Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Xuất khẩu các sản phẩm giấy và năng lực cạnh tranh khi hội nhập ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.41 KB, 97 trang )

Lời mở đầu

Trong xu hướng hội nhập hoá, toàn cầu hoá về kinh tế các nước và nền kinh tế và
thế giới, hoạt động kinh tế trở nên hêt sức quan trọng, tạo tiền đề thúc đẩy nền kinh
tế các quốc gia cũng như thế giới phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu.
Cùng với sự hình thành các khu vực Thương mại tự do như EU, NAFTA, các nước
ASEAN cũng đang hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN (ASEAN
FREETRADEAREA – AFTA). Mở ra cho các nước trong khu vực những cơ hội và
thách thức hết sức to lớn. trong đó Việt Nam chúng ta.
Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các nướcdoanh nghiệp sản xuất giầy xuất
khẩu cần thấy được điểm mạnh điểm yếu, đánh giá khă năng cạnh tranh cũng như vị
thế của mình khi Việt Nam tham gia AFTA từ đó để đề ra các giải pháp nhằm phát
huy điểm mạnh hạn chế điểm yếu, gia tăng khả năng cạnh tranh của mình. Xuất
phát từ đòi hỏi này cũng như tình hình thực tế nơi cơ sở thực tập của mình, tôi chọn
đề tài: "Đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty giầy Thụỵ Khê trong điều kiện
hội nhập AFTA" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình nhằm đánh giá khả
năng cạnh tranh của công ty trong điều kiện hôị nhập AFTA từ đó đưa ra một số
định hướng, giải pháp cho công ty cũng như cơ quan quản lý trực tiếp là Sở công
nghiệp Hà Nội những kiến nghị nhằm giúp công ty gia tăng khả năng cạnh tranh
của mình.
Nội dung của đề tài bao gồm 3 chương.
Chương I : Lý luận chung về tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
và hội nhập AFTA.
Chương II: Đánh giá khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều
kiện hội nhập AFTA.
Chương III: Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty
Giầy Thụy Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA.
Chương I: Lý luận chung về tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và
hội nhập AFTA.
A. Cạnh tranh.
I. Một số lý luận chung trong nền kinh tế thị trường.


1. Thị trường - kinh tế thị trường - cơ chế thị trường và các quy luật của thị trường.
Khái niệm thị trường cho đến nay đã có rất nhiều trong quá trình phát triển của nó.
Mỗi khái niệm tiếp cận dưới một góc độ khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là để
trả lời câu hỏi:
Thị trường là gì?
- Theo quan điểm của hội quản trị Hoa Kỳ: “Thị trường là tổng hợp các lực lượng
trong đó người mua và người bán thực hiện cách quyết định chuyển giao hàng hoá
và dịch vụ từ người bán sang người mua".
- Thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau để tiến hành các cuộc mua
bán nhằm thoả mãn nhu cầu của mỗi bên.
- Thị trường là tổng thể cung cầu đối với một loại hàng hoá trên thị trường vận động
theo những quy luật riêng và điều tiết thị trường thông qua quan hệ cung cầu, đây là
định nghĩa mang nhiều tính lý thuyết.
- Ta cũng có thể nói rằng thị trường là nơi hàng hoá thực hiện các chức năng trao
đổi của nó. Theo Mác thị trường là biểu hiện của sự phân công lao động của xã hội
là một trong những khâu của quả trình tái sản xuất mở rộng, là lỉnh vực lưu thông
hàng hoá là nơi gặp gở của cung và cầu.
Đứng trên góc độ của doanh nghiệp thì thị trường của doanh nghiệp là tập
hợp các khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó tức là nơi khách hàng đang
mua và có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp vận dụng cho khái niệm thị
trường quốc tế của doanh nghiệp, ta có khái niệm “thị trường quốc tế của doanh
nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó“.
Bên cạnh đó nói tới thị trường đi liền với nó là khái niệm kinh tế thị trường, Cơ chế
thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mà các vấn đề cơ bản: sản xuất cái
gì? sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào là do thị trường quyết định. Nói cách
khác nền kinh tế thị trường là nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết, đó là cơ
chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới sự tác động khách quan của các qui luật
kinh tế vốn có. Nền kinh tế thị trường là cách thức tổ chức nền kinh tế xã hội trong
đó các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều thể hiện thông qua
hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và thái độ của từng thành viên

, chủ thể là hướng vào việc tìm kiếm lợi ích theo sự dẫn dắt của giá trị thị trường, cơ
chế thị trường thì ta định nghĩa cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ
môi trường động lực và các qui luật kinh tế chi phối sự vận động của cơ chế thị
trường.
Các qui luật này bao gồm qui luật giá trị,m qui luật cung cầu qui luật lưu thông, qui
luật cạnh tranh. Các qui luật trên đều có vị trí, vai trò độc lập song lại có mối liên hệ
chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và tạo ra sự vận động của thị trường, chi phối sự
hoạt động của các chủ thể kinh tế. Vì vậy, bất cứ một chủ thể nào hoạt động trong
nền kinh tế đều không thể không tính tới qui luật này, đặc biệt là các qui luật cạnh
tranh.
- Qui luật giá trị: Qui định hàng hoá được sản xuất ra và trao đổi trên cơ sở hao phí
hao phí lao động xã hội cần thiết tức là mức chi phí bình quân trong xã hội .
- Qui luật cung cầu: Nêu ra mối quan hệ giữa nhu cầu cung ứng trên thị trường. Qui
luật này qui định cung và cầu luôn có xu hướng chuyển dịch xích lại gần nhau để
tạo ra sự cân bằng trên thị trường.
- Qui luật lưu thông tiền tệ: Xác định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng
tổng số giá cả hàng hoá chia cho số lần luân chuyển trung bình của đơn vị tiền tệ
cùng loại.
- Qui luật cạnh tranh: Tồn tại tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá qui luật cạnh tranh
biểu hiện sự cạnh tranh giữa người bán và người mua giữa người bán và người bán
giữa người mua với người mua và luôn diễn ra mọi nơi mọi lúc trong tất cả các
hoạt động kinh tế trên thị trường.
Do đó trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp các chủ thể kinh tế luôn phải
năng động đáp ứng nhu cầu của thị trường, các doanh nghiệp này luôn phải cạnh
tranh gay gắt với nhau để tồn tại, phát triển và trong cuộc cạnh tranh khốc liệt nhằm
đạt tới lợi nhuận cao nhất.
2. Cạnh tranh - đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là thuộc tính quan trọng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh
là sự đấu tranh gay gắt quyết định giữa các nhà sản xuất, kinh doanh vời nhau dựa
trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm chiếm được những điều kiện

sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo ra điều kiện thúc đẩy sản xuất phát
triển. Do đó, nói tới cạnh tranh là ta không thể không nói đến các nhân tố cấu thành
cạnh tranh. Cạnh tranh chỉ xẩy ra khi có đủ ba yếu tố sau đây:
Một là, các chủ thể kinh tế tham gia cạnh tranh, tức là những người có cung và có
cầu về hàng hoá và dịch vụ.
Hai là, đối tượng để thực hiện sự cạnh tranh tức là hàng hoá dịch vụ.
Ba là, môi trường cho cạnh tranh đó chính là thị trường.
Tuỳ theo từng góc độ tiếp cận chúng ta có thể phân cạnh tranh theo các nội dung
khác nhau:
+ Theo chủ thể tham gia trên thị trường, cạnh tranh được chia làm ba loại :
Một là, Cạnh tranh giữa người bán và người mua.
Hai là, cạnh tranh giữa người mua với người bán.
Ba là, cạnh tranh giữa người bán với người bán.
Cạnh tranh giữa người babs với ngươi mua là cuộc cạnh tranh diễn ra dưới hình
thức sẽ bán đắt, người bán luôn mong muốn bán sản phẩm, dịch vụ của mình với
giá cao. Trong khi người mua lại muốn mua với giá thấp. Sự cạnh tranh được thực
hiện trong quá trình vẫn thường gọi là quá trình "mặc cả” với mức giá chấp nhận là
giá thống nhất giữa người bán và người mua.
Cạnh tranh giữa người mua với nhau là cuộc cạnh tranh trên cơ sở qui luật cung
cầu. Khi mức cung của một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó nhỏ hơn mức cầu hoặc
thay đổi thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Và giá cả của hàng hoá, dịch vụ đó
sẽ tăng lên. Ta vẫn biết rằng đường cầu của mỗi cá thể không hoàn toàn giống
đường tổng cầu nên nếu người nào đưa ra được giá chung thống nhất phù hợp nhất
thì người đó sẽ thắng trong cuộc cạnh tranh này.
Cạnh tranh giũa người bán với người bán là cuộc cạnh tranh giữa những người cung
cấp, hàng hoá, dịch vụ ra thị trường nhằm bán được nhiều hàng hoá,dịch vụ. Đối
với mỗi doanh nghiệp đây là ý nghĩa sống còn, trong điều kiện quốc tế hoá , khu
vực hoá thì hội nhập thì cuộc cạnh tranh này lại càng khốc liệt hơn.
Theo phạm vi ngành kinh tế: Michael Porter đã chia cạnh tranh thành năm nhân tố
cạnh tranh.

1) Cạnh tranh giữa những người mới đi vào sản xuất kinh doanh ở ngành công
nghiệp đối với những doanh nghiệp của ngành.
Sự xuất hiện của các công ty mới tham gia vào thị trường có khả năng chiếm lĩnh
thị trường ( thị phần) của các công ty khác, để hạn chế sự cạnh tranh giữa các đối
thủ này các doanh nghiệp thường dựng lên các hàng rào như.
+ Mở rộng khối lượng sản xuất của công ty để giản chi phí.
+ Dị biệt hoá sản phẩm.
+ Mở rộng khả năng cung cấp vốn.
+ Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối tăng đầu tư vốn.
+ Mở rộng các dịch vụ bổ sung.
Ngoài ra có thể lựa chọ địa điểm thích hợp nhằm khai thác sự hỗ trợ của chính phủ
và chon lựa đungs đắn thị trường nguyên liệu và thị trường sản phẩm.
2) Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất và các nhà cung cấp. Sự cạnh tranh
ảnh hưởng đến doanh nghiệp về khía cạnh sinh lợi, tăng giá hoặc giảm giá, giảm
chất lượng hàng hoá khi tiến hành giao dịch với công ty.
3) Cạnh tranh giữa doanh nghiệp và những người mua. Khách hàng có thể mặc cả
thông qua sức ép làm giảm giá, giảm khối lượng hàng hoá mua từ công ty hoặc đưa
ra yêu cầu chất lượng phải tốt hơn với cùng một mức giá.
4) Cạnh tranh giữa các sản phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm thay thế khi giá cả
của sản phẩm, dịch vụ tăng lên thì khách hàng có xu hướng sử dụng sản phẩm dịch
vụ thay thế sự cạnh tranh này đe doạ sự mất mát về thị trường của công ty. Các
công ty đưa ra thị trường những sản phẩm có khả năng khác biệt hoá cao độ so với
sản phẩm của công ty hoặc tạo ra các điều kiện ưu đãi hơn về các dịch vụ hay các
điều kiện tài chính.
5) Cạnh tranh trong mọi bộ ngành. Trong điều kiện này các công ty cạnh tranh với
nhau khốc liệt về giá cả, sự khác biệt hoá về sản phẩm hoặc sự đổi mới về sản phẩm
giữa các công ty hiện đang cùng tồn tại trong thị trường.
Sự cạnh tranh này ngày càng gay gắt là do các đối thủ cạnh tranh nhiều và gần như
cân bằng; do sự tăng trưởng của ngành công nghiệp hiện đại ở mức độ thấp ; do các
loại chi phí ngày càng tăng ; do chưa quan tâm tới quá trình khác biệt hóa sản phẩm

