Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

ĐỒ ÁN NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ CTI CHƯƠNG II_1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.2 KB, 15 trang )

ĐỒ ÁN NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ
CTI
CHƯƠNG II. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG NGHỆ CTI

Chúng ta thấy rằng hầu hết các hệ thống điện thoại đều có khả năng cung cấp rất
nhiều tính năng, tuy nhiên phần lớn người sử dụng chỉ sử dụng được một phần
nhỏ các tính năng này, bởi vì giao diện phím bấm của điện thoại đã hạn chế và gâu
khó khăn trong việc thực hiện các chức năng này và CTI được biết đến như là một
phương tiện để đạt được tính năng này. Trong chương này ta sẽ xem xét các giao
diện của CTI, cách thức làm việc và các chức năng mà chúng có thể cung cấp.
2.1 ĐẶC TẢ CTI
2.1.1 Giám sát và điều khiển
CTI cho phép các hệ thống máy tính có thể giám sát và điều khiển các tài nguyên
và các thực thể trong hệ thống điện thoại. Chức năng giám sát và đặc tả này
không phải là một chức năng trực tiếp của việc thực hiện một hệ thống điện
thoại, nhưng nó có thể coi là mặt ngoài của hệ thống điện thoại thông qua giao
diện CTI. Vì vậy việc thực hiện bên trong hai công việc hoàn toàn khác nhau nhưng
nó có thể có cùng đặc tả thông qua chức năng này. Ví dụ như hệ thống PBX xử lý
cuộc gọi vào từ một chuyển mạch CO và đưa nó đến một sô DID mở rộng là khác
so với việc một máy điện thoại thông thường nhận một cuộc gọi từ đường dây
tương tự nhưng qua giao diện giám sát của CTI thì đều có thông báo có cuộc gọi
mới được đưa tới thiết bị trong trạng thái cảnh báo. Các hệ thống CTI muốn thực
hiện được các ứng dụng của mình thì nhất định phải có khả năng giám sát để có
thể điều khiển theo ý muốn.
2.1.2 Thao tác nhân công thông qua các giao diện CTI
Mục tiêu khi khai triển CTI của các nhà cung cấp là sử dụng giao diện CTI thay cho
giao diện điện thoại chính vì vậy cách tốt nhất chính là tạo ra các giao diện chuẩn về
giám sát và điều khiển để sử dụng với các hệ thống điện thoại như ví dụ sau:

Hình 2.1. Tính đa giao diện với chức năng thoại
Trong ví dụ được minh họa trong hình 2.1thì giao diện CTI sử dụng một máy tính


để giám sát và điều khiển tất cả các hoạt động gắn liền với một máy điện thoại cụ
thể. Giống như có một người ngồi trước điện thoại, máy tính cũng có thể nhìn
thấy tất cả các tín hiệu như các đèn sáng, các nút bấm, các thông tin hiển thị trên
màn hình,vv…và nó cũng như một người sử dụng điện thoại thông thường cũng
có thể thực hiện cuộc gọi, trả lởi cuộc gọi hoặc ấn phím. Trên thực tế thì nó có
thể làm được bất cứ việc gì mà con người có thể làm được thậm chí hơn. Các ứng
dụng chạy trên máy tính được điều khiển bằng chuột, bàn phím, các giao diện
thoại được chuẩn hóa hoặc một số giao diện thiết bị khác. Tuy nhiên để máy tính
có thể xử lý chính xác thì các yêu cầu phải theo trật tự nhất định bởi không nó có
thể gây ra lỗi, chính vì vậy mà máy tính không thể thay thế hoàn con người trong
khía cạnh thực hiện điều khiển, nó chỉ có thể thay thế con người trong khía cạnh
giám sát.
2.1.3 Phạm vi giám sát và điều khiển
Các tính năng điện thoại mà một giao diện CTI có quyền truy cập phụ thuộc vào
các cách triển khai trên các hệ thống điện thoại. Các hệ thống điện thoại thiết kế
để hỗ trợ giao diện CTI thì sẽ có nhiều tính năng hơn so với các hệ thống điện
thoại truyền thống. Các chức năng CTI có thể không phải là thiết kế ban đầu mà
được phát triển sau này. Một vài hệ thống có thể hỗ trợ cả giao diện CTI chuẩn
hoặc độc quyền tuy nhiên nếu là giao diện độc quyền thì chức năng điện thoại của
nó sẽ nhiều hơn.
Trên thực tế thì một hệ thống được tạo ra từ nhiều thành phần khác nhau và
phạm vi của nó bị giói hạn liên quan đến việc giao diện CTI sẽ được gắn vào đâu.
2.1.4 Chia sẻ tài nguyên điện thoại - máy tính
Các ứng dụng CTI có độ phức tạp rất khác nhau tuỳ thuộc vào việc chúng có
cho phép chia sẻ các tài nguyên liên quan đến điện thoại hay không. Ví dụ, một
ứng dụng mà một mình nó có quyền điều khiển cạc thoại và đường dây điện thoại
thì sẽ đơn giản hơn rất nhiều trong việc thiết kế và xây dựng so với một ứng dụng
phải chia sẻ việc điều khiển các tài nguyên với nhiều ứng dụng khác. Các cơ chế
điều khiển cho các ứng dụng chia sẻ này thường là một trong những vấn đề khó
khăn nhất của việc thiết kế các ứng dụng CTI.

