Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

BỆNH XOẮN KHUẨN VÀNG DA (Leptospirosis) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.57 KB, 12 trang )

BỆNH XOẮN KHUẨN VÀNG DA
(Leptospirosis)


Bệnh xoắn khuẩn vàng da thuộc nhóm B trong Luật Phòng, chống bệnh truyền
nhiễm.
1. Đặc điểm của bệnh
1.1. Định nghĩa ca bệnh:
Bệnh xoắn khuẩn vàng da là bệnh của động vật truyền sang người với các thể lâm
sàng đa dạng từ nhiễm khuẩn thể ẩn, thể nhẹ không có vàng da hoặc không có biểu
hiện viêm màng não đến thể lâm sàng cấp tính điển hình, vàng da nặng gọi là hội
chứng Weil có thể tử vong.
Bệnh có 2 giai đoạn gọi là bệnh sốt 2 pha. Giai đoạn 1 là giai đoạn nhiễm xoắn
khuẩn huyết cấp tính, tiếp theo là giai đoạn 2, giai đoạn miễn dịch xoắn khuẩn
vàng da. Sự phân biệt giữa 2 giai đoạn này thường không rõ ràng và những trường
hợp bệnh nhẹ thường không có giai đoạn 2.
Thể bệnh không vàng da khởi phát đột ngột giống bệnh cúm với sốt cao, rét run,
đau đầu dữ dội, buồn nôn, nôn và đau cơ, nhất là đau cơ bắp chân, đùi, lưng và
bụng. Tuy ít gặp, nhưng có thể đau họng, nổi ban, đôi khi sợ ánh sáng, tinh thần
hỗn loạn, ho, đau ngực, ho ra máu. Phần lớn bệnh nhân khỏi không có triệu chứng
trong khoảng 1 tuần, sau khoảng 1-3 ngày một số trường hợp xuất hiện giai đoạn 2
cùng với sự phát sinh ra kháng thể. Nói chung, triệu chứng trong giai đoạn 1 rất
thay đổi như sốt có thể chỉ vài ngày nhưng cũng có thể kéo dài 1 tuần, đau cơ nhẹ
hơn và giai đoạn 2 có thể diễn biến đến viêm màng não vô khuẩn trong vài ngày.
Thể bệnh nặng còn gọi là hội chứng Weil. Ngoài các triệu chứng cơ năng ở thể
bệnh không vàng da, còn có vàng da, vàng mắt, nước tiểu sẫm màu gần như nước
vối và xuất huyết. Thể bệnh này là do chủng xoắn khuẩn vàng da xuất huyết gây
nên (Leptospira icterohaemorrhagiae). Biểu hiện xuất huyết của hội chứng Weil là
chảy máu cam, trên da có chấm xuất huyết (petechiae), ban xuất huyết (purpura)
và mảng xuất huyết (ecchymoses). Ngoài ra còn xuất huyết dạ dày - ruột nặng.
Tuy hiếm nhưng cũng có thể xuất huyết thượng thận hoặc xuất huyết dưới màng