hoặc các chi tiết về chi phí do sự thay đổi của các nhà cung cấp ; do các đối thủ
cạnh tranh có chiến lược kinh doanh đa dạng, có xuất xứ khác nhau ; do các hàng
rào kinh tế làm cho công ty khó có thể tự do di chuyển giữa các ngành.
3. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh.
Chính sự cạnh tranh đã tạo ra động lực cho nền kinh tế phát triển tạo nên sức thu
hút, hấp dẫn cho nền kinh tế, không có cạnh tranh thì sẽ không có cơ chế thị trường,
cạnh tranh chính là sự thể hiện tính tự do ưu việt của nền kinh tế thị trường, nó luôn
luôn thúc đẩy cac doanh nghiệp ngày càng hòan thiện các sản phẩm, dịch vụ, đáp
ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp
đánh giá nhìn lại bản thân mình, phát huy điểm mạnh , khắc phục điểm yếu vận
dụng cơ hội, vượt qua được những khó khăn thử thách.
Vì vậy cạnh tranh lành mạnh luôn là mục tiêu mà xã hội thị trường và bản thân mỗi
doanh nghiệp mong muốn duy trì đạt tới.
Cạnh tranh là nhân tố kích thích tạo nguồn cho doanh nghiệp phát triển.
Nhưng mặt khác, cạnh tranh cũng rất khắc nghiệt. Cạnh tranh chỉ thực sự giúp đỡ
cho những doanh nghiệp có đủ khả năng, năng lực buộc các doanh nghiệp phải cố
gắng không ngừng nghỉ nó sẵn sàng loại bỏ không khón nhượng những kẻ lười nhác
không còn đủ khả năng thích nghi, sinh hoạt. Cạnh tranh diễn ra ở khắp nơi ta có
thể nói rằng sự hiện diện của cạnh tranh là hữu hình mà cũng có thể nói là vô tình.
Cạnh tranh lúc diễn ra công khai lúc diễn ra ngấm ngầm lúc dữ dội, lúc phẳng lặng
giữa mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế mỗi doanh nghiệp nào biết nắm bắt cơ hội tìm
được hướng đi đúng đắn.
Xét riêng đến các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để tăng lợi nhuận mở rộng thị
trường hoạt động họ tìm cách vươn ra thị trường nước ngoài. Đối với doanh nghiệp
của các quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay phương thức kinh doanh
quốc tế chủ yếu vẫn là xuất khẩu. Tuy nhiên thị trường nước ngoài với những đối
thủ cạnh tranh rất mạnh về tiềm lực. Ví vậy muốn tăng gia xuất khẩu thì phải tăng
khả năng cạnh tranh của chính mình nhằm chiếm và giữ lấy cho mình một thị phần
nhất định hay nói cách khác tăng kgả năng cạnh tranh là biên pháp nhàm tăng khả

năqng xuất khẩu.
Như vậy, rõ ràng cạnh tranh sẽ có tác động mạnh thực sự có tinh thần cầu thị, có
đạo đức kinh doanh tạo ra cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
II. Mô hình phân tích khă năng cạnh tranh của các doanh nghiệp (mô hình SWOT).
Mô hình SWOT là viết tắt của chữ Streng ths (các điểm mạnh) Oppotunities (các cơ
hội) Weaknesses (Các điểm yếu), Threates (Các thách thức). Trên cơ sở phân tích 4
nhân tố trên để tìm ra các điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp cũng như cơ hội,
thách thức đối với doanh nghiệp trên thị trường. Để từ đó các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp trên thị trường ở thời điểm hiện nay và giúp cho doanh nghiệp để ra được
những chiến lược đúng đắn trong giai đoạn trước mắt và tương lai sau này.
Sơ đồ mô hình phân tích khả năng cạnh tranh.
1. Phân tích bên ngoài:
Đây là sự phân tích các yếu tố của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp tìm ra các cơ hội cũng
như các thách thức đối với doanh nghiệp.
Các yếu tố bên ngoài có thể là yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị , yếu tố pháp luật,
yếu tố văn hoá xã hội, yếu tố khoa học công nghệ, yếu tố tự nhiên
Các yếu tố này là tác động gián tiếp khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do
vậy, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu phân tích các yếu tố của môi trường bên
ngoài để tăng cơ hội, giảm thách thức hạn chế rủi ro một cách tối thiểu cho doanh
nghiệp và trên cơ sở phân tích đó lựa chọn chiến lược hợp lý cho doanh nghiệp.
2. Phân tích bên trong.
Đây là sự phân tích các yếu tố bên trong của doanh nghiệp hay là các nhân tố nội
tại của doanh nghiệp việc phân tích tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:
- Cơ cấu tổ chức.
- Đội ngũ cán bộ quản lý.
- Khả năng tài chính.
- Trình độ công nghệ
Từ việc phân tích những yếu tố trên, Doanh nghiệp sẽ tìm ra được những điểm
mạnh, điểm yếu của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp sẽ biết mình