Ví dụ, một đường dây điện thoại kết cuối tại một cạc Fax gắn trong máy PC
của người sử dụng có thể là một tài nguyên không chia sẻ. Khi đó chỉ những ứng
dụng bên trong hệ thống máy tính đó mới có thể sử dụng đường dây điện thoại
này. Nếu tất cả các cổng trên một hệ thống đều bận thì các cổng rỗi trên hệ thống
kia cũng không thể sử dụng được để cung cấp thêm khả năng truy cập. Mặt khác,
khi một đường dây điện thoại kết cuối tại một Server có một tủ các cạc Fax có thể
được sử dụng bởi bất kỳ một hệ thống nào kết nối trong cùng mạng LAN và được
cấp quyền sử dụng Fax Server. Mỗi loại cấu hình này đều có những ưu khuyết
điểm của riêng chúng. Cấu hình chia sẻ yêu cầu điều khiển truy nhập phức tạp
hơn nhiều tuy nhiên tủ tài nguyên sẽ cho ta hiệu suất lớn hơn trong việc phân
phối tài nguyên và do đó có thể xử lý tốt hơn về mặt sử dụng tại các giờ cao điểm.
Từ khía cạnh kinh tế, các tài nguyên dành riêng thường phù hợp hơn cho các cá
nhân hay các nhóm làm việc rất nhỏ, còn các tài nguyên dựa trên Server lại
thường được sử dụng cho các nhóm làm việc vừa và nhỏ và cho các hệ thống của
các doanh nghiệp rộng lớn.
2.1.5 Bảo mật
Bảo mật đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định những gì có thể được
và không được giám sát và điều khiển thông qua giao diện CTI. Như vậy một hệ
thống điện thoại cấp quyền sử dụng giao diện CTI cho người dùng thì việc đặc tả
hệ thống là phụ thuộc vào định danh của nó. Ví dụ như nhà quản trị hệ thống có
thể nhìn thấy tất cả các thiết bị trong hệ thống nhưng một khách hàng chỉ có thêt
nhìn thấy các thiết bị tương ứng với máy điện thoại của họ. Hoặc một thư ký có
thể nhin thấy máy điện thoại của giám đốc nhưng lại không thể điều khiển chúng.
Kết quả là bảo mật đã trở thành một đặc điểm quan trọng trong việc phân biệt
các cách thực hiện của các thành phần khác nhau trong hệ thống CTI.
2.2 GIAO DIỆN CTI
2.2.1 Các thông số CTI
Các bản tin CTI
Giao diện CTI hoạt động bằng cách tạo,gửi, nhận, và biên dịch các bản tin có chứa
các thông tin trạng thái và các yêu cầu dịch vụ cần thực hiện. Các bản tin được sử

dụng phải bao gồm cả hai phương diện cung cấp thông tin và đưa ra yêu cầu. cấu
trúc, nội dung và các qui tắc quản lý để điều khiển các bản tin truyền qua lại thông
qua giao diện CTI được định nghĩa bởi giao thức CTI.

