007), The anti-inflammatory flavones
quercetin and kaempferol cause inhibition of inducible nitric oxide synthase,
cyclooxygenase-2 and reactive C-protein, and down-regulation of the nuclear
factor kappaB pathway in Chang Liver cells. Eur J Pharmacol; 557(2-3): 221-9.
37.
Giftson JS, Jayanthi S, Nalini N. (2010), Chemopreventive efficacy of gallic
acid, an antioxidant and anticarcinogenic polyphenol, against 1,2-dimethyl
hydrazine induced rat colon carcinogenesis, Invest New Drugs; 28(3): 251-9.
38.
Guo J, Xiao B, Zhang S, Liu D, Liao Y, Sun Q (2007), Growth inhibitory
effects of gastric cancer cells with an increase in S phase and alkaline
phosphatase activity repression by aloe-emodin, Cancer Biol Ther.; 6(1): 85-8.
39. Hans Gerhard Vogel (2008), Drug discovery and Evaluation, Pharmacological
Assays, 3
rd
Edition, Springer, 1013-1014, 1156-1164.
27

×