sẽ đứng ở đâu trên thị trường, thị phần hiện tại của các doanh nghiệp là bao nhiêu,
khả năng tăng thị phần của doanh nghiệp trong thời gian sắp tới, khả năng phát
triển của doanh nghiệp trong tương lai một kẻ chiến thắng là kẻ biết mình, biết
người có như vậy doanh nghiệp mới biết được đâu là những mặt, những yếu tố đã
đang và sẽ gây ảnh hưởng cản trở cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Có
biết được nhược điểm và những điểm mạnh của mình thì doanh nghiệp mới biết
được cách để khắc phục, giải quyết vấn đề đang và sẽ đặt ra đối với Doanh nghiệp.
3. Mô hình đa giác cạnh tranh
Đứng trước một thị trường và các đối thủ cạnh tranh, Các doanh nghiệp cần thiết
lập được một bản đánh giá tương đối về các điểm mạnh và các điểm yếu của mình.
Điều này đặt ra hai vấn đề chính: Một mặt doanh nghiệp có những năng lực nào
vượt trội và mặt khác, tình trạng hiện tại hoặc tiềm năng của các doanh nghiệp như
thế nào. Phân tích khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tức là nghiên cứu
những nguồn lực mà doanh nghiệp có từ môi trường khu vực và trong nước.
Phương pháp có thể được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh là dùng đồ thị
dưới dạng đa giác cạnh tranh đa giác này mô tả khả năng của doanh nghiệp theo các
yếu tố trong mối quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh hoặc một tập hợp các
đối thủ cạnh tranh để xây dựng một phân tích về khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Khi chồng sơ đồ này lên nhau ta có thể thu được nhanh chóng những ưu thế
tương đối của doanh nghiệp.
Các yếu tố xuất phát từ khả năng của doanh nghiệp.
- Chất lượng sản phẩm: Đây là yếu tố quan trọng nhất được đánh giá một cách
khách quan bằng những định mức, những yêu cầu khác nhau về thị trường nước
ngoài.
- Giá cả cũng là một loại công cụ dùng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp cùng với chất lượng và các điều kiện như nhau thì giá cả thấp hơn khả năng
cạnh tranh của sản phẩm sẽ cao hơn.
- Bán hàng xét theo góc độ phương pháp và các phương tiện thương mại, cách thức
bán hàng của doanh nghiệp.
- Ngoại giao là khả năng điều hành theo hướng tích cực những mối liên hệ với các

nhân tố của môi trường điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh của mình. Đây là những tiền đề cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình và mở rộng thị trường.
- Trước bán hàng là khả năng dự báo nhu cầu của thị trường và áp dụng các hoạt
động thành thạo để thuyết phục khách hàng và khả năng đáp ứng nhu cầu của
khách hàng tôt nhất thì doanh nghiệp không những đứng vững trên thị trường mà
còn có thể mở rộng thị trường của mình.
- Tài chính theo nghĩa là các nguồn tài chính hiện có và có thể huy động một cách
nhanh chóng . doanh nghiệp có thể mở rộng và sản xuất kinh doanh tăng cường hoạt
động nghiên cứu triển khai, mở rộng thị trường đều phải dựa trên nguồn tài chính
hiện có và khả năng huy động nhanh chóng.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào cũng đều phải chịu sự
tác động của môi trường xung quanh và chiụ sự tác động từ chính bản thân doanh
nghiệp. Do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào bản
thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác của môi
trương xung quanh doanh nghiệp. Nhìn chung có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, song tóm gọn lại đều có ba nhóm nhân tố
cơ bản sau.
- Môi trường vĩ mô.
- Môi trường ngành: Mô hình 5 sức mạnh của Michael porter.
- doanh nghiệp,.
1. Môi trường vĩ mô.
Môi trường vĩ mô chính là môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động.
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều nhân tố phức tạp ảnh
hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Môi trường đó chính là tổng
thể các nhân tố cơ bản : Nhân tố kinh tế, nhân tố chính trị và pháp luật, nhan tố xã
hội , nhân tố tự nhiên, nhân tố công nghệ. Mỗi hnhân tố này tác động và chi phối
mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng có thể là cơ hội
hoặc thách thức đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải có sự am hiểu về

các nhân tố trên và đưa ra cách ứng xử cho phù họp đối với những đòi hỏi; những
biến động của chúng đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thì vấn đề này
cần được coi trọng.
a. Nhân tố kinh tế.
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn với doanh nghiệp và là nhân tố quan trọng nhất
trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, Một nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo
đà cho doanh nghiệp phát triển, nhu cầu dân cư sẽ tăng lên đồng nghĩa với một
tương lai sáng sủa, điều này cũng có nghĩa là tốc dộ tích luỹ vốn đầu tư trong nền
kinh tế cũng tăng lên , mức độ hấp dẫn đầu tư và ngoài cũng sẽ tăng lên cao, sự
cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Thị trường được mở rộng đây chính là cơ hội tố
cho những doanh nghiệp biết tận dụng thời cơ, biết tự hoàn thiện mình, không
ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Nhưng nó cũng chính là thách thức đối với
những doanh nghiệp không có mục tiêu rõ ràng, không có chiến lược hợp lý.
Chạy đua không khoan nhượng đối với tất cả các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp
nước ngoài cũng như doanh nghiệp ở trong nước dù là doanh nghiệp đó đang hoạt
động ở thị trường nội địa hay thị trường nước ngoài. Và ngược lại khi nền kinh tế bị
suy thoái, bất ổn định , tâm lý người dân hoang mang, sức mua của người dân giảm
sút , các doanh nghiệp phải giảm sản lượng phải tìm mọi cách để giữ khách hàng,
lợi nhuận doanh số cũng sẽ giảm theo trong lúc đó sự cạnh tranh trên thị trường lại
càng trở nên khốc liệt hơn.
Các yếu tố của nhân tố kinh tế như tỷ lệ lãi suất, tỷ lệ lạm phát tỷ giá hối đoái
cũng tác động đến khả năng tài chính của doanh nghiệp.
b. Nhân tố chính trị và pháp luật.
Chính trị và pháp luật có tác dụng rất lớn đến sự phát triển của bất cứ doanh nghiệp
nào, nhất là đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Chính trị và pháp luật
là nền tảng cho sự phát triển kinh tế cũng như là cơ sở pháp lý cho các doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất cứ thị trường nào dù là trong nước hay
nước ngoài.
Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có một nền kinh tế ổn định, phát triển
thực sự lâu dài và lành mạnh. Luật pháp tác động điều chỉnh trực tiếp đến hoạt động