Hình 2.2. Các bản tin CTI
Tham số hóa
Quá trình đặc tả đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra khả năng thực
hiện hoạt động của CTI. Trong thực tế với các một vài hình vẽ đơn giản (gồm có
thiết bị, phần tử, thành phần, các cuộc gọi, các kết nối) và một số lượng nhỏ từ
vựng về trạng thái giá trị thuộc tính chúng ta có thể miêu tả và xây dựng mô hình
của phần lớn các chức năng chính của điện thoại mà không cần nhiều nỗ lực.
Bằng cách biên dịch tất cả các giá trị tham số tới phần đặc tả cùng với các
trạng thái của chúng thì bất cứ một hoạt động bên trong nào của điện thoại cũng
có thể được miêu tả chính xác. Đặc tả về tài nguyên điện thoại, các đặc điểm về
dịch vụ, các tính năng hiện có đều có thể được miêu tả bằng một dạng cụ thể
thông qua các tham số đặt trong các bản tin CTI

Hình 2.3. Quá trình tham số hóa
Các giao thức CTI
Các giao thức CTI là các đặc điểm kĩ thuật về cấu trúc, nội dung, cách sử dụng
và trao đổi các bản tin trạng thái, bản tin điều khiển giữa các thành phần của hệ
thống thông qua tuyến truyền thông đã được xác định. Giao thức CTI là các giao
thức bậc cao giống như các giao thức sử dụng để gửi thư điện tử, in dữ liệu từ
máy in, tải file từ file server. Cũng giống như các giao thức khác thì chúng được
thiết kế để có thể truyền qua bất cứ một đường truyền thông tin cậy nào. Các
giao thức CTI có khả năng ứng dụng với mọi loại tuyến truyền thông và tất cả các
cấu hình CTI.
Như chỉ ra ở hình vẽ thì quá trình thực thi của các thành phần với nhau có sử
dụng giao thức CTI thì phải chứa một thành phần con là bộ mã hóa và giải mã
giao thức CTI. Chúng chịu trách nhiệm thiết lập các tuyến truyền thông để truyền

đi các bản tin CTI và giải mã các bản tin nhận được.

Hình 2.4. Các giao diện CTI
Các giao diện lập trình
Các giao diện lập trình là các cơ chế, mà điển hình là các lời gọi hàm Có ba loại
giao diện lập trình khác nhau trong hệ thống CTI

Hình 2.5. Các giao diện lập trình
- Giao diện đọc/ghi: là giao diện đơn giản cho phép các thành phần phần
mềm có thể truy cập vào tuyến truyền thông mang dòng giao thức CTI (hoặc
driver truyền thông) để có thể đóng hoặc mở một tuyến truyền thông liên kết với
một phần mềm khác, và đọc hoặc ghi luồng dữ liệu thông qua tuyến truyền thông
đó. Nếu luồng dữ liệu mang các bản tin CTI thì nó được gọi là luông CTI và các bản
tin phát đi trong luồng dữ liệu đó gọi là các đơn vị dữ liệu CTI (CTI PDUs).
Giao diện đối tượng
- Giao diện thủ tục: thường được gọi là giao diện lập trình ứng dụng hoặc
APIs. Giao diện này cho phép hai phần mềm có thể giao tiếp với nhau thông qua
một bộ gọi hàm. Không giống như giao diện đọc/ghi (R/W) giao diện thủ tục
thường sử dụng nhiều thủ tục gọi hàm để trao đổi bản tin. Các tham số của bản
tin được đặt sẵn trong cấu trúc bản tin hoặc có vài thay đổi đơn giản sẽ được
truyền qua giao diện thông qua các tham số của hàm.
- Giao diện đối tượng: cho phép các thành phần phần mềm truy cập đến các
chức năng điện thoại bằng việc vận dụng các đối tượng phần mềm. Không giống
như giao diện thủ tục các lớp đối tuợng của giao diện này được sử dụng để định
nghĩa giao diện lập trình và cách trao đổi thông tin.
2.2.2 Module hệ thống CTI
Giao diện CTI giữa các thành phần
Mục đích chung cho việc thực hiện các giao diện CTI là cho phép tổ hợp bất cứ
phần cứng và phần mềm trong một hệ thống CTI có kích thước bất kỳ. thậm chí
một hệ thống CTI nhỏ nhất cũng được tạo nên từ nhiều thành phần, điều này có

nghĩa là trong bản thân hệ thống có nhiều giao diện CTI. Như vậy cần có một giao
diện CTI giữa mỗi thiết bị CTI để có thể tích hợp chúng lại với nhau. Hình vẽ dưới
đây minh họa cho ví dụ để ta có thể nhìn thấy rõ ràng các mối quan hệ giữa các
thành phần trong hệ thống CTI với các khối chỉ các thành phần của hệ thống còn
mũi tên chỉ hướng truyền của các bản tin. Trong ví dụ này cho thấy hệ thống CTI
đơn giản nhất cũng gồm 3 thành phần riêng biệt là.
- Máy điện thoại.
- Máy tính.
- Các phần mềm chạy trên máy tính.

