Chương 1: những vấn đề cơ bản về vốn của ngân hàng thương mại
1.1.Khái niệm và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.1. Khái niệm vốn của NHTM.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc huy động được,
dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất, vốn của Ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn
rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ sở hữu của chúng
gửi vào Ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu tư. Nói cách khác, họ
chuyển nhượng quyền dử dụng vốn cho Ngân hàng, để Ngân hàng trả lại cho họ
một khoản thu nhập.
Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn
dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích thích mọi
hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định sự
tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
1.1.2.1. Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành NHTM
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được
thì phải có :Công nghệ - Lao động – Tiền vốn trong đó vốn là nhân tố quan trọng,
nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với
NHTM, vốn lại càng là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt độnh kinh doanh, ngân hàng không
thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh nếu không có vốn. Như đã biết, đặc trưng
của hoạt động ngân hàng:Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là
đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại
hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ(thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường
chứng khoán(thị trường vốn dài hạn). Những ngân hàng trường vốn là ngân hàng có
nhiều thế mạnh trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn lớn là lợi thế đầu tiên trong việc
chấp hành pháp luật trước hết là luật NHTW, luật các TCTD, tạo thế mạnh và thuận
lợi trong kinh doanh tiền tệ. Chính vì thế, có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong chu
kỳ kinh doanh của ngân hàng, là khâu cốt tử của ngân hàng. Do đó, ngoài vốn ban
đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì ngân hàng phải thường xuyên
chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình
Từ đặc trưng kinh doanh của Ngân hàng, vốn vừa là phương tiện kinh doanh, vừa là
đối tượng kinh doanh. Các NHTM thực hiện kinh doanh loại “hàng hoá đặc biệt” –
tiền tệ trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán
(thị trường vốn dài hạn). Vì vậy, ngoài vốn ban đầu khi thành lập theo qui định của
pháp luật, các Ngân hàng phải thường xuyên tìm mọi biện pháp để tăng trưởng vốn
trong quá trình hoạt động kinh doanh.
1.1.2.2. Vốn quyết định khả năng thanh toán và năng lực cạch tranh của Ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trưòng, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động đòi
hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín đó
phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả cho khách hàng
của ngân hàng. Chúng ta đã biết, đại bộ phận vốn của ngân hàng là vốn tiền gửi và
đi vay, do vậy ngân hàng phải trả cho khách hàng khi họ có yêu cầu rút tiền. Với
một ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, khi nhu cầu vay vốn trên thị trường là rất lớn,
một mặt ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay, mặt khác với quy mô nhỏ, ngân
hàng nếu cho vay tối đa nguồn vốn huy động đuợc, dự trữ ít sẽ dẫn đến mất khả
năng thanh toán. Trong khi đó, với một ngânh hàng trường vốn, họ thực hiện dự trữ
đủ khả năng thanh toán đồng thời vẫn thỏa mãn được nhu cầu vay vốn của nền kinh
tế, do đó sẽ tạo được uy tín ngày càng cao.
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng
lớn. Vì vậy nếu loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ
thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn khả dụng của ngân hàng nói
riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô
ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm giữ chữ
tín, vừa nâng cao vị thế của ngân hàng.
1.1.2.3. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh doanh
khác của Ngân hàng:
Vốn của Ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng.
Thông thường, các Ngân hàng nhỏ phạm vi hoạt động kinh doanh, khoản mục đầu
tư, khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh hưởng đến khả năng thu
hút vốn của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư, thậm chí không đáp ứng được
nhu cầu vốn vay của doanh nhiệp. Họ sẽ mất khách hàng và không tận dụng được
cơ hội kinh doanh. Nếu là Ngân hàng lớn, nguồn vốn dồi dào chắc chắn họ sẽ đáp
ứng được nhu cầu về vốn, có điều kiện để mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều
doanh nghiệp và thị trường tín dụng.
Nguồn vốn lớn còn giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều loại hình khác
nhau như: Liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua tài chính, kinh doanh chứng
khoán… các hình thức kinh doanh này nhằm phân tán rủi ro và tạo thêm vốn cho
Ngân hàng. đồng thời, nâng cao uy tín và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Vì
vậy, vốn có vai trò quyết định trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.1.2.4 Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật của ngân
hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng vốn lớn là điều
kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành
phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn
cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu
hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên
nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là
điều kiện để bổ xung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật và quy mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Đồng thời vốn của ngân hàng lớn sẽ tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng tổng hòa các
nguồn vốn khác. Trên cơ sở đó sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh
doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng các
hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua (leasing), mua bán nợ
(phactoring), kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Chính các hình thức kinh
doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo
thêm vốn cho ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường.
Ngoài ra vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện cho NHNN đảm bảo khả năng
thực thi chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, đảm bảo cân đối tiền
– hàng trong nền kinh tế.
Xuất phát từ vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và
của nền kinh tế nên nguồn vốn nói chung và vốn huy động nói riêng phải thường
xuyên được bảo toàn và không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả của vốn
là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của hoạt động kinh doanh
ngân hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, nâng cao hiệu quả huy động vốn là
sự cần thiết trong quá trình hoạt động của NHTM ở tất cả các quốc gia.