nhện. Tỷ lệ tử vong tăng nếu không được điều trị tích cực, kể cả biện pháp chạy
thận nhân tạo ở những trường hợp suy gan thận cấp, rối loạn mạch máu gây xuất
huyết hoặc suy hô hấp, rối loạn nhịp tim do viêm cơ tim.
- Ca bệnh lâm sàng:
+ Sốt cao đột ngột 39 - 400C, rét run kéo dài 5 -7 ngày, sau đó khỏi hẳn hoặc 2-5
ngày sau sốt lại.
+ Đau cơ, nhất là ở chân, vùng thắt lưng, đau tự nhiên hoặc đau tăng lên khi sờ,
nắn bóp vào cơ bụng chân, mệt lử.
+ Hội chứng màng não: Đau đầu dữ dội, vật vã, mê sảng, cứng gáy. Có biểu hiện
viêm màng não nước trong tăng tế bào limpho.
+ Xung huyết ở màng tiếp hợp nên mắt đỏ và ở da toàn thân đỏ, đôi khi phát ban.
+ Hội chứng gan - thận: Đái ít, nếu diễn biến nặng có thể vô niệu, có protein niệu,
tăng urê huyết. Vàng da, vàng mắt, nước tiểu sẫm mau (tuy nhiên có chủng
Leptospira không có biểu hiện vàng da).
Nhìn chung, ca lâm sàng có 3 thể lâm sàng chủ yếu: Viêm gan-thận cấp, viêm
màng não nước trong và sốt đơn thuần. Tiên lượng bệnh phụ thuộc vào tình trạng
viêm gan-thận cấp, chảy máu, biến chứng cơ tim và thần kinh.
- Ca bệnh xác định dựa vào hiệu giá kháng thể tăng 4 lần hoặc tăng cao hơn trong
các xét nghiệm huyết thanh kép (+) hoặc phân lập xoắn khuẩn vàng da (+).
1.2. Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh tương tự: Bệnh sốt rét, bệnh thương hàn,
nhiễm khuẩn huyết.
1.3. Xét nghiệm.
- Loại mẫu bệnh phẩm:
+ Huyết thanh (HT) kép của bệnh nhân: HT 1 được lấy > 1 tuần mắc bệnh, HT 2
được lấy sau đó 1- 2 tuần.
+ Máu bệnh nhân trong 7 ngày đầu có sốt và/hoặc nước não tuỷ từ ngày thứ 4 - 10
thời kỳ cấp tính hoặc nước tiểu sau 10 ngày của bệnh
- Phương pháp xét nghiệm:
+ Phản ứng ngưng kết tan (Martin Petit), Xét nghiệm ngưng kết vi lượng trên kính
hiển vi (MAT). Ngoài ra còn có các kỹ thuật xét nghiệm huyết thanh khác cũng

được sử dụng như: Xét nghiệm ngưng kết hồng cầu gián tiếp (indirect
hemagglutination test), xét nghiệm ngưng kết vi nang (microcapsule agglutination
test) và xét nghiệm IgM ELISA với những bộ kít được bán trên thị trường.
+ Phân lập xoắn khuẩn từ máu, nước não tuỷ, nước tiểu trên môi trường đặc biệt
hoặc cấy truyền trên chuột lang, chuột túi má (hamsters).
2. Tác nhân gây bệnh
- Tên tác nhân là Leptospira thuộc bộ Spirochaetales và họ Leptospiraceae.
Leptospira gây bệnh thuộc loài Leptospira interrogans, còn loài Leptospira biflexa
sống tự do không gây bệnh. Dựa trên cơ sở liên quan họ hàng với ADN, đến nay
có 7 loài leptospira gây bệnh được công nhận. Trong thực tế lâm sàng và dịch tễ
học, người ta dùng các loài này để phân loại dựa trên sự khác biệt về huyết thanh
học. Leptospira gây bệnh được phân chia thành những biến thể huyết thanh
(serovars) tuỳ theo cấu trúc kháng nguyên của chúng. Có hơn 200 biến thể huyết
thanh để hình thành 25 nhóm huyết thanh. Những biến thể huyết thanh thường gặp
ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam là L. australis, L. autumnalis, L.
bataviae, L. canicola, L. gripotyphosa, L. hebdomidis, L. icterohaemorrhagiae, L.
mitis, L. poi, L. pomona, L. saxkoebing và L. sejroe.
- Hình thái: Leptospira hình xoắn, mảnh, có móc ở 2 đầu nên còn gọi là xoắn
khuẩn móc và 2 tiêm mao quanh bào chất để Leptospira có thể chui sâu vào mô
vật chủ. Leptospira dài 6 - 20 àm, rộng 0,1 - 0,2 àm, các vòng lượn rất sát nhau
cho nên trên kính hiển vi nền đen nhìn thấy Leptospira như một sợi chỉ lóng lánh
như bạc, di động nhanh.
- Khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài. Sức đề kháng của Leptospira tuy
yếu nhưng còn cao hơn so với các loại xoắn khuẩn khác. Leptospira có thể sống
lâu trong nước, ở môi trường có pH toan thì không phát triển được. Leptospira
chịu được lạnh và sống được 1 tuần ở nhiệt độ thường trong môi trường máu đã
loại tơ huyết. Chất mật trong gan sẽ làm cho Leptospira ngừng hoạt động và tan ra
từ 10 – 15 phút. Leptospira bị chết ở 560C trong 10 phút, ở dịch dạ dày trong 30
phút và bị diệt bởi nước Javelle và phenol.
3. Đặc điểm dịch tễ học.