Hình 2.6. Giao diện các thành phần CTI
Do vậy sẽ cần có phải có hai giao diện CTI khác nhau trong môi trường làm
việc của hệ thống CTI này.
- Giao diện giữa điện thoại và máy tính. Giao diện này sử dụng một giao thức.
- Giao diện giữa phần mềm CTI và máy tính. Giao diện này sử dụng các
giao diện lập trình.
Khi một hệ thống CTI được thiết lập thì sẽ là khó khăn khi nói đâu là điểm
đầu của hệ thống và đâu là kết thúc của máy tính. Tất cả các thiết bị kết hợp với
nhau để làm việc cùng nhau trong một hệ thống mà ta có thể coi là một hệ thống
điện thoại tinh vi hơn hay một hệ thống máy tính tinh vi hơn.
Ranh giới giữa các thành phần bên trong hệ thống
Như đã nói thì hệ thống CTI được ghép từ nhiều thành phần riêng biệt. Vì vậy
người ta không chú ý đến các khuôn dạng của nó mà chỉ quan tâm đến vai trò của
nó trong một hệ thống tổng thể đó là làm sao chuyển được các bản tin CTI sang
thiết bị kế tiếp. Mỗi một thành phần CTI khi trao đổi các bản tin với các thành
phần bên cạnh đều phải thông qua ranh giới liên thành phần.

Hình 2.7. Ranh giới liên thành phần
Ranh giới liên thành phần là khả năng làm việc cùng nhau chứ không của các
thành phần bằng cách chuẩn hóa cái trao đổi giữa các thành phần chứ không phải

là cách chuẩn hóa cách thực hiện chúng
Logic client và logic server
Để phân biệt thứ tự trao đổi các bản tin CTI qua ranh giới liên thành phần thì
người ta gọi một thành phần là logic client và thành phần kia là logic server.
- Logic server là một thành phần CTI gắn với một đường biên liên thành phần
xác định và nó sử dụng giao diện CTI có sẵn để trao đổi các bản tin.
- Logic client là một thành phần CTI gắn với một đường biên liên thành phần
xác định và nó sử dụng giao diện CTI được cung cấp bởi logic server thông qua
ranh giới liên thành phần này để trao đổi bản tin.
Vì logic server và logic server luôn gắn với một ranh giới liên thành phần đặc
biệt nào đó do vậy mà nó không bị nhầm lẫn với quá trình thực thi của client hay
server, máy tính client hay CTI server.
Tổ chức các thành phần trong hệ thống CTI
Cách tổ chức đơn giản nhất nhiều thành phần vào hệ thống là sắp xếp chúng
thành một chuỗi như hình vẽ.

Hình 2.8. Tổ chức theo hình chuỗi
Trong ví dụ này thì các thành phần vừa đóng vai trò là logic server và logic client
(trừ hai thành phần đầu và cuối). Thành phần này là logic client của thành phần
này thì là logic server của thành phần kia. Kết quả là tạo ra một “đường ống” cho
các bản tin của CTI truyền qua các thành phần.
Mỗi một thành phần trong hệ thống chứa một số vai trò sau:
- Tạo ra bản tin CTI.
- Truyền các bản tin CTI từ logic client đến logic server.
- Phiên dịch và phản hồi các bản tin CTI.
Do đó các thành phần có thể thêm vào, bớt đi, kết hợp các bản tin CTI cho phù
hợp theo yêu cầu của chúng
Hình vẽ dưới đây minh họa một cách sắp xếp các thành phần CTI khác mà cho phép
hệ thống co thể thay đổi quy mô. Cách sắp xếp đó gọi là sắp xếp theo hình dẻ quạt.


