Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Giáo trình CƠ SƠ VÀ PHƯƠNG PHÁP SINH HỌC PHÂN TỬ - Chương 8 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.52 KB, 17 trang )

Chương 8
TẾ BÀO CHỦ VÀ VECTOR

Tóm tắt: Trong chương này, chúng ta sẽ bàn đến khía cạnh sinh học của việc
tách dòng gene bao gồm việc sử dụng các phân tử vector và hệ thống sống thích
hợp, tức vật chủ mà ở đó vector có thể được nhân lên. Các loại tế bào chủ sẽ
được mô tả đầu tiên, tiếp theo lả các hệ thống vector và các phương pháp dùng
để đưa ADN vào các tế bào. Tế bào chủ và vector là hai đối tượng cực kì quan
trọng trong kĩ thuật tách dòng. Có hai loại tế bào chủ, đó là: Tế bào chủ nhân
sơ, Tế bào chủ nhân chuẩn và E. coli là vật chủ được sử dụng nhiều nhất trong
kĩ thuật tách dòng. Vector tách dòng được phân biệt với vector chuyển gene ở
một số đặc điểm cơ bản. Có nhiều loại vector được sử dụng trong kĩ thuật di
truyền, nhưng được sử dụng rộng rãi nhất là plasmid.
Nội dung của chương gồm 3 vấn đề chính là: (1) Tế bào chủ; (2). Vector, (3).
Phương pháp chuyển vector tái tổ hợp vào tế bảo chủ.


§1. TẾ BÀO CHỦ
Loại tế bào chủ sử dụng trong một ứng dụng cụ thể chủ yếu phụ thuộc vào
mục đích của thí nghiệm tách dòng. Nếu mục đích đó là tách ra một gene để
phân tích cấu trúc thì yêu cầu ở dây chỉ là một hệ thống đơn giản, dễ sử dụng.
Nếu mục đích là biểu hiện thông tin di truyền ở một sinh vật nhân chuẩn bậc
cao, chẳng hạn ở thực vật, thì đòi hỏi phải có một hệ thống đặc thù hơn. Thường
thì một vật chủ ban đầu đơn giản được sử dụng để tách một đoạn trình tự mà
đoạn này sau đó được đưa vào một hệ thống phức tạp hơn để biểu hiện. Các loại
tế bào chủ yếu được nêu trên bảng 8.1.
1.1. Các vật chủ nhân sơ
Một tế bào chủ lí tưởng là một tế bào dễ nuôi cấy và dễ nhân giống, dễ thu
nhận được nhiều loại vector. Vi khuẩn E. coli đáp ứng các yêu cầu này và được
sử dụng trong rất nhiều kĩ thuật tách dòng. E. coli được nghiên cứu rất tỉ mỉ, rất
nhiều loài khác nhau đã được các nhà di truyền học vi sinh vật phân lập khi


nghiên cứu các cơ chế di truyền của sinh vật nhân sơ này. Các nghiên cứu đó đã
cung cấp những thông tin khoa học giá trị làm cơ sở cho kĩ thuật di truyền.

109
Bảng 8.1. Các loại tế bào chủ dùng trong kĩ thuật di truyền
Vi khuẩn Nhân sơ Gram âm
Gram dương
Escherichia coli
Bacillus subtilis
Streptomyces spp.
Nấm Nhân chuẩn Vi sinh vật
Có khuẩn li
saccharomces cerevisiae
Aspergillus nidulans
Thực vật Nhân chuẩn Tế bào trần
Tế bào nguyên
Cả cơ thể
Các loại khác nhau
Các loại khác nhau
Các loại khác nhau
Động vật Nhân chuẩn Tế bào sâu bọ
Tế bào động vật
Tế bào trứng
Cả cơ thể
Drosophiia melanogaster
Các loại khác nhau
Các loại khác nhau
Các loại khác nhau
E. coli là vi khuẩn gram âm có một nhiễm sắc thể riêng lẻ nằm trong một
cấu trúc gọi là vùng nhân (nucleoit). Kích thước của hệ gene vào khoảng 4 x 10

6
bp. Các quá trình biểu hiện gene (phiên mã và dịch mã) đi đôi với nhau, sinh ra
sợi mARN được tổng hợp mới và được sử dụng ngay cho quá trình dịch mã. Vì
vậy, E. coli có thể được coi là một trong những tế bào vật chủ đơn giản nhất, cho
nên các thí nghiệm tách dòng gene đều sử dụng E. coli làm vật chủ với nhiều nòi
khác nhau về mặt di truyền và cho những ứng dụng đặc biệt.
Ngoài E. coli, các vi khuẩn khác cũng được dùng làm vật chủ cho các thí
nghiệm tách dòng gene, chẳng hạn: Bacillus, Pseudomonas và Streptomyces.
Các loại vi khuẩn này có những hạn chế nhất định đối với các vật chủ, đó là có
rất ít vector thích hợp để sử dụng trong các tế bào đó và đưa ADN tái tổ hợp vào
các tế bào đó có thể gặp khó khăn, đặc biệt khó khăn khi dối mặt với các thí
nghiệm tách dòng ban đầu.
1.2. Các vật chủ nhân chuẩn
Một trong những nhược điểm sử dụng E. coli làm vật chủ để tách dòng là
là sinh vật nhân sơ không có màng nhân như ở các tế bào nhân chuẩn. Các tế
bào nhân chuẩn có phổ tồn tại rất rộng từ các vi sinh vật như nấm men và tảo
cho đến các tế bào của các sinh vật đa bào phức tạp, như con người chẳng hạn.
Các tế bào vi sinh vật nhân chuẩn có nhiều đặc tính của vi khuẩn như dễ nhân
giống, dễ tạo ra các đột biến. Trong khi các sinh vật nhân chuẩn bậc cao gây ra
hàng loạt khó khăn đòi hỏi phải có những cách giải quyết đặc hiệu.