1.1.3. Nội dung và tính chất của các loại vốn trong NHTM
1.1.3.1. Vốn tự có:
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được thuộc về sở
hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài để hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng
nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một
ngân hàng.
Do tính chất ổn định của nó, Ngân hàng có thể sử dụng vào các mục đích khác nhau
như trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, dùng để đầu tư hay góp vốn liên
doanh… vốn tự có là căn cứ quyết định khả năng thanh toán khi Ngân hàng gặp rủi
ro. Sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định năng lực và sự phát triển của NHTM.
Vốn tự có của Ngân hàng được hình thành căn cứ vào hình thức tổ chức của NHTM
là: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần hay NHTM liên doanh…
Vốn tự có gồm các thành phần: vốn tự có cơ bản, vốn tự có bổ sung.
+ Vốn tự có cơ bản: Là vốn điều lệ – vốn pháp định
Vốn điều lệ: do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của Ngân
hàng, theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định.
Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật
quy định.
+ Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động của ngân hàng gia tăng vốn của chủ
theo nhiều phưong thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và các quỹ như:
Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự trữ đặc biệt và quỹ khác.
Nguồn nội bộ (nguồn từ lợi nhuận): Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không,
chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng
thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích
lũy từ lợi nhuận và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm có thu nhập ròng lớn,
nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao hơn với vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bên ngoài: Là nguồn bổ xung từ phát hành thêm cổ phiếu để mở rộng quy
mô hoạt động hoặc để đổim mới trang thiết bị hay để đáp ứng yêu cầu vốn của chủ
do ngân hàng nhà nước quy định.
Nếu phát hành cổ phiếu thường phải chia sẻ quyền lực và lợi nhuận
Nếu phát hành cổ phiếu ưu đãi thì không chia sẻ quyền lực và lợi tức là cố định
Nếu phát hành trái phiếu chuyển đổi thì không mất quyền sở hữu và lợi nhuận có
thể chuyển đổi ra tiền tiết kiệm nhưng trái phiếu vẫn là một khoản nợ và ngân hàng
phải để một khoản quỹ để trả nợ.
Đặc điểm của hình thức huy động này là không thuờng xuyên song giúp ngân hàng
có được lượng vốn sở hữu vào lúc cần thiết.
Các quỹ:
Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Là quỹ được dùng với mục đích tăng cường vốn tự
có ban đầu. Lợi nhuận hàng năm bổ sung vào quỹ này cho đến khi đạt 50% vốn tự
có thì sẽ chuyển thành vốn tự có.
Quỹ dự trữ đặc biệt: Là quỹ dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình kinh
doanh nhằm bảo toàn vốn.
Các quỹ khác: Gồm có lợi nhuận chưa phân phối, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,
quỹ khấu hao tài sản cố định.
Các quỹ trên thuộc sở hữu của ngân hàng. Nguồn hình thành là từ thu nhập của
ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được
coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng (vốn bổ xung) do nguồn này có một
số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không
phải hoàn trả khi đến hạn.
1.1.3.2. Vốn huy động:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế và cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ tín dụng,
thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân hàng chỉ có
quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng thời
hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút.Vốn huy động đóng vai trò
rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM.
Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành phần kinh tế
trong xã hội. Do đó, các NHTM luôn quan tâm khai thác để mở rộng tín dụng.
Nhưng nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh doanh, còn phải dự trữ
một tỷ lệ hợp lí để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động gồm có: Vốn tiền
gửi và phát hành những giấy tờ có giá.
Vốn tiền gửi:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng
nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu này (gửi
tiền để sử dụng séc, sử dụng thẻ rút tiền hoặc để thực hiện dịch vụ chuyển tiền, dịch
vụ LC hay dịch vụ nhờ thu).
Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi, gồm tiền gửi thanh
toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý.
Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân
để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng thực hiện các nhu cầu chi trả của
doanh nghiệp và cá nhân trong phạm vi số dư cho phép. Các khoản thu bằng tiền
của doanh nghiệp và cá nhân có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu,
với loại tiền gửi này lãi suất là rất nhỏ (huặc bằng 0)
Tiền gửi không kỳ hạn chỉ không ổn định với cá nhân còn đối với doanh nghiệp rất
ổn định.
Tài khoản tiền gửi thanh toán: Là tài khoản mà việc rút và nộp tiền được thực hiện
bằng séc hoặc chuyển khoản.
Tài khoản vãng lai: Là tài khoản lúc dư nợ, lúc dư có.
