Luận văn: Nghiên cứu các loại hình bảo hiểm mới phát
sinh trong giai đoạn kinh tế hội nhập và đa dạng hóa
loại hình lao động
Lời nói đầu
Bảo hiểm xã hội(BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến
nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình bảo hiểm
khác, chức năng và tính chất của BHXH có những điểm khác biệt do bản chất của nó
chi phối.
ở nước ta, BHXH là một chính sách lớn trong hệ thống an sinh xã hội. BHXH vừa
mang tính kinh tế nhưng cũng mang tính nhân đạo của Nhà nước ta nhằm đảm bảo
cuộc sống cho người lao động trước những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập. Mục
tiêu của Nhà nước là mở rộng đối tượng tham gia BHXH cho mọi người dân nhưng
hiện nay mục tiêu đó chưa được thực hiện vì nhiều nguyên nhân. Trong công tác
BHXH nói riêng còn có nhiều tồn tại cần được giải quyết.
BHXH cấp huyện là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý BHXH Việt Nam,
là cơ sở đầu tiên để thực hiện công tác BHXH. Thực hiện tốt hoạt động ở BHXH cấp
huyện thì mới đảm bảo cho việc thực hiện của cả hệ thống. BHXH thành phố Vinh lă
cơ quan BHXH cấp huyện trực thuộc sự quản lý dọc của BHXH tỉnh Nghệ An. Trong
thời gian 4 tháng thực tập tại BHXH thành phố Vinh, em đã thu nhận được được một
số kiến thức thực tế về công tác BHXH và em đã tiến hành thực hiện chuyên đề thực
tập về đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động của
BHXH thành phố Vinh” nhằm xem xét và nghiên cứu thực trạng hoạt động của BHXH
TP Vinh trong giai đoạn (1995-2002) để đóng góp một số giải pháp cho BHXH TP
Vinh.
Bài viết được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về BHXH
- Chương 2: Thực trạng thực hiện BHXH trên địa bàn thành phố Vinh
- Chương 3: Phương hướng hoạt động và những biện pháp chủ yếu nhằm
thực hiện tốt hoạt động của BHXH TP Vinh.
Trong quá trình thực tập, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hướng dẫn của các
cán bộ công tác tại cơ quan thực tập, các giáo viên trong bộ môn và đặc biệt là sự
hướng dẫn của thầy giáo Mạc Văn tiến trong việc chọn đề tài và hoàn thành bài viết.
Nhưng do trình độ nhận thức và thời gian có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo trong
bộ môn giúp bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I: Lý luận chung về BHXH
I. bhxh và sự cần thiết khách quan của bhxh
1. Sự cần thiết
Con người muốn tồn tại và phát triển được trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại v v Để
thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản
phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng
đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những
nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động
của họ. Nhưng trong thực tế, con người không chỉ lúc nào cũng gặp thuận lợi, có đầy
đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp
khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu
nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hoặc bị tai nạn
trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động hay khả năng tự phục
vụ bị suy giảm v v Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong
cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện
thêm một số nhu cầu mới mhư: cần được khám và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương
tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng v v Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn
định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều
cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong một nội bộ cộng đồng;
đi vay, đi mượn hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v v Rõ ràng, những cách đó
là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc
đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết bảo đảm
cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định đẻ họ trang trải những nhu cầu cần
thiết khi ốm đau, tai nạn, thai sản Trong thực tế, nhiều khi các trưòng hợp trên
không xảy ra và người chủ không phải chi trả một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy
ra dồn dập, buộc họ một lúc phải bỏ ra trong một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ
không muốn.Vì thế mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc
chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diền ra ngày càng rộng lớn và có tác
động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can
thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của Nhà nước,
mặt khác buộc các giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng
tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm
thuê .Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên
phạm vi quốc gia. Qũy này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết
nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính
nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn
trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định.
Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình
thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập
trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh
lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế
giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy, BHXH là sự đảm bảo thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến
cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử
dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình
họ góp phần đảm an toàn xã hội .
2. Bản chất
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội
mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao
động phát triển đến một mức độ nào đó . Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa
dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không
vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước .
- Mối quan hệ giữa cái bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn
ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXHvà bên được BHXH. Bên tham gia
BHXHchỉ có thể là nguười lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao
động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXHthông thường là cơ quan chuyên trách do
Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có
đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có
thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn trái với chủ quan của con người như :
ốm đau, tai nạnlao động, bệnh nghề nghiệp Hoặc cũng có thể lã trường hợp xảy ra
không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản v v Đồng thời những biến cố đó
có thể diễn ra cả trong và ngoài lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố,
rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tập trung được tồn tích lại.
Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ
trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động
trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ
chức quốc tế ILO cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh
sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt
của người già, người tàn tật và trẻ em.
3. Chức năng của Bảo Hiểm Xã Hội
BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã hội của Đảng và Nhà
nước ta, BHXH có những chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia BHXH khi họ
bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động
sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định
của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất
thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ
thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy
định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và
cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH.
Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả người sử dụng lao động. Các
bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số
người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người
này thường chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp. Như vậy, theo
quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và
chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu nhập cao và thấp, giữa người khỏe
mạnh đang lao động với những người ốm yếu phải nghỉ việc v v Thực hiện chức
năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâưng cao năng suất
lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản
xuất, người lao động được chủ sủ dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu
nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có
chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi
làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu
quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao
động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động
với x• hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động
vốn có những mâu thuẫn nội tại khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao
động Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc
biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ . Từ đó
làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã
hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải
quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm
cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị xã hội được phát triển và an toàn hơn.
4. Tính chất của Bảo Hiểm Xã Hội
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì vậy tính xã hội của nó thể
hiện rất rõ. Quỹ BHXH là một bộ phận của tổng sản phẩm quốc nội được xã hội tổ
chức quản lí, bảo tồn và phân phối lại cho người lao động. Thực chất quỹ BHXH là
một phần trong tổng sản phẩm quốc nội, trong đó người lao động chỉ phải đóng góp
một khoản nhỏ nhưng khi gặp rủi ro được cả cộng đồng trợ giúp để vượt qua khó
khăn, hoạn nạn. Kết quả của sự phân phối lại đó tạo ra được sự bình đẳng hơn về thu
nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Chính từ đó góp phần tái sản xuất giản đơn
và tái sản xuất mở rộng sức lao động, tạo thêm được nhiều điều kiện thúc đẩy sản xuất
có hiệu quả, tạo thêm được nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập đồng thời phát triển
tốt hơn các dịch vụ xã hội phục vụ cho con người như y tế, giáo dục, văn hoá Hoạt
động BHXH không vì mục tiêu lợi nhận mà hoạt động vì mục đích bảo đảm sự phát
triển lâu bền của nền kinh tế, góp phần ổn định và tiến bộ xã hội. BHXH mang tính
chất nhân đạo, nhân văn, dùng tiền đóng góp khi còn trẻ khoẻ để dùng vào lúc tuổi già,
đau yếu. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia
BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiện bảo hiểm cho mọi người lao động và
gia đình họ, kể cả khi họ đang còn trong độ tuổi lao động.
Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế – xã hội
ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng
cao.
II . Những nội dung cơ bản của BHXH
1. Khái niệm về BHXH
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động
khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho
người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
2. Đối tượng của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay đã
được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. Tuy BHXH ra đời sớm như vậy nhưng
một số khái niệm cơ bản của chúng như: đối tượng tham gia, đối tượng được bảo
hiểm, đối tượng thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm đôi khi còn có sự nhầm lẫn và có nhiều
quan điểm chưa thống nhất. Có nhiều lúc còn lẫn lộn giữa đối tượng BHXH với đối
tượng tham gia BHXH.
Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị
mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các
nguyên nhân như: ốm đau, tai nạn, già yếu Chính vì vậy, đối tượng bảo hiểm xã hội
chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc
mất khả năng lao động, mất việc làm .
Người lao động trong quan hệ BHXH vừa là đối tượng tham gia, vừa là đối tượng
được bảo hiểm và họ cũng là đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH (chiếm phần
lớn trong các trường hợp phát sinh trách nhiệm BHXH).
