Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

NGHIÊN CỨU MẠNG NGN CỦA VNPT VÀ CÁC DỊCH VỤ TRONG NGN chương 4 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 19 trang )

TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
NGHIÊN CỨU MẠNG NGN CỦA VNPT
VÀ CÁC DỊCH VỤ TRONG NGN

CHƯƠNG 4: NGN CỦA VNPT
4.1 Nguyên tắc tổ chức thực hiện triển khai NGN
4.1.1 Yêu cầu chung
Quá trình chuyền đổi từ mạng hiện tại sang NGN cần đảm bảo các yêu cầu
sau :
- Tránh làm ảnh hưởng đến các chức năng cũng như việc cung cấp dịch
vụ của mạng hiện tại. Tiến tới cung cấp dịch vụ thoại và số liệu trên
cùng một hạ tầng thông tin duy nhất. Đồng thời phải hỗ trợ các thiết bị
khách hàng đang sử dụng.
- Mạng phải có cấu trúc đơn giản, giảm thiểu số cấp chuyển mạch và
chuyển tiếp truyền dẫn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chất lượng
mạng lưới và giảm chi phí khai thác bảo dưỡng. Cấu trúc tổ chức
mạng không phụ thuộc vào định giới hành chính. Cấu trúc chuyển
mạch phải đảm bảo an toàn, dựa trên chuyển mạch gói.
- Hệ thống quản lý mạng, dịch vụ phải có tính tập chung cao.
- Việc chuyển đổi phải thực hiện theo từng bước và theo nhu cầu của
thị trường.
- Hạn chế đầu tư các kỹ thuật phi NGN cùng lúc với việc triển khai và
hoàn thiện các công nghệ mới.
- Phải bảo toàn vốn đầu tư của VNPT.
- Xác định các giai đoạn cần thiết để chuyển sang NGN. Có các sách
lược thích hợp cho từng giai đoạn chuyển hướng để việc triển khai
NGN được ổn định và an toàn.
4.1.2 Mục tiêu xây dựng
- Dịch vụ phải đa dạng, có giá thành thấp. Thời gian đưa dịch vụ mới ra
thị trường được rút ngắn.


- Giảm chi phí khai thác mạng và dịch vụ.
- Nâng cao hiệu quả đầu tư.
- Tạo ra những nguồn thu mới, không phụ thuộc vào nguồn thu từ các
dịch vụ truyền thống.
4.1.3 Quy trình chuyển đổi
- Ưu tiên giải quyết phân tải lưu lượng Internet cho tổng đài chuyển
mạch nội hạt. Đảm bảo cung cấp dịch vụ truy nhập băng rộng tại các
thành phố lớn trước.
- Tạo cơ sở hạ tầng thông tin băng rộng để phát triển các dịch vụ đa
phương tiện, phục vụ chương trình chính phủ điện tử, của quốc gia.
- Ưu tiên thực hiện trên mạng liên tỉnh trước nhằm đáp ứng nhu cầu về
thoại và tăng hiệu quả sử dụng các tuyến truyền dẫn đường trục.
- Mạng nội tỉnh thực hiện có trọng điểm tại các thành phố có nhu cầu
truyền số liệu, truy nhập Internet băng rộng.
- Lắp đặt các thiết bị chuyển mạch thế hệ mới, các máy chủ để phục vụ
các dịch vụ đa phương tiện chất lượng cao.
4.2 Hướng phát triển NGN với các nhà cung cấp dịch vụ mạng khác nhau
Có hai hướng xây dựng NGN : xây dựng mạng hoàn toàn mới hay xây dựng
trên cơ sở mạng hiện có. Tuỳ vào hiện trạng của mạng hiện tại và quan điểm của
nhà khai thác mà giải pháp nào thích hợp sẽ được ứng dụng.

Hình 44-a: Xu hường phát triển mạng và dịch vụ dựa trên mạng hiện tại

Hình 44-b: Xu hướng phát triển mạng và dịch vụ theo quan điểm xây dựng một
mạng hoàn toàn mới
Ở Việt Nam việc xây dựng NGN được nhìn dưới hai góc độ của hai nhà khai
thác dịch vụ khác nhau: các nhà cung cấp dịch vụ truyền thống (còn gọi là nhà
cung cấp dịch vụ cố định ESP – Established Service Provider) và nhà cung cấp
dịch vụ mới (còn gọi là nhà cung cấp dịch vụ Internet ISP – Internet Service
Provider hoặc nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng ASP – Application Service