Tuy nhiên, ở Ngân hàng luôn có sự chênh lệch giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản
tiền gửi thanh toán, thường nhập lớn hơn xuất. Từ đó, tạo nên một khoản tiền tạm
thời nhàn rỗi và Ngân hàng có thể sử dụng một phần để kinh doanh.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là khoản tiền kí gửi với mục đích an toàn tài
sản, không phải để thanh toán, khi cần khách hàng có thể rút ra để chi tiêu và Ngân
hàng phải thoả mãn yêu cầu của họ. Ngân hàng có thể sử dụng phần dư thừa nếu
đảm bảo được khả năng chi trả.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và Ngân
hàng về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc khách hàng không được rút tiền trước thời
hạn. Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết
kiệm.Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn
khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa loại tiền
gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng
nhu cầu của khách hàng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn không được dùng để thanh
toán, thường có lãi xuất cao và thời hạn dài hơn.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Là một phần thu nhập của người lao động chưa sử dụng đến,
tạm thời nhàn rỗi. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an
toàn và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm có hai loại: tiết kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm
có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào nhưng
không được dùng các phương tiện thanh toán để chi trả cho khách hàng.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận của khách hàng và
Ngân hàng về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn.
Tiền gửi của các ngân hàng khác là nguồn tiền của các ngân hàng thường mài gửi
vào nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ hay một số mục đích khác.
Đây là nguồn vốn chính để ngân hàng kinh doanh tiền tệ, nó là một trong những
nguồn vốn ổn định nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên tiền gửi có kỳ hạn
của doanh nghiệp chủ yếu là ngắn hạn vì doanh nghiệp hoạt động có chu kỳ, khi
nào tạm thời thừa vốn thì mới gửi ngân hàng. Mặt khác:
Lãi suất huy động nhỏ hơn lãi suất vay nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền
kinh tế.
Nếu lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động: Ngân hàng có lãi
Nếu tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế <lãi suất cho vay
< lãi suất huy động thì mọi người gửi hết tiền vào ngân hàng và không kinh doanh
nữa như vậy ngân hàng không cho ai vay được điều này không thể xảy ra do đó
không bao giờ gửi vốn vào ngân hàng trung dài hạn vì mục đích họ hướng tới là tỷ
suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Phát hành giấy tờ có giá:
Bên cạch các phương thức trên, các NHTM còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái
phiếu và kỳ phiếu. Thực chất là việc huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ
có giá.
+ Kỳ phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có kỳ hạn nhỏ hơn 12 tháng
Đặc trưng của nó là quản lý được chính sách lãi suất trong ngắn hạn
Tính lỏng cao
Ngân hàng phát hành chủ động hơn về mặt quy mô hoạt động (chỉ thông qua tổng
giám đốc)
+ Trái phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có thời hạn lớn hơn 12 tháng
Đặc trưng: Quản lý được chính cách lãi suất trong dài hạn
Tính lỏng cao, có thể mua bán được trên thị trường chứng khoán
Phát hành thông qua thống đốc ngân hàng
+ Chứng chỉ tiền gửi
Các giấy tờ có giá được Ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục đích với sự
chấp thuận của NHNN, hình thức huy động vốn này các NHTM phải trả lãi suất cao
hơn so với lãi suất tiền gửi thông thường.
Qua trình bày trên, vốn huy động là nguồn vốn giữ vị trí quan trọng và chủ yếu
trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng
nguồn vốn (khoảng 80%). Các NHTM phải tôn trọng về mức vốn huy động theo
quy định của pháp luật.
1.1.3.3. Vốn đi vay
Vốn đi vay: là khoản tiền vay muợn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng
huy động vốn bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro thanh khoản của
các ngân hàng.
- Vay từ NHTW là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (tái cấp vốn). Các
thương phiếu đã được các NNTM chiết khấu (tái chiết khấu) trở thành tài sản của
họ. Khi cần tiền ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại
NHNN. Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất
lượng như thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao và phù hợp với mục tiêu của
NHNN trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu NHNN cho
NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Nguồn vốn
này chiếm tỷ trọng nhỏ trong ngân hàng, nó chủ yếu là vốn ngắn hạn, chi phí cao
hay thấp phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTW:
+ Nếu NHTW thắt chặt tiền tệ với lãi suất cao
+ Nếu mở rộng tiện tệ thì lãi suất thấp
NHTW cho vay nhằm mục đích để bảo vệ an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng và
thực hiện chính sách tiền tệ.Vay từ NHTM khác là nguồn các ngân hàng vay mượn
lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị trường liên ngân hàng.
Với các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết quả dư gia tăng bất
ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng
khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.
Với các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ lại có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm
bảo thanh khoản
+ Vay qua đêm là hợp đồng vay mượn bất thành văn giữa hai ngân hàng chủ yếu
thông qua điện thoại và điện tín chỉ có thời hạn không quá một ngày
+ Vay kỳ hạn là hợp đồng vay mượn thành văn có thời hạn cụ thể (vài tuần, vài
tháng, hoặc vài năm). Thường các ngân hàng đi vay phải có giấy tờ có giá để cầm
cố đưa cho ngân hàng cho vay.
Đây là nguồn vốn chủ yếu là ngắn hạn
Tỷ trọng tương đối lớn đặc biệt là ngân hàng bán buôn
Chi phí cao hay thấp phụ thuộc vào cung cầu trên thị truờng tiền tệ
Vay trên thị trường vốn: Các ngân hàng vay mựon bằng cách phát hành các giấy nợ
(kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Các khoản vay trung và dài hạn
nhằm bổ xung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung dài
hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo/
Ngân hàng nào có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn nhiều hơn.
Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp họ phải thông qua các ngân
hàng đại lý hoặc đựoc bảo lãnh của các ngân hàng đầu tư.
Khả năng vay mượn còn được phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài
chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
1.1.3.4. Vốn khác
Vốn khác là toàn bộ giá tị tiền tệ mà ngân hàng huy động được thông qua việc cung
cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ủy thác đầu tư. Bao gồm
nguồn ủy thác, nguồn thanh toán và các nguồn khác
Nguồn ủy thác là nguồn vốn mà ngân hàng có được nhờ thực hiện tốt các dịch vụ
của khách hàng đặc biẹt là dịch vụ cho vay và dịch vụ thanh toán.
- Nguồn vốn này thường có chi phí rất thấp
- Tỷ trọng nguồn vốn này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ và uy tín
của khách hàng.
Nguồn trong thanh toán: Nguồn này được hình thành từ các hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt như: Séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C
Những ngân hàng này là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền
của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
Nguồn khác: Là các khoản nợ như thuế chưa nộp, lưong chưa trả vv.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM tạo được một khoản vốn gọi là
vốn trong thanh toán, gồm: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi
séc bảo chi… Các khoản tiền mặt tạm thời được trích khỏi tài khoản này để nhập
vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên được gọi là tiền nhàn rỗi.
Qua nghiệp vụ đại lý, các NHTM thu hút được một lương vốn trong quá trình thu -
chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng, nhận và chuyển vốn cho khách
hàng hay một dự án đầu tư…
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng và nội dung biện pháp tạo vốn của NHTM
1.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM
Mọi hoạt động kinh doanh diễn ra đều chịu sự tác động nhất định của môi trường
xung quanh. Công tác huy động vốn – một nghiệp vụ quan trọng hàng đầu của
NHTM cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong cơ chế thị trường, các NHTM
buộc phải cạch tranh để có thể thu hút được nguồn vốn lớn với chi phí thấp để tồn
tại và phát triển. Do đó, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, tìm giải pháp nâng cao
khả năng huy động vốn là rất cần thiết. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy
động vốn có nhiều và rất đa dạng, nhưng tập trung lại có hai nhóm nhân tố là:
Khách quan và chủ quan.
1.2.1.1. Nhóm nhân tố khách quan (PEST):
Bao gồm: Chính trị - pháp luật, kinh tế, môi trường xã hội và công nghệ
- Hành lang pháp lý: Có ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ huy động vốn của NHTM
như luật các tổ chức tín dụng, luật NHNN… Những luật này quy định tỷ lệ huy
động vốn của NHTM so với vốn tự có, quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu
và quy định cả mức cho vay của NHTM đối với khách hàng…
Sự can thiệp của NHNN khi thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng ảnh
hưởng tới việc huy động vốn, vì khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ mang
lại thuận lợi cho NHTM trong việc huy động vốn vay từ NHNN. Đồng thời, nó còn
có tác dụng làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt sẽ khó khăn hơn trong việc huy động vốn vay từ NHNN.
Chính sách đầu tư của Nhà nước hợp hý hay không hợp lý cũng ảnh hưởng đến
chính sách huy động vốn của Ngân hàng. Để khuyến khích sản xuất, đầu tư, Nhà
nước có chính sách bảo hộ cho hàng hoá sản xuất, chính sách trợ giá… tạo điều
kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển và có lãi. Các doanh nghiệp và người lao
động có tích luỹ là nền tảng để Ngân hàng huy động vốn được nhiều hơn.
- Sự tăng trưởng của nền kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, doanh nghiệp
và cá nhân có thu nhập khá, tích luỹ được nhiều nên các khoản tiền ký thác thường
tăng nhanh để đáp ứng các giao dịch kinh tế. Mặt khác, nền kinh tế phát triển sẽ có
tác động ngược lại, nhiều doanh nghiệp mới được thành lập, giao dịch kinh tế tăng
hơn hình thành một bộ phận tích luỹ, tạo môi trường tiềm tàng để NHTM thu hút
vốn.
Chu kỳ kinh tế (phục hồi – Tăng trưởng – Bão hòa – Suy thoái).
NHTM phải tìm biện pháp huy động sao cho có hiệu quả, vừa thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển, vừa đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Ngược lại, khi nền
kinh tế suy thoái, sản xuất bị đình trệ, môi trường đầu tư của Ngân hàng sẽ bị thu
hẹp, lợi nhuận của Ngân hàng giảm, quá trình huy động vốn sẽ gặp nhiều khó khăn.
Hơn thế nữa, lạm phát làm cho đồng tiền mất giá, người dân sẽ không gửi tiền vào
Ngân hàng, mà dùng tiền để mua hàng hoá có giá trị để cất trữ cũng ảnh hưởng đến
việc huy động vốn của Ngân hàng.
Bên cạnh đó chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa quốc gia cũng ảnh hưởng tới
việc tạo vốn của ngân hàng. Nếu mở rộng tiền tệ thì sẽ huy động vốn dễ, nếu thắt
chặt tiền tệ sẽ huy động vốn khó. Khi chính sách tài khóa thu hẹp cũng như tăng
thuế, giảm chi tiêu chính phủ cũng dẫn tới tăng thất nghiệp nên khó huy động vốn.