của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mỗi thị trường đều có hệ thống pháp luật
riêng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi
trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đặc biệt đối với
từng doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng của quan hệ
giữa các chính phủ, các hiệp định kinh tế quốc tế Các doanh nghiệp này cũng đặc
biệt quan tâm tới sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia. Sự khác biệt này có
thể sẽ làm tăng hoặc giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp những đièu này sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động, chính sách kế hoạch chiến lược phát triển, loại
hình sản phẩm danh nghiệp sẽ cung cấp cho thị trường.
Vì vậy, các doanh nghiệp luôn luôn cần một nền kinh tế ổn định một môi trường
pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức
trong nền kinh tế. Khuyến khích phát triển, tham gioa khả năng cạnh tranh.
c. Nhân tố xã hội :
Nhân tố xã hội thường biến đổi hoặc thay đổi dần dần theo thời gian nên đôi khi
khó nhận biết nhưng lại qui định các đặc tính của thị trường mà bất cứ doanh nghiệp
nào cũng phải tính đến khi tham gia vào thị trường đó cho dù có muốn sống hay
không. Nhân tố xã hội có thể bao gồm.
-Lối sống, phong tục, tập quán.
-Thái độ tiêu dùng.
-Trình độ dân trí.
-Ngôn ngữ.
-Tôn giáo.
-Thẩm mỹ
Chúng quyết định hành vi của người tiêu dùng, quan điểm của họ về sản phẩm, dịch
vụ, chúng là những điều mà không ai có thể đi ngược lại được nếu muốn tồn tại
trong thị trường đó. Ví dụ như ở những thị trường luôn có tư tưởng đề cao sản phẩm
nội địa như ấn Độ, Nhật Bản thì các sản phẩm ngoại nhập sẽ kém khả năng cạnh
tranh so với các Doanh nghiệp của quốc gia đó. Sự khác biệt về xã hội sẽ dẫn đến
việc liệu sản phẩm của Doanh nghiệp khi xuất sang thị trường nước ngoài đó có
được thị trường đó chấp nhận hay không cũng như việc liệu doanh nghiệp đó có đủ

khả năng đáp được yêu cầu của thị trường mới hay không. Vì vậy các doanh nghiệp
phải tìm hiếu nghiên cứu kỹ các yếu tố xã hội tại thị trường mới cũng như thị
trường truyền thống để từ đó tiến hành phân đoạn thị trường, đưa ra được những
giải pháp riêng. Đáp ứng thị trường tốt nhất yêu cầu của thị trường để nâng cao khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
d. Nhân tố tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn
cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh vị trí địa lý thuận lợi ở trung tâm công
nghiệp hay gần nhất nguồn nguyên liệu, nhân lực trình độ cao, lành nghề hay các
trục đường giao thông quan trọng sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển,
giảm được chi phí. Các vấn đề ô nhiểm môi trường, thiếu năng lượng, lãng phí tài
nguyên thiên nhiên. Cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với các nguồn lực có hạn
khiến cho xã hội cũng như các doanh nghiệp phải thay đôỉ quyết định và các biên
pháp hoạt động liên quan.
e. Nhân tố công nghệ.
Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
thông qua chất lượng sản phẩm và giá bán bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất
ra cũng đều phải gắn với một công nghệ nhất định. Công nghệ sản xuất đó sẽ quyết
định chất lượng sản phẩm cũng như tác động tới chi phí cá biệt của từng doanh
nghiệp từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp.
Khoa học công nghệ tiên tiến sẽ giúp các doanh nghiệp xử lý thông tin một cách
chính xác và có hiệu quả nhất trong thời đại hiện nay, bất kỳ một doanh nghiệp nào
muốn thành công cũng cần có một hệ thống thu thập, xử lý, lưu trữ, truyền phát
thông tin một cách chính xác, đầy đú nhanh chóng hiệu quả về thị trường và đối thủ
cạnh tranh. Bên cạnh đó, khó học công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra một hệ thống cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như thị trường
doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, có thể nói rằng khoa học công nghệ là tiền đề cho
các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
2. Môi trường ngành.
Môi trường ngành là môi trường bao gồm các doanh nghiệp trong cùng tham gia

hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường ngành còn được hiểu là môi trường
cạnh tranh của doanh nghiệp sự tác động của môi trường ngành ảnh hưởng tới khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp là điều không thể phủ nhận.
Môi trường ngành bao gồm năm nhân tố cơ bản là : đối thủ cạnh tranh, người mua,
người cung cấp, các đối thủ tiềm ẩn và các đối thủ thay thế. Đó là nhân tố thuộc mô
hình 5 sức mạnh của Michael porte. Sự am hiểu các nguồn sức ép cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp nhân ra mặt mạnh mặt yếu cũng như các cơ hội và thách thức mà
doanh nghiệp ngành đó đã và đang và sẽ gặp phải.
a. Đối thủ cạnh tranh.
Sự am hiểu về đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các
doanh nghiệp. Cha ông ta đã có câu “biết mình biết trăm trận trăm thắng" Do đó
doanh nghiệp cần phải hiểu rõ đối thủ cạnh tranh.
Có thể thấy trước hết là đối thủ cạnh tranh quyết định mức độ cuộc tranh đua để
giành lợi thế trong ngành và trên thị trường nói chung.
Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số
lương các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp đưa ra được
những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ và tăng thi phần nâng cao khả năng cạnh
tranh.
b. Khách hàng .
Câu nói “khách hàng là thương đế” luôn luôn đúng đối với mọi doanh nghiệp bất
cứ một doanh nghiệp nào cũng không được quyên rằng khách hàng luôn luôn đúng
nếu họ muốn thành công, chiếm lĩnh thị trường. Những khách hàng mua sản phẩm
của một ngành hay một doanh nghiệp nào đó thì họ có thể làm giảm lợi nhuận của
ngành đấy, của doanh nghiệp đấy bằng cách yêu cầu chất lượng sản phẩm hặc dịch
vụ cao hơn, hoặc có thể bằng cách dùng doanh nghiệp này chống lại doanh nghiệp
kia.
Vì vậy, trong thực tế khách hàng thường có quyền lực trong các trường hợp sau.
Khi có nhu cầu khách hàng là ít hơn so với lương cung trên thị trường về sản phẩm
nào đó thì họ có quyền quyết định về gía cả.
Các sản phẩm mà khách hàng mua phá tỷ lệ đáng kể trong chi tiêu của người mua.

Nếu sản phẩm đó chiếm một tỷ trọng hơn trong chi tiêu của người mua thì gía cả là
một vấn đề quan trọng đối với khách hàng đó. Do đó họ sẽ mua với giá có lợi và sẽ
chọn mua những sản phẩm có giá trị thích hợp.
Những sản phẩm mà khách hàng mua trong khi không được cung cấp đầy đủ về
thông tín và chủng loại, chất lượng, đặc tính, hình thức, kiếu dáng của sản phẩm thì
họ có xu hướng đánh dòng các sản phẩm cùng loại trên thị trường với nhau họ sẽ có
xu hướng thiên về hướng bất lợi cho doanh nghiệp vì họ không thể đánh giá cũng
như hiểu chính xác được rõ giá trị của sản phẩm doanh nghiệp sản xuất.
Khách hàng phải chịu chi phí đặt cọc do đó chi phí đặt cọc rõ ràng buộc khách hàng
với người bán nhất định.
Khách hàng có thu nhập thấp tạo ra áp lực phải giảm chi tiêu cho việc mua bán của
mình.
Khách hàng cố gắng khép kín sản xuất tức là họ cố gắng trở thành người cung cấp
cho chính mình.
Mặt khác khi khách hàng có đầy đủ thông tin và nhu cầu giá cả thị trường hiện hành
và chi phí của người cung cấp thì quyền “mặc cả” của họ càng lớn.
c. Nhà cung cấp.
Sức ép của nhà cung cấp liên doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng. Họ
có thể chi phối đến hoạt động của doanh nghiệp do sự độc quyền của một số nhà
cung cấp những nguyên vật liệu chi tiết đặc dụng họ có thể tạo ra sức ép lên
doanh nghiệp bằng việc thay đổi gía cả, chất lượng nguyên vật liệu. được cung cấp
Những thay đổi này có thể làm tăng hoặc giảm chi phí sản xuất, chất lượng sản
phẩm và lợi nhuận từ đó tác động tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
d. Đối thủ tiềm năng.
Đối thủ tiềm năng là những người sẽ đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở ngành
doanh nghiệp đang hoạt động hoặc ở những ngành sản xuất sản phẩm, dịch vụ thay
thế. Họ có khả năng mở rộng hoạt động chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp, họ
có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đứng trước nguy cơ này, các doanh nghiệp phải cùng liên kết và dựng lên các hàng
rào chắc vô hình và hữu hình đối vơi các đối thủ cạnh tranh tièem năng.

e. Sức ép của sản phẩm thay thế.
Sức ép của sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do mức
giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh
nghiệp có thể bị tụt lại với nhu cầu thị trường.
Phần lớn các sản phẩm thay thế mới là kết quả của sự tiến bộ về công nghệ. Muốn
đạt được thành công các doanh nghiệp cần phải chú ý và giành nguồn lực để phát
triển hay vận dụng công nghệ mới vào chiến lược của mình.
3. Doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp sức mạnh từ các nguồn lực hiện
có và có thể huy động được với doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp được thể hiện chủ yếu qua nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài
chính tổ chức, kinh nghiệm.
a. Nguồn nhân lực.
Ngày nay thông thường khi đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, người
ta thường đánh giá trước tiên nguồn nhân lực của doanh nghiệp:
Yếu tố nhân lực được coi là tài sản vô cùng quý báu cho sự phát triển thành công
của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp.
Với một đội ngũ nhân lực tốt, doanh nghiệp có thể được làm đựợc tốt tất cả những
gì như mong muốn, đội ngũ nhân lực này sẽ làm tăng các nguồn lực khác cho doanh
nghiệp khác lên một cách nhanh chóng, trí tuệ chất xám là những thứ vô cùng quý
giá. Nó tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, ưu viêt hơn với giá thành thấp nhất,
đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng, đưa doanh nghiệp vượt lên trên các đối thủ
cạnh tranh. Một đội ngũ công nghiệp lãnh đạo, quản lý giàu kinh nghiệm, trình độ
cao, năng động, linh hoạt và hiểu biết sẽ đem lại cho doanh nghiệp không chỉ là
lợi ích trước nmắt như tăng doanh thu, tăng lợi nhuận mà cả uy tín của doanh
nghiệp. Họ sẽ đưa ra nhiều ý tưởng chiến lược sáng tạo phù hợp với sự phát triển và
trưởng thành của doanh nghiệp cũng như phù hợp với sự thay đổi của thị trường.
Bên cạnh đó nguồn nhân lực của một doanh nghiệp phải đồng bộ sự đồng bộ này
không chỉ xuất phát từ thực tế là đội ngũ công nghiệp của doanh nghiệp là từ những
nhóm người khác nhau mà còn xuất phát từ năng lực tổng hợp riêng thu được từ