110
Nấm men Saccharomyces cerevisiae là một vi sinh vật nhân chuẩn được
ưa thích để nghiên cứu kĩ thuật di truyền. Nó đã được sử dụng nhiều thế kỉ trong
sản xuất bánh mì và bia, và được nghiên cứu rất tích cực. Sinh vật này có thể sử
dụng dễ dàng để phân tích di truyền học kinh điển, chúng có nhiều loại tế bào
đột biến. Hệ gene của S. cerevisaae có khoản 1,35 x 10
7
; bazơ nitơ, nhiều hơn
E.coli khoảng 3,5 lần. Các nấm khác cũng được dùng trong các thí nghiệm tách

dòng gene là Aspergillus nidulans và Neurospora crassa.
Các tế bào thực vật và động vật cũng có thể được sử dụng như các vật chủ
trong các thí nghiệm thao tác gene. Các tế bào thực vật và động vật khác thường
được nuôi cấy trong các môi trường thích hợp và ở điều kiện này, để sử dụng
trong các thí nghiệm thao tác gene so với các tế bào trong cơ thể.


§2. VECTOR
2.1. Khái niệm
Để thu nhận gene dưới dạng tinh sạch với hàm lượng lớn người ta phải
tách dòng (clone) gene đó. Việc tách dòng cơ bản là tiến hành gắn trình tự ADN
vào vector. Vector cũng là một ADN dạng vòng, có khả năng xâm nhập vào tế
bào vi khuẩn và mượn tế bào vi khuẩn để tạo ra những bản sao khác giống hệt
vector ban đầu.

Hình 8.1. Sơ đồ plasmid
Vector có các ứng dụng chủ yếu sau:
- Tạo dòng nhằm khuếch đại số lượng bản sao một trình tự ADN xác định.
- Tạo sinh vật chuyển gene (chuyển các gene vào tế bào hay cơ thể).
- Sản xuất ARN với số lượng lớn từ ADN được tạo dòng.
- Sản xuất protein với số lượng lớn từ ADN được tạo dòng.
Đặc tính cần có của một vector:

111
- Vector có khả năng tự sao chép tích cực trong tế bào vật chủ. Độc lập
với sự sao chép của bộ gene vật chủ.
- Vector có kích thước càng nhỏ càng tốt.
- Vector phải được phát hiện rõ ràng trong vật chủ.
- Phải tồn tại trong tế bào chủ qua nhiều thế hệ.
- Vector chỉ tồn tại một vị trí nhận biết cho mỗi enzyme.

Vector được sử dụng trong kĩ thuật tách dòng phân tử ADN đối với tế bào
E. coli: (1) Plasmids; (2) Bacteriophage l, (3) Cosmids; (4) Bactenophage M13;
(5) Phagemids và một số loại vector đặc biệt khác như: (i) Ti plasmid; (ii)
YACS; (iii) BACS; (iv) Retrovirus; (iiv) Baculovirus. (iiiv) Yeast 2 micron
plasmid.
Việc lựa chọn sử dụng một loại vector dựa vào kích thước của đoạn ADN
cần tạo dòng và mục đích tạo dòng.
Vector được sử dụng với mục đích tách dòng gene (vector tách dòng) và
chuyển gene (vector chuyển gene).

Hình 8.2. Plasmid pBR322 (a) và plasmid pUC18 (b)
(theo Nông Văn Hảí, 2002)
2.2. Các vector plasmid dùng cho E. coli
Có một số đặc điểm quan trọng mà các vectơ cần phải có, chúng phải
những phân tử ADN nhỏ giúp cho việc phân tách và bảo quản chúng dễ dàng.
Phải có điểm khởi đầu sao chép (origin of replication), để cho ADN nó được
nhân lên và do vậy được duy trì trong quần thể tế bào khi sinh vật chủ sinh
trưởng và phân chia. Cần có một loại dấu chuẩn, chọn lọc (selectable marker)
tạo điều kiện cho vector được dễ dàng phát hiện và cũng cần phải có ít nhất một
điểm cắt bởi enzyme giới hạn để tạo điều kiện cho ADN xen vào trong quá trình
tạo ra các thể tái tổ hợp. Các plamid có các đặc điểm phù hợp với yêu cầu trên
và chúng được sử dụng thường xuyên như các vector trong các thí nghiệm tách
dòng.
2.2.1. Plasmid

112
Nhiều loại plasmid được tìm thấy trong tự nhiên ở các vi khuẩn và trong
một số nấm men. Chúng là những phân tử AND mạch vòng tương đối nhỏ so
với nhiễm sắc thể của tế bào vật chủ. Các plasmid tồn tại chủ yếu ở trạng thái
ngoài nhiễm sắc thể. Plasmid cos khả năng truyền các tính trạng cho vật chủ