Mặt khác lãi suất giảm sẽ không hấp dẫn được nguồn tiết kiệm vì người có tiền sẽ
chỉ quan tâm tới ai suất dương, vậy nên không ai muốn gửi tiền tiết kiệm.
Tỷ giá hối đoái cũng ảnh hưởng tới việc tạo vốn của ngân hàng. Khi đồng việt nam
mất giá dân chúng không muốn giữ đồng nội tệ mà chuyển sang cất giữ đồng ngoại
tệ và vàng, vì vậy huy động vốn nội tệ trong dâc cư sẽ giảm.
- Môi trường – xã hội: Đời sống, thu nhập của người dân là yếu tố trực tiếp quyết
định đến lượng tiền gửi vào Ngân hàng. Thật vậy, thu nhập của ngưòi lao động càng
cao thì nguồn vốn động được vào Ngân hàng càng lớn. Bởi vì, người dân có thu
nhập cao ngoài việc thoả mãn được yêu cầu của đời sống, họ còn giành một phần để
tích luỹ. Số tiền tích luỹ này sẽ dùng để thoả mãn nhu cầu cao hơn trong tương lai.
Tâm lý và thói quen tiêu dùng của người dân cũng ảnh hưởng đến việc huy động
vốn của Ngân hàng. ở các nước phát triển, nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt
qua Ngân hàng rất phát triển. Các nước chậm phát triển, tâm lý ưa dùng tiền mặt và
tích luỹ tiền không gửi vào Ngân hàng là khá phổ biến. Tâm lý và thói quen tiêu
dùng còn rất khác nhau giữa các dân tộc và các vùng, miền ở nước ta. Vì vậy, phát
triển nhanh các hình thức không dùng tiền mặt có ý nghĩa quan trọng trong việc huy
động vốn của Ngân hàng.
- Công nghệ: Các ngân hàng ứng dụng công nghệ cao thì càng tăng được khả năng
huy động vốn vì càng tăng khả năng tiếp cận với khách hàng, giảm được thời gian
vv…Hiện nay các NHTM ở nước ta đã đưa máy rút tiền tự động ATM vào thị
trường để khách hàng sử dụng, khách hàng có thể rút tiền ở mọi lúc, mọi nơi.
1.2. 1.2. Nhân tố chủ quan
- Chính sách lãi suất:
Là một nhân tố quan trọng, có tác động mạnh đến việc huy động vốn của NHTM;
đặc biệt là đối với các khoản vốn mà người gửi hoặc người dân đầu tư Ngân hàng
với mục đích hưởng lãi. Các Ngân hàng cạnh tranh không chỉ về lãi suất huy động
với các Ngân hàng khác mà cả với thị trường tiền tệ. Do đó, chỉ một sự khác biệt
nhỏ về lãi suất có thể đẩy dòng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư theo những chiều
hướng khác nhau. Đó cũng là lý do, động lực để các nhà đầu tư hoặc người gửi tiền
chuyển vốn từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác.
Vì vậy, xác định một lãi suất hợp lý, có tính cạch tranh là một vấn đề vô cùng quan
trọng, phải được nghiên cứu, cân nhắc, tính toán tỷ mỉ và toàn diện. Tuy nhiên,
Ngân hàng phải tính toán sao cho lãi suất vừa có tính cạnh tranh, vừa phải đảm bảo
được chi phí đầu vào thấp nhất và kinh doanh có lãi.
- Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng:
Cũng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến công tác huy động vốn. Một Ngân hàng
có hệ thống chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ đạt được các mục tiêu đề ra về chi
phí cũng như về lợi nhuận. Đó là chiến lược về sản phẩm dịch vụ. Chiến lược giá,
lãi suất, chiến lược phân phối, chiếm lược phát triển nhân sự, chiến lược khuyếch
chương giao tiếp… có tác động mạnh đến việc huy động vốn. Hệ thống chiến lược
kinh doanh của Ngân hàng là thực tiễn sinh động để đánh giá năng lực và trình độ
quản lý hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, tạo được niềm tin đối với khách
hàng. Do đó, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với Ngân hàng.
- Uy tín và vị thế của Ngân hàng:
Thông thường, khách hàng lựa chọn những Ngân hàng có uy tín và vị thế trên thị
trường để giao dịch, vay mượn, thanh toán và bảo lãnh… Uy tín và vị thế của Ngân
hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn của khách hàng, thể hiện cụ thể ở
năng lực tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh, quá trình lịch sử, chất lượng
marketing… Vì vậy, các Ngân hàng thông qua hoạt động của mình, bằng chất lượng
dịch vụ, công nghệ hiện đại và phong cách làm việc văn minh, lịch sự … thoả mãn
tốt nhất mọi yêu cầu của khách hàng, là thiết thực nâng cao uy tín và vị thế trên thị
trường.