- Bệnh xoắn khuẩn vàng da lưu hành rộng rãi ở hầu khắp mọi nơi, kể cả vùng
nông thôn và thành thị thuộc các nước phát triển và đang phát triển, trừ các vùng
cực của trái đất. Đây cũng là một bệnh có tính nghề nghiệp với nguy cơ khác nhau
như: nông dân, ngư nghiệp, công nhân lâm nghiệp, vệ sinh, mỏ, chăn nuôi, thú y
và quân đội v.v Thông thường, bệnh xuất hiện tản phát do bị nhiễm Leptospira
một cách ngẫu nhiên nhưng cũng xảy ra thành dịch, nhất là ở những nơi vệ sinh
môi trường lao động kém và công nhân không được trang bị bảo hộ vệ sinh lao
động đầy đủ.
- Ở Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng 40 - 120 bệnh nhân được thông báo thuộc những
nhóm nghề nghiệp thường bị phơi nhiễm hoặc tiếp xúc trực tiếp với nguồn nước
và đất bị nhiễm Leptospira như: thú y, công nhân nông nghiệp, công nhân vệ sinh,
công nhân lò mổ và những công nhân công nghiệp cá. Ở các nước Tây Âu, những
người mắc bệnh do tiếp xúc với súc vật nuôi trong nhà hoặc do chơi thể thao dưới
nước bị phơi nhiễm với nguồn nước có Leptospira như: bơi xuồng, thuyền buồm,
bơi, lướt ván v.v Nghiên cứu mới đây ở Hà Lan cho biết 14% mắc bệnh xoắn
khuẩn vàng da do đi du lịch ở các nước nhiệt đới và Đông Nam Á.
- Ở Việt Nam, bệnh xoắn khuẩn vàng da cũng lưu hành rông rãi ở nông thôn,
thành thị, miền núi, đồng bằng, ven biển Khoảng 20 năm trước đây, nhiều nơi có
dịch xoắn khuẩn vàng da ở súc vật nuôi, nhất là lợn trong các trại chăn nuôi, và lây
sang người. Ngày nay, dịch xoắn khuẩn vàng da ở người hiếm xảy ra, nhưng bệnh
vẫn xuất hiện tản phát, nhất là trong mùa mưa, lụt lội. Số mắc và chết trung bình
năm của bệnh thời kỳ 1996-2000 cũng không có gì khác biệt có ý nghĩa với thời
kỳ 1991-1995 như: mắc 56 chết 3, trong đó miền Bắc mắc 36 chết 2, miền Trung
mắc 10, miền Nam mắc 5 và Tây Nguyên mắc 7 chết 1.
4. Nguồn truyền nhiễm.
- Ổ chứa:
+ Ổ chứa của Leptospira gây bệnh là ở trong ống thận của động vật hoang dã và
súc vật nuôi gần người. Sự thay đổi của các biến thể huyết thanh Leptospira tuỳ
thuộc vào ổ chứa của loài súc vật như: L. icterohaemorrhagiae ở chuột, L.
grippotyphosa ở chuột đồng nhỏ, L.pomona ở lợn, L.hardjo ở trâu bò, L.canicola ở