Hình 2.9. Tổ chức theo hình quạt
Trong đó thành phần trung tâm sẽ có khả năng hoạt động như là một logic server
với nhiều logic client thông qua một số đường biên liên thành phần riêng biệt. Các
thành phần này chỉ quan tâm đến bản sao của chúng khi truyền qua ranh giới liên
thành phần mà không quan tâm đến logic client của nó hay của thành phần nào
khác.
Vai trò của các thành phần trong mô hình dẻ quạt là duy trì các liên kết độc
lập nhờ việc biên dịch các bản tin CTI chuyển đến từ mỗi logic client của chúng, nó
có thể xử lý hoặc là lại truyền tiếp đến logic server của chúng. Khi mà các thành
phần trong mô hình dẻ quạt thực hiện chuyển các bản tin thì điều đó có nghĩa là
chúng hoạt động như một proxy cho các logic client đã tạo ra các bản tin này. Nhờ
vào việc giám sát và chuyển đổi các bản tin này mà trong một vài trường hợp nó có
thể kết hợp hoặc chia các bản tin CTI khi truyền chúng qua lại. Tuy nhiên các các
thành phần này cũng có thể duy trì mối liên hệ với các logic client một cách trong
suốt.
2.3 CÁC MIỀN VÀ BIÊN GIỚI DỊCH VỤ
Trong việc tạo lập và kết hợp các thành phần CTI, trong bất kỳ tình huống
nào tiêu điểm chính là đường biên liên thành phần mà qua đó một thành phần
cho trước phải có khả năng hoạt động qua lại với thành phần khác. Do vậy, các
bản tin CTI và các giao diện CTI sử dụng các bản tin này có thể được mô tả dưới
dạng một hệ thống CTI được đơn giản hoá chỉ bao gồm ba phần như sau:
- Miền chuyển mạch (Switching Domain): Là tất cả mọi thứ nằm bên phía
Server logic của một đường biên liên thành phần cụ thể.
- Miền tính toán (Computing Domain): Là tất cả mọi thứ nằm bên phía Client
logic của một đường biên liên thành phần cụ thể.
- Đường biên dịch vụ (Service Boundary): Là đường biên liên thành phần nằm
giữa miền chuyển mạch và miền tính toán.
Mô hình này được áp dụng cho mọi đường biên liên thành phần trong một hệ
thống CTI, do vậy phải cần phải quan tâm chú ý xem loại đường biên nào được
xem như đường biên dịch vụ. Việc xác định đường biên dịch vụ không chỉ xác định

cặp thành phần nào mà còn xác định các bản tin CTI nào được trao đổi giữa chúng
và giao diện CTI nào dùng để biên dịch các bản tin này.
2.3.1 Đường biên dịch vụ
Một đường biên dịch vụ CTI là một đường biên liên thành phần mà qua đó các
bản tin CTI từ thành phần CTI hoạt động trong miền tính toán được chuyển tới
giao diện CTI của một thành phần CTI hoạt động trong miền chuyển mạch. Một
đường biên dịch vụ có thể là một giao thức hay một giao diện lập trình. Một
đường biên dịch vụ nằm giữa hai thành phần phần mềm chạy trên cùng một
thành phần phần cứng có thể có dạng là một giao diện lập trình qua đó các bản
tin CTI được truyền qua sử dụng các lời gọi hàm. Mặt khác, nó cũng có thể có
dạng là mộtgiao thức CTI được sử dụng để truyền tải các bản tin CTI như là một
luồng dữ liệu.
2.3.2 Miền chuyển mạch
Thuật ngữ miền chuyển mạch đề cập tới tất cả các tài nguyên điện thoại mà có
thể được giám sát và điều khiển qua đường biên dịch vụ và tất cả các thành phần
CTI cung cấp khả năng truy cập này. Cơ chế một miền chuyển mạch sử dụng để
tương tác với miền tính toán qua đường biên dịch vụ là giao diện CTI của nó. Số
lượng và số kiểu các thành phần phần cứng hay phần mềm có thể thấy trong miền
chuyển mạch là không có giới hạn. Chúng có thể là:
- Các chuyển mạch:
+ Các chuyển mạch Front-End
+ Các mạch lai hay các KSU
+ Các tổng đài PBX
+ Các chuyển mạch ứng dụng cụ thể
+ Các gateway thoại Internet
- Các thiết bị trạm điện thoại.
+ Các máy trạm điện thoại
+ Các ngoại vi điện thoại
2.3.3 Miền tính toán
Thuật ngữ miền tính toán là để chỉ tất cả các thành phần CTI tham gia giám sát và

điều khiển các tài nguyên trong miền chuyển mạch. Ta có thể thấy bất kỳ một loại
thành phần CTI nào trong miền tính toán, tuy nhiên luôn có ít nhất một thành
phần phần mềm phụ trách việc giám sát và điều khiển các tài nguyên điện thoại
trong miền chuyển mạch

×