- Các hình thức huy động và dịch vụ kèm theo:
Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, việc đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ Ngân
hàng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng. Với nhiều loại sản phẩm khác nhau, khách hàng
có thể lựa chọn một sản phẩm phù hợp với điều kiện khả năng của mình. Có như
vậy, NHTM mới thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với mình. Không
những thế, Ngân hàng còn phải đưa ra được các dịch vụ kèm theo tốt và đa dạng để
tăng lợi thế cạnh tranh. Với nhiều tiện ích kèm theo, sẽ giúp Ngân hàng thu hút
được ngày càng nhiều nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế và dân cư trong xã
hội. Qua đó, tạo thêm nhều mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn giữa các Ngân hàng và
khách hàng.
- Mạng lưới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng:
Tổ chức mạng lưới hoạt động rộng, hợp lý trên địa bàn dân cư giúp Ngân hàng có
nhiều cơ hội để thu hút vốn hơn, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí để
thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, việc mở chi nhánh cần phù hợp với điều kiện năng
lực của Ngân hàng. Yếu tố địa điểm cũng tác động đến tâm lý của khách hàng, một
Ngân hàng nằm ở vị trí thuận lợi như khu vực trung tâm, khu đông dân cư, đi lại
thuân tiện… giúp khách hàng thu hút được nhiều khách hàng hơn.
- Cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ nhân viên:
Có thể nói, tất cả mọi khách hàng đều muốn giao dịch với Ngân hàng có địa điểm
đẹp, cơ sở vật chất hiện đại, cán bộ nhân viên phục vụ tận tình và lịch thiệp. Một
Ngân hàng được trang bị công nghệ hiện đại nhất định sẽ rút ngắn được rất nhiều
thời gian sử lý công việc, đảm bảo được độ chính xác cao trong các giao dịch kinh
tế. Hơn nữa, cơ sở vật chất, trình độ công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ nhân viên
có trình độ chuyên môn cao là điều kiện cần thiết để họ giải quyết công việc nhanh
chóng, khoa học… Từ đó, nâng cao hơn chất lượng dịch vụ Ngân hàng cung ứng ra
thị trường, là điều khách hàng rất quan tâm.
1.2 2.Nội dung các biện pháp tạo vốn của NHTM
1.2 2.1. Biện pháp kinh tế
Khi sử dụng các biện pháp kinh tế để huy động vốn tức là việc ngân hàng sử dụng
đòn bẩy kinh tế để thu hút khách hàng, được thể hiện bằng lãi suất hay phí dịch vụ.
áp dụng lãi suất cạnh tranh là việc ngân hàng nâng cao lãi suất huy động hạ phí
dịch vụ so với bình quân thị trường (việc này không có lợi cho ngân hàng vì làm
tăng chi phí nhưng ngân hàng vẵn phải sử dụng trong thị trường nhất định ). Phải sử
dụng việc thâm nhập thị trường hoặc tìm được đầu ra có thu nhập cao.
* Chính sách lãi suất huy động phù hợp:
Muốn xác định chính sách lãi suất huy động phù hợp phải dựa trên những
nguyên tắc chung của ngân hàng. Với ngân hàng thì qua nghiên cứu nghị định
166/1999, doanh thu chính là thu nhập. Lãi suất của ngân hàng cần được xác định
trên cơ sở xem xét các yếu tố thu nhập và chi phí nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Như
vậy lãi suất được xác định ở mức tại đó thu nhập biên bằng chi phí biên.
* Chính sách lãi suất cụ thể:
- Chính sách lãi suất phù hợp với từng nguồn tiền huy động theo nguyên tắc
thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao
- Chính sách lãi suất thâm nhập thị trường ( lãi suất cạnh tranh)
Với mức lãi suất này ngân hàng trả mức lãi suất tiền gửi cao hơn huặc thu phí dịch
vụ thấp hơn so với các ngân hàng khác
Chính sách lãi suất này thường được các ngân hàng đang ở giai đoạn thâm nhập thị
trường áp dụng. Những ngân hàng này thuờng là những ngân hàng còn non trẻ, mới
thành lập, nguồn vốn còn thiếu. Vì thế nên việc họ áp dụng chính sách lãi suất này
nhằm tăng nhu cầu vốn lưu động để có thể đứng trên thị trường ngân hàng cạnh
tranh ngày càng khốc liệt. Những ngân hàng này thường đưa ra mức lãi suất cao
hơn đáng kể so với tứ đại ngân hàng. Nhận thấy rất rõ khi ta nhìn vào mục lãi suất
tiết kiệm trong tờ Thời báo ngân hàng. Những ngân hàng cổ phần: NHTMCP Quốc
tế, NHTMCP Đông á, mức lãi suất của họ luôn cao hơn các NHTMNN.
Khi các ngân hàng muốn tăng nhu cầu vốn, mở rộng thị trường, đặc biệt là cần tiền
cho một dự án thì họ cũng áp dụng chính sách này.Ví dụ như khi NHNT muốn huy
động ngoại tệ cho một số dự án của họ ở giai đoạn 2001 – 2010, họ đã huy động trái
phiếu thời hạn 5 năm, với lãi suất năm đầu tiên là 4,2%, trong khi lãi suất năm tại
thời điểm đó ở NHNT là 2,25%/năm.