việc kết hợp nguồn nhân lực về mặt vật chất, tổ chức trình độ tay nghề, ý thức kỹ
luật, lòng hăng say lao động sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo tăng năng suất lao
động, nâng cao chất lượng sản phẩm.
b. Nguồn lực vất chất.
Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến phù
hợp với qui mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ nâng cao năng lực sản xuất,
làm tăng khả năng của doanh nghiệp lên rất nhiều với một cơ sở vật chất tốt , chất
lượng sản phẩm sẽ được nâng lên cao hơn cùng với việc hạ giá thành sản phẩm kéo
theo sự giảm giá bán trên thị trường. Khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của
doanh nghiệp sẽ rất lớn, ngược lại không một doanh nghiệp nào lại có khả năng
cạnh tranh cao khi mà công nghề sản xuất lạc hậu, maúy móc thiết bị cũ kỹ sẽ làm
giảm chất lượng sản phẩm, tăng chi phí sản xuất. Nguồn lực vật chất có thể là:
- Tình trạng trình độ máy móc công nghệ , khả năng áp dụng công nghệ mối tác
động đến chất lượng, kiểu dáng, hình thức giá thành sản phẩm.
- Mạng lưới phân phối: Phương tiện vận tải, cách thức tiếp cận khách hàng .
- Nguồn cung cấp: ảnh hưởng đến chi phí lâu dài và đầu ra trong việc đảm bảo cho
sản xuất được liên tục, ổn định.
- Vị trí địa lý của doanh nghiệp cũng có thể tác động đến chi phí sản xuất, (đất đai,
nhà cửa, lao động, ) nguồn nguyên liệu, sự thuận tiện của khách hàng.
c. Nguồn lực tài chính.
Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng trong quyết định khả năng sản xuất cũng
như là chỉ tieu hàng đầu để đánh giá qui mô của doanh nghiệp.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị , nguyên liệu hay phân phối,
quảng cáo cho sản phẩm đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của
doanh nghiệp, một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả năng
trang bị công nghệ máy móc hiện đại, Bởi vì bất có một hoạt động đầu tư mua
saqứm trang thiết bị nào cũng phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của
doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính hùng mạnh sẽ có khả năng
trang bị dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, đảm bảo chất lượng, hạ giáthành
sản phẩm, giá bán sản phẩm tổ chức các hoạt động quảng cáo khuyến mại mạnh mẽ

nâng cao sức cạnh tranh. Ngoài ra, với một khả năng tài chính hùng mạnh, doanh
nghiệp cũng có khả năng chấp nhận lỗ một thời gian ngắn để hạ giá thành sản phẩm
nhằm giữ vững và mở rộng thị phần cho doanh nghiệp để tăng giá, thu lợi nhuận
nhiều hơn.
Vì vậy vấn đề tài chính luôn luôn là vấn đề gây nhiều trăn trở cho nhà quản lý.
Không chỉ vậy trong nền kinh tế thị trường, trở thành biểu tượng cho sự giàu có
phát đạt, sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp nguồn tài chính vững chắc sẽ là chỗ
dựa vững chắc cho các doanh nghiệp dành được sự tin cậy, đầu tư từ phía khách
hàng lẫn nhà đầu tư nước ngoài.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu hay vốn tự có và các
nguồn vốn khác có thể huy động được. Tài chính không chỉ gồm các tài sản lưu
động và tài sản cố định của doanh nghiệp, mà gồm cả các khoản vay, khoản nhập sẽ
có trong tương lai và cả giá trị uy tín của doanh nghiệp đó trên thị trường. Vốn tự có
có thể do các thành viên sáng lập đóng góp hoặc do một phần lợi nhuận được để lại
từ đầu tư, hoặc vốn góp thêm của các cổ đông sau này. Vốn vay có thể được huy
động từ ngân hàng các tổ chức tài chính các đơn vị quen biết. Thiếu nguồn tài
chính cần thiết , doanh nghiệp có thể bị phá sản, sụp đỗ bất cứ lúc nào. Tài chính
được coi là phương tiện chủ yếu vũ khí sắc bén để tấn công, đánh thắng các đối thủ
cạnh tranh .
Doanh nghiệp nào không đủ khả năng tài chính sẽ bị thôn tính bới các đối thủ hùng
mạnh hơn hoặc tự rút lui khỏi thị trường.
d. Tổ chức.
Mỗi doanh nghiệp phải có một cơ cấu tổ chứcđịnh hướng cho phần lớn các công
việc trong doanh nghiệp.
Nó ảnh hưởng đến phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị, quan điểm
của họ đối với các chiến lược và điều kiện của doanh nghiệp. Cơ cấu nề nếp tổ chức
có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạt động thực hiện chiến lược hoặc thúc
đẩy các hoạt động đó không phát huy tính năng động sáng tạo của các thành viên
trong doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có cơ cấu tổ chức hợp lý, năng động sẽ có
nhiều cơ hội thành công hơn các doanh nghiệp khác.