Đối tượng tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà còn có người sử dụng lao
động và Nhà nước. Sở dĩ người sử dụng lao động tham gia vào BHXH là vì phần họ
thấy được lợi ích thiết thực khi tham gia BHXH, một phần là do sự ép buộc của Nhà
nước thông qua các văn bản quy phạm pháp luật. Đối với Nhà nước thì khác, họ tham
gia BHXH với tư cách là: chủ sở hữu lao động đối với tất cả công nhân viên chức và
những người hưởng lương từ ngân sách. Nhà nước là người bảo hộ cho quỹ BHXH mà
cụ thể là bảo hộ giá trị của quỹ BHXH, bảo hộ cho sự tăng trưởng của quỹ nhằm tạo sự
ổn định cho quỹ và sự phát triển xã hội.
Đối tượng được bảo hiểm xã hội trong quan hệ BHXH ngoài người lao động còn có
người sử dụng lao động. Bởi vì, khi người lao động gặp rủi ro thì người sử dụng lao
động phải có trách nhiệm giúp đỡ. Điều này có nghĩa là họ phải bỏ ra một khoản chi
phí cho ngưòi lao động, nhưng thực tế chi phí này nhanh chóng được cơ quan bảo
hiểm hoàn trả lại.
Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH là ngưòi lao động trong trường hợp họ gặp
rủi ro như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí. Nhưng
trong trường hợp người lao động bị tử vong hoặc sinh đẻ thì đối tượng hưởng quyền
lợi bảo hiểm xã hội lại là thân nhân của người lao động như: bố, mẹ, con, vợ ( chồng).
3. Phạm vi bảo hiểm xã hội
Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của tổ chức lao động quốc tế ILO
phạm vi của BHXH là trợ cấp cho 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện kiến
nghị đó ở mức độ kác nhau.
ở nước ta theo điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao gồm 5 chế độ:
chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất .
4. Quỹ bảo hiểm xã hội
4.1. Khái niệm quỹ BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước.
Quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm: người lao
động, người sử dụng lao động, Nhà nước nhằm mục đích chi trả cho các chế độ
BHXH và đảm bảo hoạt động của hệ thống BHXH.
4.2. Đặc điểm
- Là một quỹ tiền tệ tập trung, giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài
chính quốc gia. Là tổ chức tái chính nằm giao thoa giữa ngân sách nhà nướcvới các tổ
chức tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp và sau đó là tài chính dân cư.
- Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. Tính
không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng đối với người đã tham gia BHXH trong
suốt quá trình lao động nhưng không ốm đau, tai nạn lao động, sinh con.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển của BHXH gắn liền với chức năng vốn có của nhà
nước là vì quyền lợi của người lao động chứ không vì mục đích kiếm lời, đồng thời nó
cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong từng
thời kì của từng quốc gia. Khi nền kinh tế càng phát triển thì càng có nhiều chế
độBHXHđược thực hiện, và bản thân từng chế độ cùng được áp dụng rộng rãi hơn,
nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâg caovà họ càng có
khả năng tham gia vào nhiều chế độ bảo hiểm xã hội.
- Một mặt, quỹ BHXH mang tính tiêu dùng được thể hiện thông qua mục tiêu, mục
đích của nó là chi trả cho các chế độ BHXH. Nhưng mặt khác nó lại mang tính dự trữ
vì thông thường, khi người lao động đóng góp vào quỹ BHXH thì họ không được quỹ
này chi trả ngay khi gặp rủi ro mà phải có đủ thời gian dự bị.
- Hoạt động của quỹ BHXH đặt ra yêu cầu và hình thành tất yếu chế độ tiết kiệm bắt
buộc của xã hội và người lao động dành cho ốm đau, hưu trí. Đó cũng là quá trình
phân phối lại thu nhập của cá nhân và cộng đồng.
4.3. Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước.
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động góp.
- Người lao động góp.
- Nhà nước góp và hỗ trợ thêm.
- Các nguồn thu khác( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần
nhàn rỗi )
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người
lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở
quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai
bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao
động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy
ra đối với người lao độngmà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt
tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ– thợ. Về phía người
lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu
trực tiếp rủi ro của chính mình,vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một
cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như
nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia
đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những chuẩn
mực pháp lí mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo,
những tranh chấp chủ thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết.
Ngoài ra, bằng nhiều hình thức khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và
hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chỗ dựa để đảm báo cho hoạt động
BHXH chắc chắn và ổn định.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu
trên.
Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có
khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sủ dụng lao động hiện
vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá
nhânvà quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn
cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền
kinh tế quốc để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu
toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động. Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia
đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp
mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho
quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí Quản lí BHXHv v
Nước ta, từ năm 1962 đến năm 19987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ hai nguồn:
các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp, phần còn lại
do ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ
năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn
vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, Chính phủ đã ban
hành rộng rãi Nghị định 43/CP ngày 22/ 06/ 1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban
hành kèm theo Nghị định 12 /CP ngày 26/ 01/1995, trong các văn bản này đều quy
định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người
tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và
5% để chi các chế độ ồm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp .
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với
người lao động.
- Các nguồn khác.
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân
đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong
thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta
thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH,
có thể có những căn cứ tính toán khác nhau:
- Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở
xác định mức phí đóng.
- Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó mới xác định mức hưởng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức
hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí phải đóng.
- Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kĩ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp
vì nó liên quan cả đến người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước. Liên quan
đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên
tắc: cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được
cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Phí BHXH được xác định theo công thức:
P = f1+f2+f3
Trong đó : P : Phí BHXH
f1: phí thuần túy trợ cấp BHXH
f2 :phí dự phòng
f3: phí quản lí
Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với các chế độ
BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn ( thường là
một năm ) như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ Vì vậy, số đóng góp BHXH
phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với chế độ BHXH dài hạn như : hưu
trí, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng
v v quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và diễn ra
trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng
BHXH phải được dàn trải trong cả thời kì dài. Vì thế, ngoài phí thuần tuý phải có phí
dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
4.4. Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH bao gồm 3 bộ phận: phí thuần, phí quản lí và phí dự trữ. Như vậy quỹ
BHXH được sử dụng cho 3 mục đích: chi trả, cho các chế độ BHXH cho việc quản lí
hệ thống BHXH và chi trích lập quỹ dự phòng cho những trường hợp tổn thất lớn.
Khoản chi thứ hai trong BHXH là chi cho việc quản lí nghiệp vụ BHXH. Đây là nguồn
chi không lớn trong cơ cấu chi bảo hiểm xã hội nhưng nó cũng là một khoản chi ngày
càng tăng. Bởi vì các chế độ BHXH ngày càng được mở rộng để đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của người lao động, do đó đội ngũ cán bộ phục vụ BHXH ngày càng
nhiều dẫn đến chi lương cán bộ ngày càng lớn. Mặt khác, xã hội ngày càng phát triển
thì nhu cầu về điều kiện làm việc ngày càng tăng. Vì vậy, chi phí cho việc xây dựng cơ
bản, mua sắm máy móc, trang thiết bị văn phòng ngày càng tăng lên.
Mục đích thứ ba của quỹ BHXH là chi dự trữ. Thực chất đây là quá trình tích luỹ trong
quá trình sử dụng bảo hiểm xã hội. Định kì hàng tháng (quý, năm) cơ quan bảo hiểm
xã hội tiến hành giữ lại một phần quỹ của mình để thành lập nên quỹ dự trữ BHXH.
Quỹ này chỉ được sử dụng trong trường hợp nhu cầu chi trả lớn dẫn đến thâm hụt quỹ
bảo hiểm xã hội hoặc lúc đồng tiền mất giá.
Trợ cấp ngắn hạn: Trợ cấp dài hạn Trợ cấp tai nạn lao động
- Chăm sóc y tế - Mất sức lao động - Mất sức tạm thời
- ốm đau - Tuổi già - Mất sức vĩnh viễn
- Thai sản - Tuất - Trợ cấp người ăn theo
- Mai táng
5. Trách nhiệm và quyền hạn các bên tham gia bảo hiểm xã hội
Theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về Điều lệ BHXH đối với người lao động trong
các thành phần kinh tế thì quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia BHXH như
sau:
a. Người sử dụng lao động.
* Trách nhiệm:
- Đóng bảo hiểm xã hội đúng quy định.
- Trích tiền lương của người lao động để đóng BHXH đúng quy định.
- Xuất trình các tài liệu, hồ sơ và cung cấp thông tin liên quan khi có kiểm tra, thanh
tra về BHXH của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
* Quyền hạn:
- Từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng với quy định của Điều lệ của BHXH .
- Khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi cơ quan BHXH có hành vi vi
phạm Điều lệ bảo hiểm xã hội.
b. Người lao động
* Trách nhiệm:
- Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định.