Tuy nhiên chúng ta không thể thường xuyên áp dụng chính sách này vì sẽ làm tăng
chi phí, giảm thu nhập. Các ngân hàng cũng chỉ nên áp dụng chính sách này trong
từng thời kỳ cụ thể, đặc biệt là các NHTMCP.Trên thực tế ta thấy rất rõ, NHTMCP
luốn có lãi suất cao hơn các NHTM của nhà nước như ICB, VCB, BIDV. Nhưng
khách hàng thường không thay đổi ngay lập tức ngân hàng. Vì chi phí và sự rủi ro
cho sự thay đổi này là không nhỏ. Hơn nữa là khách hàng đã quen với các hoạt
động giao dịch của ngân hàng mình đã chọn, cách chăm sóc khách hàng, các dịch
vụ ưu đãi vv…Theo nghiên cứu của một số chuyên gia Mỹ: Các công ty lẫn cá nhân
khi xem xét gửi tiền thì quan tâm đến rất nhiều yếu tố chứ không chỉ đơn thuần là
lãi suất. Các cá nhân thì đặc biệt quan tâm đến quan hệ lâu dài và địa điểm thuận
lợi. Trái lại các doanh nghiệp lại ưu tiên các ngân hàng có khả năng cho vay tốt và
tình hình tài chính vững mạnh.
- Chính sách định giá mục tiêu trọng điểm
Ngân hàng mong muốn thu hút các cá nhân và doanh nghiệp gửi tiền thông qua các
điều khoản tiền gửi hấp dẫn với hy vọng nhận được các khoản tiền gửi quy mô lớn,
nhằm tăng cường khả năng huy động vốn.
Ngân hàng áp dụng những chương trình quảng cáo công phu cũng như lãi suất hấp
dẫn để thu hút những khách hàng có địa vị trong xã hội. Đối với khách hàng có số
dư thấp, ít ổn định ngân hàng định giá cao hơn để hạn chế. Chiến lược này thường
kết hợp với chương trình nhà ngân hàng cá nhân (personal banhker), theo đó mỗi
khách hàng lớn được một cán bộ ngân hàng chịu trách nhiệm đáp ứng tất cả các nhu
cầu dịch vụ ngân hàng.
Việc áp dụng chính sách này giảm được chi phí nhờ có được nhiều tài khoản có số
dư cao và ổn định. Nhưng cũng có những bất lợi là khó áp dụng được với những
ngân hàng nằm tại những khu vực không phát triển thịnh vượng.
- Chính sách lãi suất trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng:
Ngân hàng quy định mức phí thấp hơn và mức thu nhập cao hơn cho khách hàng có
quan hệ lâu dài với ngân hàng và ngân hàng định giá theo số lượng dịch vụ khách
hàng sử dụng. Cơ sở của chính sách này là quan điểm cho rằng: khách hàng sử dụng
nhiều dịch vụ hơn sẽ trung thành hơn và trong dài hạn sẽ tạo ra thu nhập lớn hơn
cho ngân hàng.
1.2.2.2. Biện pháp kỹ thuật:
* Về sản phẩm:
Ngân hàng phải đảm bảo các dịch vụ huy động đa dạng, hữu ích tiện lợi cho
khách hàng. Sự đa dạng thể hiện từ các mức kỳ hạn, các dạng gửi tiền đến những
tiêu chí khác. ở Việt nam, sự đa dạng thể hiện qua kỳ hạn chỉ chủ yếu tập trung ở
tiền gửi ngắn hạn, còn đối với trung dài hạn thì chưa nhiều. Các dạng gửi tiền cũng
còn nghèo nàn. Chỉ tập chung chủ yếu là gửi tiền kỳ hạn và không kỳ hạn. Những
loại tiền gửi khác như tiết kiệm tích luỹ theo niên kim (một dạng gửi góp) chỉ mới
bước đầu phát triển. Những loại tiết kiệm theo mục đích phát triển rất nhiều ở nước
ngoài như : Tiết kiệm cho con đi học đại học, tiết kiệm cho các kỳ nghỉ du lich…
Hầu như chưa xuất hiện ở việt nam. Việc sử dụng quá nhiều tiền mặt ở việt nam
cũng hạn chế đưa ra nhiều dịch vụ huy động tiền gửi của ngân hàng. Những dịch vụ
như thanh toán lương cho nhân viên của các công ty qua tài khoản của ngân hàng
cũng phát triển rất mạnh. Nhưng ở việt nam(hầu như chỉ phát triển với chính cán bộ
của các ngân hàng).
Một vấn đề nữa là tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng. Các ngân hàng nước
ngoài triển khai vấn đề này theo hai hướng đưa ra các dịch vụ huy động đa năng (tài
khoản ký thác vạn năng) và tiết kiệm điện tử (gửi một nơi rút tiền nhiều nơi). ở việt
nam, tiết kiệm điện tử mới chỉ là bước đầu được triển khai ở một số NHTM lớn như
ICB, VCB dịch vụ tiết kiệm đa năng hầu như chưa được định hướng. Việc tạo ra
các sản phẩm đa năng được các ngân hàng nước ngoài triển khai rất hiệu quả: Ví dụ
với một tấm thẻ mang tên ACCESS của ANZ Bank các khách hàng có thể sử dụng
một loạt dịch vụ: Tiết kiệm, đầu tư tự động, chuyển các nguồn thu nhập vào tài
khoản, chỉ trả các hoá đơn và vay tiền.