e. Kinh nghiệm.
Kinh nghiệm sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác nhu cầu
trên thị trường trong từng thời kỳ, từ đó giúp doanh nghiệp chủ động trong việc sản
xuất kinh doanh không bị ứ đọng vốn, tồn kho qúa nhiều sản phẩm tiết kiệm được
nhiều chi phí khác.
Vì vậy, có thể nói, kinh nghiệm là thứ vô cùng quí giá đối với sự hoạt động thành
công của mỗi doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động chức năng khác của doanh nghiệp
có khả năng thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của người
lãnh đạo doanh nghiệp, của các cán bộ quản lý bộ phận
B. AFTA và hội nhập AFTA.
1. Cơ sở hình thành AFTA.
Quá trình quốc tế hoá đời sỗng kinh tế thế giới đang diễn ra ở nhữn nơi cấp độ khác
nhau, với xu hướng toàn cầu hoá đi đôi với xu hướng khu vực hoá.
Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trường thế giới thống nhất một hệ thống
tài chính, tín dụng toàn cầu là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc
tế theo chiều sâu , là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các
nước trên quy mô toàn cầu, là việc giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội có tính
chất toàn cầu như vấn đề, dân số tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái
trong khi đó khu vực hoá kinh tế chỉ diễn ra trongmột thời gian địa lý nhaqát định
dưới nhiều hình thức như: Khu vực mậu dịch tự do , đông minh liên minh, thuế
quan, đồng minh tiền tề, thị trường chung, đồng minh kinh tế nhằm mục đích hợp
tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển từng bước xoá bỏ những cản trở trong việc di
chuyển tư bản , lực lương lao động hàng hoá dịch vụ tiến tới tự do toàn cầu
nhữnh di chuyển mối liên hệ giữa các nước thành vien trong khu vực.
ở những quốc gia có kinh tế thị trường phát triển, thì xu hướng tham gia hội nhập
voà nền kinh tế trong khu vực bảo hộ mậu dịch ngày càng tăng. Việc tham gia mạnh
mẽ và rông rãi các khối liên minh kinh tế khu vực, tiến tới sự nhất thể hoá cao trog
thông qua văn bản, hiệp định ký kết đã đưa lại cho các quốc gia trong liên minh sự
ổn định hợp tác cùng phát triển. Trong điều kiện đó các doanh nghiệp của các quốc
gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thương mại cũng như các gánh vác các

nghĩa vụ về tài chính giảm thuế cũng như giảm miễn phí khác Tình hình này
trong quá khứ, hiện tại và tương lai đang đặt ra cho các quốc gia đang phát triển trên
thế giới nói chung các quốc gia Đông Nam á nói riêng những cơ hội và thách thức
mới.
Sự hình thành kiên kết giữa các quốc gia đang phát triển, ngoài mục tiêu hợp tác ,
hỗ trợ nhau phát triển còn nhằm mục tiêu chống lại các chính sách bảo hộ mậu dịch
của các nước công nghiệp phát triển.
Việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực và sự hội nhập của từng quốc gia vào
nền kinh tế các nước trong khu vực vời nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng
khu vực liên kết và hình thức liên kết.
Khu vực mậu dịch tự do hay khu buôn bán tự do là giai đoạn đầu của quá trình hội
nhập kinh tế khu vực. Đây là một liên minh quốc tế giữa hai hay nhiều quốc gia
nhằm mục đích tự do hoá buôn bán đối một hoặc một số nhóm mặt hàng náo đó.
đặc trưng của khu vực mậu dịch tự do là xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan nhằm tạo ra một thị trường thống nhất của khu vực. Nhưng mỗi quốc gia là
thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thương độc lập đối với các quốc gia ngoài
liên minh.
Sự hôi nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực đang đưa lại những lợi ích
khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên. Một
quốc gia nào đó gia nhập hội các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch thường đua lại
những kết quả chủ yếu sau.
Một là, Tạo lập quan hệ mậu dịch nối giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa
khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước trong liên minh với các nước các
khu vực khác trên thế giới : cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế các nước
thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Cũng trong điều kiện này lợi ích
của người tiêu dùng cũng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa
vào nước như là luôn nhận được sự ưu đãi. Do đó hàng hoá hạ xuống làm người dân
ở nước chủ nhà có thể mua được khối lượng hàng hoá lớn hơn với mức chi phí thấp
hơn.
Hai là, hội nhập kinh tế khu vực còn góp phần vào việc chuyển hướng mậu dịch, sự

chuyển biến này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan , và khi đó các
điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi
hơn, hấp dẫn hơn trước.
Ba là, hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá thương mại tạo điều kiện thuận lợi
trong việc tiếp tục thu vốn, công nghề trình độ quản lý từ các quốc gia khác nhau
trong liên minh. Về lâu dài tự do hoá thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp
phần tăng năng suất lao động.
Để tiến thêm một bước nữa tới tự do thương mại toàn diện và để phản ứng với xu
thế hội nhập kinh tế khu vực đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, ngày 27/28
tháng 1 năm 1992 các nước ASEAN đã thoả thuận thiết lâp khu mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm trong 15 năm, kể từ 1.1.1993, thuế của các
nước trong khu vực sẽ được giảm xuống ở mức 0 – 5% và các hàng rào phí thuế
quan với một diện rộng các sản phẩm chế tạo. Năm 1994, các nước ASEAN đã rút
ngắn thời gian quá trình đó còn lại 10 năm, tức là thuế giảm xuống còn 0 – 5% vào
năm 2003. AFTA không phải là một liên minh thuế quan trong nuớc ASEAN vẫn
được tự do riêng để dặt thuế với những nước còn lại trên thế giới.
2. Nội dung chủ yếu của AFTA.
2.1. CEPT ( Kế hoạch thuế ưu đãi có hiệu lực chung )

×