- Thực hiện đúng các quy định về việc lập hồ sơ để hưởng chế độ BHXH.
- Bảo quản, sử dụng sổ BHXH và hồ sơ về BHXH theo đúng quy định.
* Quyền hạn:
- Được nhận sổ bảo hiểm xã hội.
- Được nhận lương hưu hoặc trợ cấp kịp thời, đầy đủ, thuận tiện khi có đủ điều kiện
hưởng BHXH theo quy định tại Điều lệ BHXH.
- Khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi người sử dụng lao động hoặc tổ
chức BHXH có hành vi vi phạm Điều lệ BHXH.
c. Cơ quan bảo hiểm xã hội
* Trách nhiệm:
- Tổ chức thu, quản lí, sử dụng quỹ BHXH đúng quy định.
- Thực hiện các chế độ BHXH đúng quy định tại Điều lệ BHXH.
- Tổ chức việc trả lương hưu và trợ cấp BHXH kịp thời, đầy đủ, thuận tiện.
- Giải quyết các tranh chấp, khiếu nại về bảo hiểm xã hội.
- Thông báo định kì hàng năm về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người
lao động và sử dụng lao động.
* Quyền hạn:
- Trình Thủ Tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định
để quản lí việc thu, chi BHXH và để xác nhận đối tượng được hưởng các chế độ
BHXH quy định tại Điều lệ bảo hiểm xã hội.
-Tổ chức phương thức quản lí quỹ BHXH để đảm bảo thực hiện các chế độ bảo hiểm
xã hội có hiệu quả.
- Tuyên truyền, vận động để mọi người tham gia thực hiện BHXH.
-Từ chối việc chi trả chế độ BHXH cho các đối tượng được hưởng chế độ BHXH khi
có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá làm giả hồ sơ tài
liệu.
6. Tổ chức quản lý bảo hiểm xã hội
Theo nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ, hệ thống BHXH được thành lập
đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, sự quản lí Nhà nước của Bộ lao động-
thương binh xã hội và các cơ quan quản lí Nhà nước có liên quan, sự giám sát của tổ
chức công đoàn.
Hội đồng quản lí BHXH Việt Nam là cơ quan quản lí cao nhất của BHXH Việt Nam.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến địa
phương, gồm có:
ở Trương ương : Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương( gọi chung là tỉnh) là BHXH tỉnh trực
thuộc BHXH Việt Nam.
ở các quận, huyện, thị xã thành phố trực thuộc tỉnh( gọi chung là huyện) là BHXH
huyện trực thuộc BHXH tỉnh.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam do Tổng giám đốc quản lí và điều hành thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc thu bảo hiểm xã hội theo quy định của Bộ luật lao
động, Điều lệ BHXH và các quy định của Chính phủ.
- Quản lí quỹ BHXH và tổ chức việc chi trả BHXH cho người tham gia BHXH được
đầy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn.
- Được quyền từ chối việc chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng hưởng chế độ
BHXH khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá, làm
giả hồ sơ, tài liệu để được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, đồng thời ra văn bản thông
báo việc từ chối chi trả đó cho đương sự, cơ quan sử dụng lao động và cơ quan pháp
luật.
- Bồi thường mọi khoản thu chi sai các quy định của Nhà nước về BHXH cho các đối
tượng tham gia BHXH và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện dự án và biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng cường
quỹ BHXH theo quy định của Chính phủ.
- Trình thủ tướng Chính phủ quyết định về mức chi phí quản lí, định mức lệ phí thu,
chi quỹ BHXH và các quy định khác có liên quan đến hoạt động BHXH và tổ chức
thực hiện các quy định nói trên.
- Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan việc sửa đổi, bổ sung
các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với tình hình của đất nước trong từng
giai đoạn.
- Lưu giữ hồ sơ, cấp và quản lí sổ BHXH.
- Tổ chức thực hiện công tác thống kê, hạch toán, kế toán; hướng dẫn nghiệp vụ, thu,
chi bảo hiểm xã hội và kiểm tra việc thực hiện; tổ chức công tác thông tin, tuyên
truyền, giải thích các chế độ, chính sách về BHXH.
- Kiểm tra việc thực hiện các chế độ thu, chi BHXH.
- Giải quyết kịp thời các khiếu nại của người tham gia BHXH về việc thực hiện các
chế độ, chính sách BHXH.