chó, L. autumnali ở gấu trúc. Các vật chủ như các loài gặm nhấm hoang dã, hươu,
sóc, cáo, chồn hôi, gấu trúc v.v thường thay nhau là súc vật lành mang
Leptospira. Những súc vật mang xoắn khuẩn này không có biểu hiện lâm sàng và
Leptospira được tồn tại trong thời gian dài, có thể suốt đời, đặc biệt đối với súc vật
là ổ chứa. Các súc vật nuôi gần người bị nhiễm Leptospira cũng không có biểu
hiện triệu chứng, tuy nhiên cũng có súc vật như lợn… bị mắc bệnh, có thể thành
dịch xoắn khuẩn vàng da mà dân gian gọi là bệnh lợn nghệ.
+ Nước tiểu của súc vật hoang dã, chủ yếu là loài gặm nhấm có Leptospira được
thải vào môi trường, đặc biệt là ở các đầm lầy, ao hồ, đồng ruộng để từ đó
Leptospira lại xâm nhập qua da, niêm mạc vào các súc vật hoang dã khác hình
thành một chu trình khép kín của ổ dịch thiên nhiên, duy trì lâu dài nguồn truyền
bệnh Leptospira. Trường hợp loài gặm nhấm gần người, quan trọng là quần thể
chuột và các động vật nuôi bị nhiễm Leptospira sẽ hình thành một chu trình khép
kín của ổ dịch gần người. Con người có thể bị lây bệnh Leptospira từ 2 ổ dịch
trên. - Thời gian ủ bệnh thông thường là 10 ngày.
Tuy nhiên, có thể từ 2 - 30 ngày.
- Thời kỳ lây truyền: Thông thường Leptospira được thải ra theo nước tiểu khoảng
1 tháng. Tuy nhiên, người ta đã theo dõi ở người và ở súc vật thì sau khi mắc bệnh
cấp tính, Leptospira được đào thải trong nước tiểu nhiều tháng, thậm chí có thể
nhiều năm. Các súc vật là ổ chứa Leptospira, nhất là ổ chứa thiên nhiên, có thể lây
truyền bệnh suốt đời.
5. Phương thức lây truyền: Leptospira có trong nước hoặc đất ẩm ướt đã bị ô
nhiễm nước tiểu súc vật sẽ xâm nhập vào cơ thể qua da, đặc biệt là chỗ da bị xước
và có thể chui qua lỗ chân lông của da bị ngâm sũng nước hoặc qua niêm mạc ở
các hồ bơi bị nhiễm xoắn khuẩn. Có thể bị nhiễm Leptopspira do tiếp xúc trực tiếp
với nước tiểu hoặc mô súc vật bị nhiễm xoắn khuẩn. Đôi khi, mắc bệnh do ăn phải
thức ăn bị nhiễm nước tiểu của chuột. Thông thường, bệnh có tính nghề nghiệp do
bị tiếp xúc qua da, niêm mạc đối với thú y, người chăn nuôi súc vật trong điều
kiện vệ sinh chuồng trại kém, nhất là ở các trại nuôi lợn, ngư dân, nông dân làm
việc trên những cánh đồng trũng, công nhân làm việc trên đầm lầy, hầm mỏ hoặc