(chẳng hạn: tính bền vững với kháng sinh), do vậy giúp cho việc lựa chọn dễ
dàng trong những điều kiện xác định. Các gene bền vững với kháng sinh do
AND plasmid mã hóa thường được sử dụng trong việc thiết kế các vector dùng
cho kĩ thuật di truyền vì chúng cung cấp một phương tiện thuận lợi để lựa chọn
các tế bào có mang plasmid.
Các plasmid có thể phân chia thành 2 nhóm: tiếp hợp và không tiếp hợp.
Các plasmid tiếp hợp có thể tự truyền từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác thông
qua quá trình tiếp hợp. Quá trình này đòi hỏi các chức năng của các đoạn đặc thù
tra (transfer) và mob (mobilising) nằm trên plasmid. Các plasmid không tiếp hợp
thì không tự truyền đi được. Một cách phân loại khác dựa trên số lượng các bản
sao của plasmid có trong tế bào chủ. Các plasmid có số bản sao thấp có khuynh
hướng kiểm soát chặt chẽ việc sao chép ADN, thường ADN plasmid loại này
phải sao chép bắt buộc cùng với sự sao chép ADN nhiễm sắc thể của vật chủ.
Các plasmid có số bản sao cao gọi lào các plasmid thoải mái, việc sao chép
ADN của chúng không phụ thuộc vào sự sao chép ADN nhiễm sắc thể của tế
bào chủ. Nói chung, các plasmid tiếp hợp thường lớn, có cơ chế kiểm soát chặt
chẽ việc sao chép ADN và tồn tại trong tế bào với số lượng bản sao thấp. Trong
khi đó, các plasmid không tiếp hợp thường nhỏ, sao chép ADN một cách thoải
mái và tồn tại trong tế bào với số bản sao cao.
2.2.2. Các plasmid cơ bản dùng để tách dòng
Trong kĩ thuật di truyền, các plasmid gặp trong tự nhiên thường được sửa
đổi nhiều để tạo ra các vector có đặc điểm mong muốn. Để đặt tên plasmid, chữ
p được dùng để chỉ plasmid và tiếp theo đó thường là tên của những người đã
phân lập hoặc thiết kế plasmid. Các con số cũng có thể được sử dụng để phân
loại các chủng cụ thể. Một trong những plasmid được sử dụng rộng rãi là
pBR322, nó được hoàn thiện bởi Francisco Bolivar và đồng nghiệp. Việc thiết
kế pBR322 bao gồm một loạt những thao tác để có được những đoạn ADN cần
thiết cùng nối với nhau với kết quả cuối cùng là một ADN có 3 nguồn gốc.
Plasmid này có tất cả các đặc tính của một vector tốt, chẳng hạn như: trọng
lượng phân tử thấp, có các gene kháng kháng sinh, có điểm khởi đầu sao chép,

và có một số điểm cắt riêng biệt bởi các enzyme giới hạn.
Có một số plasmid trong nhóm pBR mang các đặc điểm khác nhau chút ít.
Tuy nhiên, plasmid bắt nguồn từ pBR322 được sử dụng rộng rãi, vì chúng có

113
một số đặc điểm ưu việt so với plasmid ban đầu. Ví dụ: plasmid pAT153, là một
dẫn xuất mất đoạn của pBR322. Plasmid này được tạo ra bằng các loại bỏ 2
đoạn ADN từ pBR322 sau khi dùng enzym giới hạn Hael. Lượng ADN bị loại
bỏ rất nhỏ (705 cặp bazơ), nhưng hiệu quả đã làm tăng số bản sao lên 3 lần và
đã loại bỏ các đoạn trình tự cần thiết cho quá trình huy động (mobilisation). Như
vậy, pAT153 về một số phương diện là vector "tốt hơn" pBR322, vì nó có nhiều
bản sao hơn trong tế bào và nó có mức độ bền vững sinh học cao hơn do mất
khả năng huy động.

Hình 8.3. Vector pBluescript (theo Nông Văn Hải, 2002)
Sự có mặt của 2 gene kháng kháng sinh (Ap
r
và Tc
r
) cho phép lựa chọn
các tế bào có mang plasmid, vì các tế bào đó sẽ kháng với cả ampicilin và
tetracylin. Một ưu việt nữa là các điểm cắt giới hạn duy nhất nằm trong các gene
kháng sinh cho phép lựa chọn được các ADN tách dòng, và do vậy được gọi là
bất hoạt do xen đoạn (insertional inactivation), khi mà đoạn ADN xen vào làm
gián đoạn đoạn mã hoá của gene kháng và vì vậy làm thay đổi kiểu hình của tế
bào mang ADN tái tổ hợp.
2.2.3. Các vectorplasmid khác
Mặc dù các plasmid pBR322 và pAT153 được sử dụng rộng rãi trong
nhiều ứng dụng của tách dòng gene, còn có các vector plasmid khác cũng được
sử dụng. Nói chung, chúng dược thiết kế sao cho có được những đặc tính cụ thể,

không thấy có trong các vector đơn giản. Chúng có thể mang những khởi điểm
đặc hiệu để biểu hiện các gene xen vào hoặc chúng có thể có những ưu việt khác
như tạo ra khả năng chọn lọc trực tiếp các thể tái tổ hợp. Một nhóm các vector
plasmid cũng rất phổ biến là các plasmid thuộc họ PUC. Các plasmid này có

114
một đoạn ngắn chứa một số các điểm riêng lẻ bị cắt bởi enzyme giới hạn. Đoạn
này gọi là đoạn đa liên kết (polilinker) hoặc điểm đa tách dòng (multiple cloning
site), chúng rất hữu hiệu bởi vì có thể lựa chọn điểm cắt mong muốn để xen
đoạn ADN trong quá trình tạo ra ADN tái tổ hợp. Bản đồ của một trong các
vector pUC có các điểm cắt giới hạn nằm trong vùng polilinker, các plasmid
pUC còn có vùng mang gene - blaceosidaza, gene này mã hoá
β
α
- peptit. Đoạn
trình tự này có chứa vùng polilinker, và việc một đoạn ADN vào một trong
những điểm tách dòng sẽ dẫn đến một
α
- peptit không hoạt động chức năng.
Việc đó đặt cơ sở cho một phương pháp sàng lọc trực tiếp các thể tái tổ hợp rất
hữu hiệu sử dụng cơ chất tạo màu X-gal. Mặc dù các vector plasmid có nhiều
tính chất hữu hiệu và chúng rất quan trọng cho việc thao tác gene, nhưng chúng
vẫn mang hàng loạt nhược điểm.

Hình 8.4. Tạo vector tái tổ hợp (theo Nông Văn Hải, 2002)
2.3. Các vector phage dùng cho E. coli
Mặc dù các vector dựa trên cơ sở phage về nhiều phương diện đặc hiệu
hơn các vector plasmid, nhưng về thực chất chúng thực hiện cùng một chức
năng, có nghĩa là chúng hoạt động như các phân tử mang các đoạn ADN. Có 2
loại phage(

λ
và M13) được hoàn thiện tích cực cho các mục đích tách dòng.
2.3.1. Phage
Trong những năm 40, Max Delbruck và "nhóm phage" do ông thành lập

115
đã đặt nền móng cho sinh học phân tử hiện đại bằng cách nghiên cứu các phage
Đó là những "thể ăn khuẩn", và là các virut chỉ nhân lên được bên trong vi
khuẩn. Vì chúng có kích thước rất nhỏ nên người ta còn gọi chúng là hạt
(particle).
Về mặt cấu trúc, các phage chia thành 3 nhóm chính: (1) không đuôi;(2)
có đầu và đuôi, và (3) có lông. Vật chất di truyền có thể là ADN mạch đơn,
mạch kép, hoặc ARN. Thường thấy là các ADN mạch kép (DdsDN) (double-
stranded ADN). Ở các phage không đuôi và có đuôi, hệ gene được bao bọc trong
vỏ protein gọi là capsid (đôi khi được biết đến như vỏ hoặc đầu của phage.
Trong các phage, dsADN điển hình hệ gene là những hệ gene bao gồm khoảng
50% toàn bộ khối lượng của hạt phage. Như vậy, phage là những hệ thống tương
đối đơn giản nếu so sánh với vi khuẩn, vì nguyên nhân này chúng được sử dụng
rất rộng rãi như các mô hình để nghiên cứu sự biểu hiện của gene.

Hình 8.5. Hình ảnh phage
λ

Các phage có thể phân thành phage độc (virulent) và phage ôn hoà
(temperate), tuỳ thuộc vào chu trình sống của chúng. Khi một phage chui vào
trong một tế bào vi khuẩn, nó có thể sinh ra nhiều phage và giết chết tế bào đó,
đó là chu trình sinh tan (litic) hoặc nó có thể nhập vào nhiễm sắc thể và ở lại đó
mà không giết chết tế bào, đó là chu trình tiềm tan (lisogeneic). Phage độc là
phage chỉ có chu trình sinh tan. Phage ôn hoà là phage có chu trình tiềm tan,
nhưng cũng có thể có phản ứng sinh tan trong những điều kiện thích hợp.

Hệ gene của phage
λ
có chiều dài 48,5kb, mã hoá cho 46 gene. Toàn bộ
hệ gene đã được giải trình tự, và tất cả các điểm điều hoà đều đã được biết. Ở
hai đầu của hệ gene mạch dài có các đoạn ngắn (12bp) sợi đơn, chúng bổ trợ cho
nhau. Các đoạn này là những "đầu dính", chúng tạo điều kiện cho hệ gene trở
thành mạch vòng sau khi nhiễm vào vi khuẩn. Đoạn của hệ gene được sinh ra
bằng cách gắn các đầu dính gọi là điểm cos (cos site).

116

Hình 8.6. Hệ gene của Phage
λ

Quá trình xâm nhiễm của phage vào vi khuẩn bắt đầu bằng việc phage
bám vào dinh dưỡng điểm nhận trên bề mặt vi khuẩn. Khi phage bị hấp thụ thì
ADN được tiêm vào bên trong tế bào và chu trình sống có thể bắt đầu. Hệ gene
trở thành mạch vòng và phage bắt đầu chu trình sinh tan hoặc tiềm tan tuỳ thuộc
vào một loại yếu tố như dinh dưỡng và trạng thái trao đổi chất của tế bào chủ và
phụ thuộc vào tính đa nhiễm (số lượng phage xâm nhập vi khuẩn trong quá trình
hấp thụ). Nếu chu trình tiềm tan bắt đầu thì hệ gene của phagenhập vào nhiễm
sắc thể vật chủ và chúng được duy trì ở dạng prophage. Sau đó, nó sao chép
cùng với ADN nhiễm sắc thể và được chuyển tới các tế bào thế hệ con trong một
dạng ổn định. Nếu chu trình sinh tan bắt đầu thì một loạt các sự kiện phiên mã
sẽ diễn ra, phage hoàn toàn làm chủ tế bào vật chủ và sinh ra nhiều bản sao của
hệ gene phage cũng như các protein cấu trúc. Sau đó các thành phần này được
lắp ráp lại hay còn gọi là bọc gói để tạo thành các phage trưởng thành, sau đó
chúng thoát ra khỏi tế bào chủ khi tế bào này bị tan.
Để xác định số lượng các phage có trong dịch tan, người ta pha loãng
nhiều lần dịch phage và trộn lẫn với một số lượng dư thừa vi khuẩn chỉ thị rồi

cấy lên mặt thạch. Sau khi ủ, vi khuẩn sẽ mọc và tạo thành cái gọi là thảm vi
khuẩn. Phage mọc trên thảm này sẽ làm cho các tế bào bị phage xâm nhiễm tiêu
tan, tạo nên các vết tan (plaque) trên thảm. Sau đó, người ta đếm số lượng các
vết tan và xác định được số lượng phage trong dịch huyền phù ban đầu. Vết tan
có thể được lấy ra cho mọc và phân tích tiếp. Phage có thể nhân lên trong dịch
lỏng bằng cách cho nhiễm giống đang mọc của tế bào chủ và ủ cho đến khi các
tế bào bị tan hoàn toàn, số lượng các hạt phage sinh ra phụ thuộc vào độ đa
nhiễm và vào trạng thái của chu trình sinh sản vi khuẩn mà chúng nhiễm vào.
Khi ADN chui vào tế bào thì nó chuyển sang phân tử mạch đôi gọi là
dạng sao chép (RF) (replicative from), nó sao chép cho đến khi có khoảng 1000
bản sao trong tế bào. Tại thời điểm này, việc sao chép ADN trở nên bất đối xứng
(asymmetric) và các bản sao mạch đơn của hệ gene được sinh ra và thoát khỏi tế
bào như các hạt M13. Vi khuẩn không bị tan và vẫn còn sống trong suốt quá
trình này, mặc dù quá trình sinh sản và phân chia có chậm hơn so với các tế bào
không bị xâm nhiễm.

117
2.3.2. Các vector dựa trên cơs ở phage
λ

Việc sử dụng phage
λ
làm vector tách dòng phụ thuộc vào một thực tế là
không phải tất cả hệ gene của
λ
đều cần thiết cho phage hoạt động chức năng.
Do vậy, có một phạm vi để đưa ADN ngoại lai vào, mặc dù một số đòi hỏi nhất
định cần phải có trong quá trình hoàn thiện các vector tách dòng dựa trên cơ sở
phage
λ

. Một là sự sắp xếp các gene trên hệ gene
λ
sẽ quyết định phần nào cần
phải loại bỏ đi hoặc cần phải được thay thế để đưa ADN ngoại lai vào. Vùng
trung tâm của hệ gene
λ
nằm giữa các vị trí 20 và 35 trên bản đồ, là một đoạn
lớn có thể bỏ qua mà không cần có sự sắp xếp lại invitro một cách phức tạp đối
với hệ gene. Vùng trung tâm này chủ yếu kiểm soát các tính chất tiềm tan của
phage, và phần lớn vùng đó có thể cắt bỏ mà không làm suy yếu các chức năng
cần thiết cho chu trình sinh tan. Hai là, phage
λ
kiểu dại nói chung có nhiều
điểm nhận biết của các enzyme giới hạn thường được sử dụng trong kĩ thuật
tách dòng. Điều đó có thể là một khó khăn lớn, vì nó giới hạn sự lựa chọn các
điểm để xen ADN vào. Trong thực tế sẽ tương đối dễ dàng lựa chọn đối với
phage có số lượng giới hạn các điểm bị cắt bởi các enzyme giới hạn cụ thể, và kĩ
thuật gây đột biến in vitro có thể được sử dụng để sửa đổi các điểm còn lại - tức
các điểm không cần thiết. Như vậy, có thể nhận được phage mang tổ hợp mong
muốn các điểm nhận biết bởi enzyme giới hạn.


Hình 8.7. Vector Phage
λ


118
Một trong các nhược điểm lớn của các vector
λ
là capsid chỉ có thể bọc

gói một số lượng ADN nhất định trong quá trình lắp ráp phage, do vậy, nó giới
hạn kích thước của các đoạn ADN ngoại lai cần tách dòng. Trong quá trình bọc
gói, các hạt phage có khả năng sống có thể sinh ra với chiều dài ADN nằm trong
khoảng 38kb đến 52kb.
2.3.3. Các vector dựa trên cơ sở phage M13
Có hai điểm trong việc gây nhiễm M13 có giá trị đối với kĩ thuật di
truyền. Một là, dạng sao chép RF rất giống với plasmid, vì vậy có thể tách chiết
và thao tác bằng cùng những kĩ thuật như nhau. Ưu điểm thứ hai là ADN sợi
đơn sinh ra trong quá trình nhiễm rất hữu ích trong các thí nghiệm như xác định
trình tự theo phương pháp dùng dideoxynucleotit. Chỉ riêng về mặt này đã khiến
cho M13 trở thành một vector có tiềm năng hết sức hấp dẫn. Khác với phage
λ

M13 không mang các gene không quan trọng. Hệ gene 6407 cặp bazơ nằm ở
vùng giữa các gene. Vùng này đã được dùng để thiết kế một loạt các vector
M13mp bằng cách xen một đoạn polinker/lac Z
α
- peptit vào đó. Việc này đã
tạo điều kiện cho việc sử dụng hệ thống sàng lọc X-gal để phát hiện các thể tái
tổ hợp, chẳng hạn như trường hợp với các plasmid pUC. Khi M13 mọc trên
thảm vi khuẩn thì các vết tan xuất hiện do làm giảm sự sinh trưởng của các tế
bào (chúng không bị tan), và có thể lấy ra phân tích tiếp.

Hình 8.8. Tách dòng gene bởi vector Phage hai sợi M13
(1). AND của Vector M13RF bị cắt bởi HindIII
(2). Đoạn AND được cắt bởi Hind III
(3). Ligase

119
(4). Biến nạp

(5). AND Tái bản
Ưu việt thứ hai của các vector M13 là chúng không hoạt động chức năng
một cách đầy đủ khi các đoạn ADN dài được xen vào vector. Mặc dù về mặt lí
thuyết không có một giới hạn nào đối với kích thước của các đoạn có thể tách
dòng, vì cấu trúc capsid được xác định bởi kích thước hiệu quả tách dòng đối
với các đoạn lớn hơn 1,5kb. Trên thực tế, đó không phải là vấn đề chính vì các
vector M13 được sử dụng chủ yếu khi tách dòng các đoạn ADN nhỏ để xác định
trình tự. Trong ứng dụng này, việc sản sinh ra ADN sợi đơn cùng với sự dễ dàng
trong việc tinh sạch ADN từ mô tế bào đã làm lu mờ những hạn chế về kích
thước.
2.4. Các vector khác
Cho đến nay, chúng ta mới tập trung vào các plasmid và phage để dùng
trong các vật chủ E. coli, vi khuẩn này cho đến nay vẫn là đại diện chủ yếu được
sử dụng trong phần lớn các công nghệ thao tác gene. Tuy nhiên, còn tồn tại các
hệ thống vật chủ / vector khác cũng rất quan trọng, mặc dù chúng chuyên dụng
hơn. Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu những đặc điểm của các vector vi
khuẩn bổ sung và một số vector được sử dụng trong các sinh vật khác.
2.4 1. Các vector plasmid / phage
Một đặc tính của các vector phagelà ở chỗ kĩ thuật bọc gói invitro độc lập
về mặt trình tự, không đòi hỏi phải có các điểm cos nằm tách biệt bởi ADN với
kích thước có thể bọc gói được (38-51kb). Điều đó đã được sử dụng để thiết kế
các vector hình thành từ các đoạn trình tự plasmid kết nối với các điểm cos của
phage
λ
. Các vector như thế gọi là các cosmid. Chúng có kích thước nhỏ (4-
6kb) và vì vậy, có thể chứa các đoạn ADN tách đòng dài tới 47kb. Vì chúng
không có các gene của phage nên chúng hoạt động như các plasmid khi đưa vào
E. coli bằng cơ chế bọc gói/ nhiễm của
λ
. Bởi vậy, các vector cosmid cung cấp

một hệ thống hết sức lí tưởng - một phương pháp đặc biệt và có hiệu quả cao để
đưa ADN tái tổ hợp vào trong tế bào chủ, và khả năng tách dòng này lớn hơn
khoảng 2 lần so với các vector
λ
tốt nhất. Tuy nhiên, chúng cũng có những
nhược điểm và thường thì việc sử dụng cosmid thay cho các vector phage làm
mất đi sự dễ dàng trong sử dụng và xử lí các trình tự tách dòng này.

120

Hình 8.9. Vector Cosmid
Các vector lai plasmid/ phage được hoàn thiện để khắc phục những hạn
chế về kích thước của hệ thống tách dòng M13, và đến nay chúng được sử dụng
rộng rãi cho các ứng dụng như giải trình tự ADN và sản xuất các mẫu dò để sử
dụng trong các nghiên cứu về lai axit nucleic. Các vector này là những plasmid
quan trọng, chúng chứa điểm khởi đầu sao chép fl của phage M13. Khi các tế
bào có chứa plasmid này bị siêu nhiễm bởi phagethì chúng sản sinh ra các bản
sao sợi đơn của ADN plasmid và tiết chúng ra môi trường ở dạng các hạt giống
M13. Các vector, chẳng hạn như pEMBL9 hoặc pBluescript có thể tiếp nhận các
đoạn ADN dài tới 10kb.
2.4.2. Các vector dùng trong các tế bào nhân chuẩn
Khi xem xét các tế bào chủ nhân chuẩn thì các yêu cầu về vector trở nên
rất phức tạp. Trong khi các vi khuẩn tương đối đơn giản về mặt di truyền thì các
tế bào nhân chuẩn lại có nhiều nhiễm sắc thể nằm trong nhân có vỏ bao bọc. Vì
các sinh vật nhân chuẩn hết sức đa dạng, nên lẽ tự nhiên là các vector có xu
hướng đặc hiệu cao và cần thiết kế riêng biệt cho các mục đích cụ thể.
Nhiều vector đã được hoàn thiện để sử dụng trong các tế bào nấm men và
tuỳ thuộc vào từng ứng dụng cụ thể mà lựa chọn vector. Các plasmid episom
của nấm men (Yeps) được hoàn thiện trên cơ sở plasmid nấm men thường gặp
trong tự nhiên, chúng có thể tự sao chép hoặc hoà nhập vào nhiễm sắc thể. Các

plasmid hoà nhập của nấm men (Yips) được thiết kế để gắn vào nhiễm sắc thể
bằng cách tương tự như các plasmid YEp, còn các plasmid tự sao chép của nấm
men (Yrps) vẫn ở trạng thái độc lập, không hoà nhập vào nhiễm sắc thể. Các
plasmid có chứa các đoạn trình tự trong vùng tâm động đúng như các nhiễm sắc
thể mini. Cuối cùng, các nhiễm sắc thể nhân tạo của nấm men (YACs) là các
vector nấm men phức tạp nhất.
Chúng có những vùng của tâm động và điểm mút, và có thể được sử dụng
để tách dòng các đoạn ADN có kích thước rất lớn, bởi vì thế tái tổ hợp được duy
trì chủ yếu như một nhiễm sắc thể nấm men. Trên thực tế, độ bền vững của các

121
YAC dường như tăng lên khi kích thước của đoạn tách dòng tăng lên, điều này
không giống với nhiều hệ thống vector khác.
Bảng 8.2. Một số vector có thể dùng cho các tế bào động vật và thực vật
Loại tế
bào
Loại
vector
Loại hệ
gene
Thí dụ
Plasmid ADN Plasmid Ti của Agrobacterium tumefaciens
Thực vật
Virut ADN
ARN
Virut khảm cải hoa, Geminivirut
Virut khảm thuốc lá
Plasmid ADN Các loại vector plasmid khác nhau. Nhiều loại
là vector lại có chứa một phần hệ gene của
SV40

Virut ADN Baculovirut
Virut Papilloma
Virut Simian 40 (SV40)
Virut ARN Retrovirut



Động vật



Gene nhảy ADN Các phần từ P trong Drosophilla melanogaster
Khi làm thí nghiệm với các sinh vật nhân chuẩn bậc cao đa bào, như thực
vật và động vật, các vấn đề đưa ADN tái tổ hợp vào trong cơ thể có khác biệt
chút ít so với trường hợp các sinh vật nhân chuẩn đơn bào như nấm men. Mục
tiêu của kĩ thuật di truyền ở các sinh vật nhân chuẩn bậc cao bao gồm:
(1) Đưa ADN tái tổ hợp vào các tế bào động vật và thực vật trong mô
nuôi cấy nhằm nghiên cứu cơ bản về sự biểu hiện của gene hoặc nhằm sản xuất
các protein hữu ích.
(2). Biến đổi cấu trúc di truyền của sinh vật và tạo ra một vận chuyển
gene.
Các vector dùng cho các tế bào thực vật và động vật có thể được đưa vào
các tế bào trực tiếp bằng các kĩ thuật hoặc chúng có thể có cơ chế xâm nhập sinh
học nếu dựa trên các virut hoặc các tác nhân xâm nhiễm khác như Agrobacteria.

§3. PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN VECTOR TÁI TỔ HỢP VÀO TẾ BÀO
CHỦ
Việc thao tác vector và xen ADN để tạo ra các vector tái tổ hợp được thực

122

hiện trong ống nghiệm, và sau đó là đưa ADN tái tổ hợp vào tế bào chủ để nhân
lên. Hiệu quả của bước này thường là yếu tố quyết định sự thành công của kĩ
thuật tách dòng. Các phương pháp hiện có phụ thuộc vào kiểu loại của hệ thống
vật chủ/ vector và bao gồm các kĩ thuật đơn giản đến những kĩ thuật rất phức tạp
và đặc thù.
3.1. Biến nạp và lây nhiễm
Các kĩ thuật biến nạp và lây nhiễm là những phương pháp đơn giản nhất
để đưa ADN tái tổ hợp vào tế bào chủ. Trong trường hợp các tế bào E. coli thì
biến nạp có nghĩa là đưa ADN plasmid vào trong tế bào, còn lây nhiễm là đưa
ADN phage vào trong các tế bào. Biến nạp còn được sử dụng với nghĩa rộng
hơn, cụ thể là: đưa bất kì ADN nào vào bất kì tế bào nào.
Để cho biến nạp ở E. coli có hiệu quả các tế bào cần trở nên khả biến
(competent). Để đạt được điều này, người ta ngâm các tế bào trong dung dịch
calcium chlorid lạnh đóng đá, khi đó, các tế bào trở nên khả biến theo một cách
mà cho đến nay chưa biết rõ nguyên nhân. Việc biến nạp các tế bào khả biến
được thực hiện bằng cách trộn ADN plasmid với các tế bào, rồi ủ trong đá 20
đến 30 phút, sau đó tạo một sốc nhiệt ngắn (2 phút ở 42
0
C), làm như vậy ADN
sẽ chui vào tế bào. Các tế bào biến nạp thường được ủ trong nước thịt dinh
dưỡng ở 37
0
C trong vòng 60 đến 90 phút để làm cho các plasmid ổn định và
biểu hiện các tính trạng của chúng ra kiểu hình. Sau đó, các tế bào được đưa lên
môi trường chọn lọc để nhân lên các tế bào có plasmid.
Trong quá trình biến nạp, chỉ có một phần rất nhỏ tế bào khả biến được
biến nạp. Mặc dù có nhược điểm rất lớn, biến nạp vẫn là một kĩ thuật quan
trọng, nó có thể tạo ra tới 10
9
các tế bào biến nạp (tức các thể biến nạp) khi đưa

1gr ADN vào thí nghiệm. Thường trên thực tế với 1
μ
g ADN người ta tạo ra
được 10
6
đến 10
7
tế bào biến nạp.
Lây nhiễm là một quá trình tương tự với biến nạp, chỉ khác ở chỗ ADN
plasmid được thay thế bằng ADN phage. Quá trình này cũng không diễn ra với
100% các tế bào, và vì vậy chúng thường được thay thể bằng các bọc gói invitro
trong các thí nghiệm đòi hỏi phải đưa ADN của phage vào bên trong các tế bào
E. coli.
3.2. Bọc gói ADN của phage invitro
Trong quá trình sinh tan của phage
λ
, ADN của phage được sao chép để
tạo thành cái gọi là chuỗi khảm (concatemere). Đó là một phân tử ADN rất dài
bao gồm nhiều bản sao của hệ gene
λ
được nối liền với nhau. Khi các hạt phage
được lắp ráp thì ADN được bọc gói thành các capsid, quá trình này bao gồm
việc cắt ADN tại các điểm cos bằng enzyme endonucleaza do phage mã hoá.

123
Các hạt phage trưởng thành sau đó dược sinh ra, và thoát ra ngoài khi các tế bào
tan, sau đó chúng lại có khả năng nhiễm vào các tế bào khác. Quá trình này
thường diễn ra invitro dưới sự điều khiển của các gene phage. Tuy nhiên, cũng
có thể thực hiện trong ống nghiệm.
Để bọc gói invitro thì các thành phần của capsid

λ
, và endonucleaza phải
có trong ống nghiệm. Trên thực tế, hai nòi vi khuẩn được sử dụng để tạo ra dịch
tan gọi là dịch chiết bọc gói (packaging extract). Mỗi nòi mang đột biến về một
chức năng trong quá trình phát sinh hình thái của phage). Như vậy, các dịch
chiết bọc gói sẽ không hoạt động riêng rẻ. Khi trộn hai cái với nhau với ADN tái
tổ hợp không hoạt động khảm (concatemer) trong những điều kiện thích hợp và
với đầy đủ các thành phần thì các hạt phage sẽ được sinh ra. Các hạt này sau đó
có thể dược sử dụng để gây nhiễm các tế bào E. coli và tạo ra các vết tan.
3.3. Các phương pháp truyền ADN khác
Các phương pháp dùng để đưa ADN vào các tế bào vi khuẩn không dễ áp
dụng cho các loại tế bào khác. Hệ thống bọc gói đặc thù cho phage không dùng
được cho các hệ thống khác, và việc hiến nạp bằng các phương pháp thông
thường có thể không thực hiện được hoặc hiệu quả rất thấp. Tuy nhiên, có
những phương pháp khác dùng để đưa AND vào các tế bào. Thông thường, các
phương pháp này có những đòi hỏi về kĩ thuật và kém hiệu quả so với các
phương pháp dùng cho vi khuẩn. Tuy nhiên, người ta đã đạt được kết quả trong
một số trường hợp.
Vấn đề khó khăn nhất trong việc đưa ADN vào các tế bào không phải là
vi khuẩn thường xảy ra với các tế bào thực vật. Các tế bào động vật lại được
biến nạp tương đối dễ dàng. Còn việc biến nạp các tế bào thực vật gặp khó khăn
vì vỏ tế bào của chúng rất cứng, ngăn chặn không cho ADN chui vào. Có thể
khắc phục việc này bằng cách tạo ra các tế bào trần (protoplasts) là những tế bào
mà thành của chúng đã được loại bỏ bằng enzym. Sau đó, các tế bào trần có thể
được biến nạp bằng các kĩ thuật như mở lỗ bằng điện, khi một cung được sử
dụng để tạo ra các lỗ trên màng tế bào mà qua đó ADN có thể xâm nhập. Sau đó
các tế bào trần có thể được tái sinh (tạo vỏ mới). Ngoài ứng dụng này, các tế bào
trần còn có vai trò quan trọng trong việc tạo ra các tế bào lai thực vật khi dung
hợp với nhau. Mọi loại phương pháp biến nạp khác có thể đưa ADN vào bên
trong tế bào là các phương pháp vật lí. Một cách để làm việc đó là sử dụng một

cái kim rất mảnh để tiêm ADN trực tiếp vào trong nhân. Kĩ thuật này gọi là vi
tiêm và đã được sử dụng thành công cả đối với các tế bào động vật và thực vật.
Tế bào được giữ trên đầu một ống thuỷ tinh đầu tầy, còn chiếc kim nhọn được
dùng để đâm xuyên qua màng tế bào. Kĩ thuật này đòi hỏi phải có một máy vi

124
thao tác cơ học, một kính hiển vi và đặc biệt phải có kĩ năng thực hành tinh vi.
Gần đây người ta đã hoàn thiện một phương pháp tỏ ra rất hữu hiệu để
biến nạp tế bào thực vật, gọi là kĩ thuật bắn ADN vào tế bào. ADN được dùng
để bao bọc các hạt vonfram cực nhỏ gọi là vi đạn. Khi bắn, chúng được tăng tốc
trên viên đạn lớn là bộ phận được bắn đi do ngòi thuốc nổ cháy. Tại một đầu của
"súng" có một lỗ nhỏ chặn viên đạn lớn lại nhưng vẫn cho vi đạn chui qua. Khi
nhằm bắn vào tế bào, các vi đạn sẽ đưa ADN vào trong tế bào và trong một số
trường hợp biến nạp sẽ thực hiện thành công.

THẢO LUẬN
1. Nêu các loại tế bào chủ và ưu, nhược điểm trong kĩ thuật tách dòng gene.
2. Plasmid là gì? các loại plasmid. Trình bày về các vector plasmid dùng cho
E. coli.
3. Trình bày về vector phage.
4. Các vector dùng trong các tế bào nhân chuẩn.
5. Trình bày đặc điểm cơ bản của một số phương pháp chuyển vector tái tổ
hợp vào tế bào chủ.
6. E. coli và sử dụng E. coli trong kĩ thuật di truyền.
7. Vector tách dòng và vector biểu hiện gene.
8. Vấn đề tách dòng gene.
9. Vấn đề chuyển gene và sinh vật chuyển gene.

125

×