- Thực hiện việc hợp tác quốc tế về sự nghiệp BHXH theo quy định của Chính phủ.
- Quản lí tổ chức, viên chức, tài chính, cơ sở vật chất của BHXH Việt Nam theo quy
định của Nhà nước.
- Thực hiện việc báo cáo định kì về thu, chi và các hoạt động về BHXH cho Bộ lao
động - thương binh và xã hội và Bộ tài chính.
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam được quan hệ trực tiếp với cá cơ quan Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân ở Trung ương và địa phương, với các bên tham gia BHXH để giải
quyết các vấn đề có liên quan đến BHXH theo quy định của Bộ Luật lao động, Điều lệ
BHXH.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác được Thủ Tướng Chính phủ giao cho.
Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp Tổng giám đốc BHXH Việt Nam như sau:
- Ban quản lí chế độ chính sách BHXH
- Ban quản lí thu BHXH.
- Ban quản lí chi BHXH.
- Ban kiểm tra – pháp chế.
- Ban kế hoạch—tài chính.
- Ban tổ chức cán bộ.
- Văn phòng.
- Trung tâm thông tin- khoa học.
Nhiệm vụ, quyền hạn và biên chế của các đơn vị nói trên do Tổng giám đốc quy định.
Việc bổ nhiệm, miễm nhiệm chức vụ lãnh đạo của các tổ chức nói trên do Tổng giám
đốc quyết định.
Bảo hiểm xã hội tỉnh thực hiện các nhiệm vụ về BHXH trên địa bàn tỉnh theo quy định
của Tổng giám đốc bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội tỉnh do một giám đốc
quản lí và điều hành. Giúp việc giám đốc có 1 – 2 phó giám đốc. Giám đốc, phó giám
đốc BHXH tỉnh do Tổng giám đốc BHXH Việt Nam bổ nhiệm và miễm nhiệm.
Nhiệm vụ, quyền hạn, biên chế các phòng chuyên môn nghiệp vụ nói trên do Tổng
giám đốc BHXH Việt Nam quyết định.
Bảo hiểm xã hội huyện có nhiệm vụ tiếp nhận đăng ký hưởng chế độ bảo hiểm xã hội
do BHXH tỉnh chuyển đến; thực hiện việc đôn đốc, theo dõi nộp BHXH đối với người
sử dụng lao động và người lao động trên địa bàn; tổ chức mạng lưới hoặc trực tiếp
chi trả các chế độ BHXH cho người được hưởng trên địa bàn huyện.
Bảo hiểm xã hội huyện do một giám đốc quản lí và điều hành. Các huyện có khối
lượng công việc nhiều có thể có phó giám đốc giúp việc do giám đốc BHXH huyện bổ
nhiệm và miễn nhiệm theo phân cấp của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam.
Bảo hiểm xã hội huyện không có cơ cấu tổ chức phòng. Biên chế của BHXH huyện do
giám đốc BHXH tỉnh quyết định trong phạm vi tổng biên chế của BHXH tỉnh được
Tổng giám đốc phân bổ.
Giám đốc BHXH huyện quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng viên chức
thuộc quyền quản lí.
Việc thành lập BHXH huyện do Tổng giám đốc BHXH Việt Nam quy định căn cứ vào
khối lượng công việc, số lượng người và đơn vị tham gia BHXH trên địa bàn. Tại
những nơi chưa có đủ điều kiện thành lập BHXH huyện thì giám đốc BHXH Tỉnh cử
người đại diện tại huyện để thực hiện việc chi trả và đôn đốc theo dõi việc thu chi,
nộp BHXH trên địa bàn.
III. quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội.
1. Trên thế giới
Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỉ XIII ở Nam Âu
khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên ban đầu
BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp . Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ
XIII một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề
nghiệp họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau. ở Anh năm 1973 đã
thành lập hội “bằng hữu” để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn nghề nghiệp.
Năm 1883, nước Phổ ( Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm
ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Bảo hiểm xã hội đã trở
thành một trong những quyền của con người và được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn
nhân quyền của Liên Hợp Quốc ( 10/12/1948) đã nghi: “ Tất cả mọi người với tư cách
là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”. Ngày 4/6/1952, tổ chức lao động
quốc tế (ILO) đã kí công ước Giơnevơ (102) về “Bảo hiểm xã hội cho người lao
động” đã khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành BHXH cho người lao động và gia
đình họ. Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của Tổ chức lao động
quốc tế (ILO) phạm vi của BHXH là trợ cấp cho 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế độ trên và
không phải nước nào cũng có phạm vi, đối tượng, nguồn hình thành quỹ giống nhau.
Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác nhau, tuỳ theo
điều kiện cụ thể của từng nước và và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển mà
mỗi nước có hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp.
Trên thế giới có 35 nước thực hiện được 9 chế độ, 37 nước chưa thực hiện được chế độ
thứ 3 ( trợ cấp thất nghiệp), 67 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 và thứ 6 ( trợ
cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình).
2. Tại Việt Nam
Bảo hiểm xã hội có mầm mống dưới thời phong kiến Pháp thuộc. Sau cách mạng
tháng 8/1945 Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà -nay là nước Cộng Hoà
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đã ban hành sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 thực hiện
bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động và hưu trí. Các chế độ này được thực hiện đối với
những người làm việc trong các cơ quan từ cơ sở đến Trung ương.
Tuy nhiên, do chiến tranh và khả năng kinh tế có hạn nên chỉ một bộ phận lao động xã
hội được hưởng quyền lợi BHXH.
Sau khi hoà bình lập lại, ngày 27/12/ 1961 Nhà nước ban hành Nghị định 128/CP của
Chính phủ về “Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên
chức” và được thực hiện từ ngày 1/1/1962. Sau hơn 20 năm thực hiện BHXH đối với
công nhân viên chức, các chế độ bảo hiểm xã hội đã bộc lộ nhiều hạn chế. Do đó ngày
18/9/1985 Chính phủ (lúc đó là Hội Đồng Bộ Trưởng) đã ban hành Nghị định
236/HĐBT về việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao
động. Nội dung chủ yếu của Nghị định này là điều chỉnh mức đóng và hưởng BHXH.
Tuy nhiên chính sách BHXH ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế không phù hợp với cơ
chế mới. Vì vậy, ngày 22/6/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP quy định
tạm thời về các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế , đánh dấu một
bước đổi mới của BHXH Việt Nam.
Tuy vậy, chỉ khi Bộ luật lao động được Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 15/6/1994, điều lệ tạm thời về BHXH theo Nghị định 12/CP của
Chính phủ ban hành ngày 26/1/1995 và Nghị định 45/CP ban hành ngày 15/7/1995 cho
các đối tượng hưởng BHXH là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang, bảo hiểm
xã hội Việt Nam thực sự đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cũng như tổ chức
quản lý.
Các văn bản trên đã quy định cụ thể các chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng qua các
giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước.
Về hệ thống tổ chức quản lí:
- Trước năm 1995 do hai nghành quản lí. Ngành Lao động Thương binh Xã hội quản lí
việc thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất, còn liên đoàn lao động Việt Nam quản lí chi
trả chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, nghỉ ngơi. Từ năm 1995 đến nay Chính
phủ đã cho phép sát nhập bộ phận làm công tác BHXH ở hai ngành lại thành tổ chức
mới đó là BHXH Việt Nam, là cơ quan trực thuộc Chính phủ có hệ thống dọc ở cấp
tỉnh và huyện ở các địa phương. Về nguồn tài chính hình thành quỹ BHXH chia làm
hai giai đoạn:
- Thời kì 1962- 1993: trong giai đoạn này, quỹ BHXH được hính thành từ nguồn thu
tiền đóng BHXH với quy định chỉ có người sử dụng lao động đóng và tỉ lệ đóng là
4,7% quỹ lương, trong đó :1% do ngành lao động Thương binh xã hội và Bộ tài chính
quản lí để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất; 3,7% do Tổng Liên Đoàn Lao động quản
lí để chi trả các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. Đén năm 1987 được
nâng lên 15%, trong đó 8% do nghành lao động TBXH quản lí, 2% để lại đơn vị để trợ
cấp khó khăn đột xuất, 5% do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam quản lí.
Đặc điểm nổi bật là trước năm 1987 tỷ lệ đóng góp thấp, số người hưởng chế độ
BHXH ít song tỷ trọng ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho mục tiêu này lớn. Sau năm
1987 tỷ lệ này được nâng lên song số người hưởng tăng lên, đặc biệt từ năm 1990 với