vệ sinh cống rãnh v. v Bệnh cũng thường xảy ra trong mùa mưa, nhất là ở vùng
lụt lội hoặc người bơi lội trong ao, hồ bị nhiễm Leptospira từ súc vật. Sự lây
truyền bệnh Leptospora từ người sang người là rất hiếm.
6. Tính cảm nhiễm và miễn dịch: Mọi người đều cảm nhiễm với bệnh xoắn khuẩn
vàng da nhưng sự biểu hiện lâm sàng của bệnh không giống nhau, chủ yếu là tuỳ
thuộc vào týp huyết thanh gây bệnh. Miễn dịch đặc hiệu típ được tạo thành sau khi
mắc bệnh hoặc dùng vắc xin dự phòng nhưng không có miễn dịch chéo giữa các
týp gây bệnh khác nhau.
7. Các biện pháp phòng chống dịch.
7.1. Biện pháp dự phòng:
- Tuyên truyền giáo dục sức khoẻ. Cung cấp những thông tin cần thiết về bệnh
xoắn khuẩn vàng da cho nhân dân, nhất là ở nơi có bệnh lưu hành địa phương, nơi
có ổ dịch tiềm tàng và môi trường lao động có nguy cơ nhiễm Leptospira từ nước
tiểu súc vật nuôi hoặc quần thể chuột đối với ngành nông nghiệp, chăn nuôi, lâm
nghiệp, ngư nghiệp v.v để nhân dân biết cách tự phòng bệnh và biết phát hiện
sớm những trường hợp nghi ngờ.
- Vệ sinh phòng bệnh:
+ Các chuồng trại chăn nuôi súc vật, lò mổ v.v… phải cao ráo, có nền cứng dễ
thoát nước, thường xuyên được cọ rửa sạch sẽ và khử trùng tẩy uế khi cần thiết.
+ Những người làm việc trong môi trường lao động hoặc nghề nghiệp có nguy cơ
bị nhiễm Leptospira phải được trang bị bảo vệ da, niêm mạc như quần áo lao
động, tạp dề, ủng, găng tay, kính mắt v.v…
+ Tại các cơ sở chăn nuôi súc vật, các lò mổ, bể bơi v.v… cần thiết phải kiểm tra
thường xuyên hoặc định kỳ quần thể chuột, các chất thải để xử lý kịp thời phòng
chống chuột và vệ sinh môi trường.
+ Tiêm vắc xin có các chủng Leptospira chủ yếu lưu hành địa phương cho súc vật
nuôi cũng có kết quả nhất định nhưng không loại trừ được tình trạng nhiễm
Leptospira và bài tiết xoắn khuẩn trong nước tiểu.
+ Tiêm vắc xin Leptospira cho người làm nghề nghiệp có nguy cơ mắc bệnh cao
đã thực hiện có kết quả ở một số nước phát triển như Nhật Bản, Italia, Pháp, Tây

Ban Nha, Trung Quốc v.v…
7.2. Biện pháp chống dịch:
- Tổ chức:
+ Thành lập Ban chống dịch do lãnh đạo chính quyền làm trưởng ban, lãnh đạo y
tế địa phương làm phó ban thường trực và các thành viên khác có liên quan như: Y
tế, Chăn nuôi, Thú y, Công an, Hội Chữ thập đỏ v.v
+ Các thành viên trong Ban chống dịch được phân công nhiệm vụ để chỉ đạo và
huy động cộng đồng thực hiện tốt công tác chống dịch.
+ Đối với vụ dịch nhỏ, cần giành một số giường bệnh trong một khu riêng ở khoa
lây bệnh viện để cách ly và điều trị bệnh nhân. Nếu có dịch lớn thì có thể thành lập
bệnh xá dã chiến trong cộng đồng.
- Chuyên môn:
+ Thu dung, cách ly, điều trị bệnh nhân. Những trường hợp mắc bệnh hoặc nghi
ngờ phải được vào bệnh viện để cách ly, theo dõi, điều trị sớm và phòng chống
biến chứng. Phòng tránh tiếp xúc với máu và các dịch tiết của bệnh nhân, nhất là
nước tiểu.
+ Những người tiếp xúc với súc vật bị nhiễm Leptospira và các nguồn nước bị ô
nhiễm phải được theo dõi nhiệt độ để phát hiện sớm bệnh.
+ Dùng doxycyclin với liều 200 mg/1 lần/1 tuần cho người bị phơi nhiễm cao ở
vùng nguy cơ cao.
+ Xử lý môi trường: Cần sát trùng, tẩy uế đồng thời đối với các đồ vật bị nhiễm
máu, nước tiểu bệnh nhân và khu vực bị nhiễm nước tiểu súc vật.
7.3. Nguyên tắc điều trị:
- Cần điều trị sớm kháng sinh Penicillin G với liều 5 - 10 triệu đơn vị/ngày cho
người lớn và 100.000 đơn vị/kg cho trẻ em, dùng trong 10 - 15 ngày. Những người
có dị ứng với Penicillin thì có thể thay bằng doxycyclin, ampicillin hoặc
erythromycin. Trường hợp nặng dùng cephalosporin hoặc quinolone.
- Điều trị triệu chứng: Hồi phục nước, điện giải, trợ tim, truyền máu (nếu xuất
huyết có sốc), hồi sức hô hấp và lọc ngoại thận nếu cần thiết trong các thể nặng.
7.4. Kiểm dịch y tế biên giới: Không có quy định.


×