Provider).
4.2.1 Nhà cung cấp dịch vụ cố định ESP (Established Service provider)
4.2.1.1 Đối với cấu trúc mạng
- Giảm số lượng các phần tử mạng xếp chồng, tối ưu hóa mạng PSTN
- Tổ chức lại mạng để có năng lực xử lý dịch vụ băn rộng
- Từng bước triển khai các chuyển mạch thế hệ mới. Khởi đầu bằng
việc triển khai VoATM, VoIP ở mức quá giang để xử lý lưu lượng
Internet, kết nối lưu lượng mạng di động,… và các lưu lượng không
thể dự báo trước (số liệu).
- Xây dựng một mạng đường trục duy nhất. Triển khai các cổng tích
hợp VoATM-GW VoIP-GW các giao thức chuyển mạch mềm
(MEGACO MGCCP SIP SIGTRAN BICC…), định hướng chuyển
mạch quá giang sang NGN. Đồng thới lắp đặt các cổng điều khiển
phương tiện MGC, thực hiện chuyển đổi NGN ở cấp quá giang.
4.2.1.2 Đối với mạng truy nhập
- Đầu tiên là bắt đầu triển khai một số dịch vụ đa phương tiện: Dịch vụ
truy nhập băng rộng ADSL, đồng thời đưa vào sử dụng chuyển mạch
mềm và khối tập chung thuê bao thế hệ mới có hỗ trợ băng rộng.
- Tiếp theo sẽ triển khai tiếp các ứng dụng đa phương tiện cho ADSL
UMTS và điện thoại IP. Khi giá thành của chuyển mạch sử dụng trong
NGN đã thấp hơn so với chuyển mạch kênh, QoS trong NGN đã được
chuẩn hoá ta sẽ triển khai thêm các đường dây điện thoại hay kết nối
khách hàng từ bộ tập chung thuê bao truyền thống đến mạng truy nhập
NGN. Đồng thời ta sẽ lặp đặt chuyển mạch mềm cho tổng đài nội hạt
và lắp đặt các Access Gateway để nối mạng hiện tại với mạng lõi
chuyển mạch gói NGN.
4.2.1.3 Yêu cầu với mạng
Phải đáp ứng về độ tin cậy và khả năng mở rộng. Các dịch vụ mạng phải
được tối ưu hoá trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên mạng.
4.2.2 Nhà cung cấp dịch vụ mạng mới ISP/ASP (Internet Service provider/

Application Service provider)
Do các nhà khai thác này đã có sẵn hạ tầng chuyển mạch gói nên họ rất
thuận lợi trong việc xây dựng NGN.
Khi tiến hành xây dựng mạng thế hệ sau họ có thể lắp đặt các cổng điều
khiển phương tiện MGC, các server truy nhập mạng NAS (Network Acess Server),
và các server truy nhập băng rộng BRAS (Broadband Remote Acess Server), đồng
thời sử dụng các giao thức báo hiệu SIP H323 SIGTRAN… vào VoIP và các giao
thức mới bổ sung cho mạng. Về cấu trúc mạng thì phải giảm cấp chuyển mạch đặc
biệt là các tổng đài nội hạt, chuyển các loại thuê bao sang thuê bao NGN.
Như vậy ta thấy các ESP có xu hướnãiây dựng NGN trên cơ sở mạng hiện
tại và các ISP/ASP theo quan điểm ngược lại.
4.3 Giải pháp đề xuất cho phát triển NGN của VNPT
4.3.1 Giải pháp xây dựng NGN trên cơ sở mạng hiện tại
4.3.1.1 Nội dung của giải pháp
Cơ sở hạ tầng của mạng hiện tại được tổ chức lại và phát triển dần lên. Nầng
cấp các thiết bị chuyển mạch hiện có (công nghệ TDM) để hỗ trợ các dịch vụ mới
chất lượng cao như video, số liệu. Có thể bổ sung có hạn chế một số tổng đài đa
dịch vụ (chuyển mạch mềm) tại một số nút mạng chính, đặc biệt là trung tâm điều
khiển và ứng dụng của các vùng lưu lượng.
Trong giải pháp này có hai phương án như sau:
 Phương án 1:
Phương án áp dụng cho nhà khai thác mạng có yêu cầu hiện đại hoá và mở
rộng mạng trong thời gian ngắn. Phương án này gồm 4 bước:
 Bước 1: Đối với mạng thoại TDM thì triển khai mạng truyền dẫn
SDH, chuyển mạch ATM , bổ sung các thiết bị Telephony server để
quản lý thoại. Đối với mạng số liệu thì giữ nguyên kỹ thuật IP/MPLS
hoặc ATM/FR và trang bị thêm các cổng Gateway, thực hiện kết nối
giữa mạng thoại và mạng số liệu ở các nút biên mạng.
 Bước 2: Tiếp tục phát triển kỹ thuật SDH, ATM cho mạng thoại. Với
mạng số liệu thì phát triển thành mạng đa dịch vụ IP/MPLS và tăng

cường khả năng của các cổng giao tiếp ở các nút biên mạng (chúng có
nhiêm vụ kết nối giữa mạng đa dịch vụ với mạng thoại). trang bị thêm
IP telephony server cho quản lý mạng đa dịch vụ.
 Bước 3: Xây dựng chỉ một mạng thống nhất cho thoại và dữ liệu
nhưng lúc này chưa phải là mạng tích hợp đa dịch vụ hoàn toàn. mạng
PSTN sử dụng TDM sẽ không còn tồn tại riêng biệt. Tiếp tục tích hợp
và phát triển đa dịch vụ IP/MPLS.
 Bước 4: Hình thành mạng tích hợp đa dịch vụ hoàn toàn. Lúc này chỉ
còn mạng đa dịch vụ IP/MPLS tồn tại và phát triển. Telephony server
và IP telephony server sẽ quản lý mạng đa dịch vụ.
 Phương án 2:
Phương án áp dụng cho nhà khai thác mạng có yêu cầu hiện đại hoá và mở
rộng mạng trong thời gian dài. Phương án này cũng bao gồm 4 bước:
 Bước 1: Không phát triển thêm mạng thoại TDM từ đây về sau. Với
mạng số liệu thì giữ nguyên mạng chuyển mạch gói IP/MPLS hoặc
ATM/FR và trang bị thêm các Gateway.
 Bước 2, 3, 4 giống với phương án 1.
4.3.1.2 Ưu điểm
- Giá thành đầu tư ban đầu thấp.
- Có khả năng cung cấp dịch vụ mới, dịch vụ truy nhập băng rộng.
- Bảo vệ tối đa vốn đầu tư trên mạng hiện tại.
4.3.1.3 Nhược điểm
- Việc nâng cấp các chuyển mạch hiện có từ TDM sang IP/ATM chỉ là
bước đệm mà không thay đổi được về cơ bản công nghệ chuyển mạch
phục vụ cho dịch vụ mới. Điều này có nghĩa là không giải quyết được
vấn đề cơ bản là khả năng tạo dịch mới cũng như nguyên tắc tổ chức
mạng thế hệ sau.
- Chi phí đầu tư ban đầu thấp nhưng chi phí vận hành và khai thác sẽ
cao hơn so với mạng hiện tại do không có được sự quản lý thống nhất
trong toàn mạng.

- Khả năng cạnh tranh kém khi xuất hiện các nhà khái thác thế hệ mới
vì họ có cơ sở hạ tầng NGN hoàn toàn mới.
4.3.2 Giải pháp xây dựng NGN hoàn toàn mới
4.3.2.1 Nội dung giải pháp
Giải pháp này chủ trương giữ nguyên mạng hiện tại và không đầu tư tiếp tục
phát triển. Tập chung nhân lực vào việc triển khai các tổng đài đa dịch vụ thế hệ
sau.
NGN được xây dựng trước hết có khả năng cung cấp các nhu cầu về dịch vụ
của mạng hiện tại đã quen thuộc với khách hàng. Sau đó triển khia một số dịch vụ
mới. Kế tiếp triển khai nhiều dịch vụ mới trên nền NGN nhưng phải cân bằng giữa
cung và cầu.

Các nút chuyển mạch của hai mạng này sẽ liên hệ với nhau rất ít (chủ yếu
phục vụ cho các dịch vụ thoại IP) thông qua các cổng giao tiếp MG.
4.3.2.2 Ưu điểm
- Thay đổi hoàn toàn cấu trúc mạng, tăng khả năng cạnh tranh.
- Hoàn toàn sẵn sàng cung cấp dịch vụ mới, truy nhập băng rộng.
- Thời gian triển khai nhanh chóng.
- Độ tương thích cao.
- Quản lý thống nhất, tập chung.
4.3.2.3 Nhược điểm
- Giá thành đầu tư ban đầu cao.
- Rủi ro do dự báo nhu cầu tăng vượt ngưỡng dẫn đến hiệu quả đầu tư
thấp, thời gian hoàn vốn lâu.
- Tăng chi phí do phải tăng cường lực lượng lao động kỹ thuật mới.
4.4 Nguyên tắc tổ chức NGN của VNPT
4.4.1 Phân vùng lưu lượng
Cấu trúc mạng thế hệ sau được xây dựng dựa trên phân bố thuê bao theo
vùng địa lý không tổ chức theo địa bàn hành chính mà phân theo vùng lưu
lượng.Trong mỗi vùng lưu lượng có nhiều khu vực và trong một khu vực có nhiều

tỉnh thành. Số lượng các tỉnh trong mỗi khu vực tuỳ thuộc vào lưu lượng của tỉnh
đó. Căn cứ vào phân bố thuê bao, NGN của VNPT được phân thành 5 vùng lưu
lượng như sau:
- Vùng 1: Các tỉnh phía Bắc trừ Hà Nội.
- Vùng 2: Hà Nội
- Vùng 3: Các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.
- Vùng 4: Tp Hồ Chí Minh
- Vùng 5: Các tỉnh phía Nam trừ Tp HCM
4.4.2 Tổ chức lớp ứng dụng và dịch vụ
Lớp ứng dụng và dịch vụ được tổ chức thành một cấp cho toàn mạng nhằm
đảm bảo việc cung cấp dịch vụ đến tận nhà thuê bao nhanh chóng, đồng bộ và việc
cung cấp các dịch vụ mới cho khách hàng cũng dễ dàng hơn.
Số lượng nút ứng dụng/ dịch vụ phụ thuộc vào lưu lượng dịch vụ cũng như
số lượng và loại hình dịch vụ trên mạng.
Nút ứng dụng/ dịch vụ được kết nối ở mức Gigabit Ethernet 1+1 với nút điều
khiển và cả hai loại này đều được đặt tại các trung tâm NGN ở Hà Nội và Tp
HCM.
4.4.3 Tổ chức lớp điều khiển
Lớp điều khiển được tổ chức thành một cấp cho toàn mạng, thay vì 4 cấp
như hiện nay, được phân bố theo vùng lưu lượng. Điều này giúp cho ta giảm đến
mức tối thiểu các cấp mạng, tận dụng năng lực xử lý cuộc gọi của thiết bị điều
khiển thế hệ mới và giảm chi phí đầu tư trên mạng.
Số lượng nút điều khiển phụ thuộc vào lưu lượng phát sinh của từng vùng
lưu lượng và được tổ chức thành hai cặp (2 mặt phẳng A và B) nhằm đảm bảo tính
an toàn của mạng.
Mỗi một nút điều khiển được kết nối với một cặp nút chuyển mạch ATM+IP
đường trục. Trong giai đoạn đầu, mỗi vùng được trang bị ít nhất là hai nút điều
khiển.

Hình 45: Tổ chức lớp điều khiển

4.4.4 Tổ chức lớp truyền tải
Lớp truyền tải có chức năng truyền tải lưu lượng ở cả hai dạng ATM và IP.
Trong chiến lược phát triển NGN của VNPT lớp này được tổ chức thành 2 cấp: cấp
đường trục (quốc gia) và cấp vùng.

Hình 46:Tổ chức lớp truy nhập

Cấp đường trục (cấp quốc gia)
Cấp này được tổ chức thành hai mặt phẳng ) để đảm bảo độ an toàn của
mạng) và nó có nhiệm vụ chuyển mạch cuộc gọi giữa các vùng lưu lượng. Các
thành phần chính của cấp này là các nút chuyển mạch đường trục ATM+IP và các
tuyến truyền dẫn. Các tuyến này kết nối chéo giữa các nút đường trục và khả năng
nhỏ nhất của chúng là 2.5Gb/s.
Số lượng và quy mô nút chuyển mạch đường trục phụ thuộc vào lưu lượng
phát sinh trên đường trục.
Trong giai đoạn đầu các nút chuyển mạch đường trục được trang bị với khả
năng chuyển mạch ATM < 20Gb/s và khả năng định tuyến tối đa là 300 triệu
gói/giây. Các nút này được đặt tại các trung tâm truyền dẫn liên tỉnh VTN.
Cấp vùng
Các thành phần ở cấp vùng là các nút chuyển mạch nội vùng ATM+IP và
các bộ tập trung nội vùng. nhiệm vụ của chúng là đảm bảo cho việc chuyển mạch
cuộc gọi trong vùng và sang vùng khác.
Các nút chuyển mạch nội vùng được kết nối ở mức tối thiểu là 155 Mb/s.
Chúng được đặt tại vị trí các tổng đài chủ host hiện nay và được kết nối trực tiếp
với nhau theo dạng vòng ring. Chúng được nối đến các nút chuyển mạch đường
trục ở cả hai mặt phẳng bằng các tuyến truyền dẫn nội vùng (155Mb/s).
Một điều cần lưu ý là các nút chuyển mạch nội vùng phải tích hợp tính năng
máy chủ truy nhập băng rộng từ xa BRAS nhằm thực hiện chức năng điểm truy
nhập IP POP băng rộng các thuê bao xDSL.
Số lượng và quy mô các nút chuyển mạch của một vùng trong giai đoạn đầu

phụ thuộc vào nhu cầu dịch vụ tại vùng đó. Trong giai đoạn ban đầu các nút có khả
năng chuyển mạch tối đa 2.5Gb/s và khả năng định tuyến lớn hơn 500 ngàn
gói/giây.

Các bộ tập trung ATM+IP cũng được kết nối với các nút chuyển mạch nội
vùng bằng các tuyến truyền dẫn tối thiểu 155 Mb/s. Ngoài ra các bộ tập trung này
được kết nối tới các bộ truy nhập ở lớp truy nhập bằng các tuyến n*E1. nhiệm vụ
của các bộ tập trung này là tập hợp các luồng E1 thành luồng ATM và chúng được
đặt tại các điểm truyền dẫn nội tỉnh hiện nay. Số lượng các bộ tập chung phụ thuộc
vào số nút truy nhập và số thuê bao mỗi nút truy nhập.
4.4.5 Tổ chức lớp truy nhập
Lớp truy nhập gồm các nút truy nhập hữu tuyến và vô tuyến được tổ chức
không phụ thuộc theo địa giới hành chính.
Các nút truy nhập của các vùng lưu lượng sẽ được nối tới các nút chuyển
mạch đường trục của vùng lưu lượng tương ứng (thông qua nút chuyển mạch nội
vùng) mà không kết nối tới các nút chuyển mạch đường trục của vùng khác.
Nút truy nhập kết nối tới nút chuyển mạch nội vùng bằng các kênh có tốc độ
phụ thuộc vào số lượng thuê bao tại nút truy nhập đó (n*E1). Các thiết bị truy nhập
thế hệ mới phải có khả năng cung cấp cổng dịch vụ POST, ATM. IP, FR, VPN,
xDSL, VoIP, VoATM…
4.4.6 Lộ trình chuyển đổi
Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam hiện nay đã có lộ trình chuyển
đổi từ mạng hiện tại sang NGN cho giai đoạn 2001 – 2010. Lộ trình này gồm 3 giai
đoạn như sau:

Hình 47:Lộ trình chuyển đổi
 Giai đoạn 2001 – 2003
Trong giai đoạn này ta triển khai lắp đặt các nút điều khiển, nút dịch vụ
và một phần mạng đường trục.
Đầu tiên trang bị 2 nút điều khiển và 2 nút dịch vụ tại miền Bắc (Hà Nội)

và tại miền nam (TpHCM). Năng lực xử lý của mỗi nút phải trên 4 triệu BHCA
tương đương 240 ngàn kênh trung kế hay trên 400 ngàn thuê bao.
Đối với chuyển mạch đường trục thì lắp 3 nút (nút đôi tại mỗi điểm do có
2 mặt phẳng) lần lượt tại miền Bắc (Hà Nội) miền trung (Đà Nẵng) và miền
Nam (HCM).
Trang bị các cổng trung kế Trunk Gateway và nút chuyển mạch nội vùng
cho 11 tỉnh thành phố có lưu lượng thông tin lớn, đồng thời thực hiện kết nối
giữa chuyển mạch truyền thống tại những nơi này. 11 tỉnh thành phố này gồm:
Hà Nội, HCM, Đà Nẵng, hải Phòng, Quảng Ninh, Huế, Khánh Hoà, Bà Rịa
Vũng tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ.
Lắp đặt các nút truy nhập NGN (giải pháp tạm thời là nút truy nhập
xDSL) nhằm cung cấp dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao tại các tổng đài
Host trung tâm của các tỉnh kể trên.
Như vậy giai đoạn này sẽ có mạng chuyển mạch liên vùng và nội vùng
tại 5 vùng lưu lượng. Một phần lưu lượng thoại của mạng PTSN sẽ được
chuyển sang mạng đường trục của NGN.
 Giai đoạn 2004 – 2005
Đây là giai đoạn hoàn chỉnh mạng ở cấp đường trục.
Trước tiên sẽ ưu tiên triển khai dịch vụ truy nhập băng rộng xDSL tại tất
cả các tỉnh thành phố trong cả nước và lắp đặt các bộ tập trung chuyển mạch gói
thực hiện chức năng BRAS. Tăng số lượng các bộ tập trung băng rộng, các thiết
bị truy nhập NGN.
Tăng số nút điều khiển và số nút chuyển mạch nhằm mở rộng vùng phục
vụ của NGN. Hoàn thiện tổ chức 2 mặt phẳng chuyển mạch cấp đường trục và
chuyển mạch cấp vùng. Đối với chuyển mạch cấp đường trục thì lắp thêm 2
tổng đài chuyển mạch lõi tại Hà Nội và Tp HCM. Tại Đà Nẵng lắp thêm một
trung tâm điều khiển chuyển mạch mềm.
 Giai đoạn 2006 – 2010
Trong giai đoạn này sẽ hoàn thiện lớp điều khiển.
Các nút chuyển mạch cấp đường trục, các nút điều khiển được bổ sung

thêm để tạo thành hai mặt phẳng chuyển mạch A và B đầy đủ. Lúc này nhiệm
vụ của lớp này là chuyển tải lưu lượng cho 5 vùng lưu lượng.
Đến lức này lưu lượng của PSTN một phần được chuyển qua mạng
truyền thống và phần lớn được chuyển qua NGN.
4.5 Mạng NGN thực tế đang triển khai của VNPT
Như đã trình bày ở trên quá trình xây dựng NGN của VNPT sẽ trải qua 3
giai đoạn (giai đoạn 2001-2003, giai đoạn 2004-2005, giai đoạn 2006-2010). Hiện
nay đã hoàn thành xây dựng giai đoạn 1 và đang tiến hành giai đoạn 2. trong khuôn
khổ một đồ án tôi nghiệp tôi không thể có những số liệu cấp nhật mới nhất về tình
hình triển khai NGN hiện tại cụ thể đã đến đâu, vì đây là công việc không dễ thống
kê đánh giá chỉ sau các báo cáo tổng kết vào cuối quý hay năm hoặc kết thúc giai
đoạn mới có thông tin cụ thể. Nên tôi chỉ trình bày thực tế triển khai pha 1 và một
số thông tin cập nhật về triển khai pha 2.
Giái pháp xây dựng NGN được VNPT lựa chọn là giải pháp SURPASS của
Siemens. Với lựa chọn này NGN của VNPT sẽ sử dụng cấu trúc và thiết bị do
Siemens cung cấp với hệ thống thiết bị cụ thể là hiQ, hiA,hiG…Theo cấu trúc đó
NGN của VNPT sẽ được tổ chức theo 3 lớp : lớp truyền tải, lớp truy nhập, lớp điều
khiển. Cụ thể mỗi lớp được cấu trúc sau khi hoàn thành pha 1 như sau:
 Lớp truyền tải
Lớp truyền tải sử dụng các bộ định tuyến chuyển mạch và truyền dẫn quang.
Hiện trong pha 1 đã triển khai:
- 3 bộ core Router Switch M160 của JUNIPER với thông lượng chuyển
mạch là 160 Gb/s được đặt tại Hà Nội, Tp HCM và Đà Nẵng.
- 11 bộ Router biên là các thiết bị ERX 1400 đặt tại 11 tỉnh thành phố
được xác định là những vùng có lượng cao và được triển khai NGN
trước tiên. Đó là các địa phương: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh,
Huế, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Bình Dương, Đồng Nai, Tp HCM, Bà Rịa
Vũng Tàu và Cần Thơ.
- Băng thông kết nối giữa các bộ Core Router Switch lúc đầu là các
đường quang STM1 - 155 Mb/s. Nhưng sau một thời gian với sự nâng

cấp của mạng truyền dẫn đường trục thì băng thông đã được nhanh
chóng tăng lên là STM 16 – 2.5 Gb/s và định hướng tương lai sẽ là
20Gb/s sử dụng công nghệ truyền dẫn quang DWDM (ghép kênh
phân chia theo bước sóng chặt).

Hình 48: Sơ đồ triển khai NGN của VNPT (Phase 1)

×