* Phân phối:
Đối với các khách hàng cá nhân, địa điểm thuận tiện là một trong những vấn
đề quan trọng. Ngày nay, để tiếp cận một ngân hàng khách hàng không chỉ có cách
duy nhất là tới các chi nhánh, họ có thể tiếp cận với ngân hàng một cách gián tiếp
thông qua các hệ thống homebanking, EFTPOS, máy rút tiền tự động. Nếu một
ngân hàng có đầy đủ các hệ thống trên sẽ thu hút đuợc khách hàng gửi tiền tại ngân
hàng của mình. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận sự tồn tại của các chi nhánh, các
phòng giao dịch. Những phòng giao dịch khang trang với hệ thống máy móc hiện
đại hoặc nằm trong những cao ốc luôn tạo những cam giác an toàn với khách hàng.
Ngày nay, một số ngân hàng việt nam đã chú ý đến vấn đề này.
1.2.2.3. Biện pháp tâm lý:
* Con người:
Khách hàng luôn có rất nhiều ấn tượng với phong cách phục vụ của các nhân viên.
Các ngân hàng việt nam đang quan tâm đến vấn đề này thông qua việc đầu tư xây
dựng những quyền cẩm nang phục vụ khách hàng. Phong cách ở đây được hiểu là
cả thái độ phục vụ lẫn trình độ chuyên môn của nhân viên. Trong quyển cẩm nang
đó nhân viên được dậy cách tiếp cận sao cho hiệu quả với khách hàng mới, với
khách hàng đã từng nhiều lần đến gửi tiền. Vấn đề trình độ chuyên môn cũng như
khả năng xử lý thành thạo quy trình nghiệp vụ cũng được đề cập tới. Các nhân viên
sẽ được hướng dẫn cách xử lý các tình huống hàng ngày
Trong khoảng thời gian 1999, khi lãi suất ngoại tệ tăng liên tục do FED tăng lãi suất
nhân viên ngân hàng có hiểu biết thì có thể khuyên khách hàng gửi ngắn hạn để có
thể nhận được những mức lãi suất cao hơn trong những kỳ tiết kiệm tiếp theo. Nếu
trong giai đoạn 2001, khi FED liên tục hạ lãi suất mà vẫn chưa vực được nền kinh tế
mỹ, nhân viên ngân hàng có thể khuyên khách hàng có thể gửi tiền dài hạn để tránh
lãi suất tiếp tục bị hạ. Nhận được những lời khuyên đúng đắn sẽ làm cho khách
hàng có những ấn tượng không bao giờ quên và đó chính là việc làm hữu ích tạo ra
sự trung thành của khách hàng đối với ngân hàng.
* Khuyếch trương:
Hoạt động khuyếch trương của ngân hàng bao gồm từ các trương trình quảng cáo
công phu, các đợt gửi tiền có thưởng ( ABC, NHNo&PTNT…) Và những quà tặng
dành cho những khách hàng lớn. Tại các ngân hàng nước ngoài dựa trên các
application form của khách hàng, ngân hàng đã gửi những món quà vào đúng ngày
sinh nhật của khách hàng.
Mở rộng mạng lưới chi nhánh, hiện đại hóa công nghệ đặc biệt đa dạng hóa kênh
phân phối để tăng diện tiếp xúc với khách hàng. Đa dạng hóa danh mục sản phẩm
dịch vụ tiết kiệm đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán. Cải tiến quy
trình phải đảm bảo nhanh gọn, chính xác, phù hợp với khả năng của nhân viên đồng
thời đảm bảo tiện lợi cho khách hàng.
Đối với phần lớn khách hàng gửi tiền thì thời gian luôn rất quan trọng. Một quy
trình nhanh chóng sẽ làm cho khách hàng có cảm giác thoải mái mỗi khi tiếp xúc
với ngân hàng. Hiện nay, người ta nhắc nhiều đến quy trình tiết kiệm một cửa. Điều
này thực ra rất phổ biến đối với các ngân hàng nước ngoài. Quy trình một cửa đơn
giản là việc khách hàng phải tiếp xúc duy nhất với một nhân viên ngân hàng trong
quá trình giao dịch. Cụ thể, trong hoạt động tiết kiệm, thay vì hai cửa: Một kế toán,
một thủ quỹ thì người ta gộp làm một nghĩa là các teller kiêm cả thủ quỷ lẫn kế toán
tuy nhiên, thực hiện quy trình này cần chú đến khả năng của nhân viên, nếu không
quy trình một cửa còn khiến cho giao dịch diễn ra lâu hơn vì người nhân viên phải
làm một lúc hai nhiệm vụ. Quy trình một cửa hiện nay đang được thực hiện rộng rãi
tại các điểm giao dịch của các NHTM
Chương2: Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông
thôn tỉnh Lạng Sơn
2.1 - Khái quát về ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn tỉnh Lạng Sơn :
2.1.1. Đặc điểm tổ chức của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh
Lạng Sơn :
Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Lạng sơn là một Ngân
hàng thương mại trực thuộc hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông