Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGOẠI KHOA – PHẦN 1 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.72 KB, 17 trang )

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGOẠI KHOA – PHẦN 1
Phạm Gia Khánh
Phạm Vinh Quang

1. Lịch sử ngoại khoa.
Ngoại khoa có một bề dày lịch sử và sự phát triển như ngày nay là nhờ sự
đóng góp to lớn của nhiều lĩnh vực.
ở thời tiền cổ, thuật ngữ "ngoại khoa" không chỉ là các phương pháp điều trị
bệnh mà còn là các biện pháp để thực hiện các nghi lễ (cúng quỷ thần, lễ siêu thoát).
Vào khoảng 4000 năm trước công nguyên, người cổ đại đã biết cách thắt và
khâu buộc, cầm máu vết thương. Từ 3000 năm trước công nguyên, người Ai Cập
đã biết sử dụng những loại chỉ được chế tạo từ ruột động vật để khâu vết thương
và chữa gẫy xương, khoan sọ để giải thoát "thần kinh" cho người bệnh.
Vào thời kỳ La Mã cổ đại, Hippocrate (người Hi Lạp, sinh năm thứ 460 trước
công nguyên) đã xuất bản hơn 70 cuốn sách y học về gẫy xương, sai khớp và
những bệnh cần điều trị ngoại khoa.
Trong thời kỳ của các nền văn minh cổ đại, Hippocrate đã biết dùng nước đun
sôi để nguội và rượu để rửa các vết thương, cố định ổ gẫy để chữa gãy xương, nắn
chỉnh để chữa sai khớp, áp nhiệt để đốt các búi trĩ và cầm máu bằng các dùi sắt
nung đỏ, chích tháo mủ để điều trị các ổ áp xe Trong cuốn sách "Corpus
Hippocratum", Ông đã mô tả các đặc điểm của thoát vị, bệnh loét dạ dày.
Năm 1478, Aulus Cornelius Celsus - nhà bách khoa toàn thư người La Mã ở
nửa đầu thế kỷ thứ nhất trước công nguyên đã mô tả tình trạng nhiễm trùng với 4
đặc điểm: "sưng, nóng, đỏ, đau”, về một số phương pháp điều trị ngoại khoa. ở
thời kỳ này, nhà danh y Hi Lạp Herophile (sinh năm thứ 320 trước công nguyên)
đã tiến hành phẫu tích tử thi để nghiên cứu về giải phẫu người.
Erasistrate (sinh năm thứ 310 trước công nguyên) đã đề xuất phương pháp
chữa tắc ruột và thoát vị nghẹt bằng mổ bụng. Clauduis Galen (sinh vào năm thứ
130 trước công nguyên) đã biết luộc dụng cụ trước khi sử dụng cho phẫu thuật, sử
dụng chỉ để thắt mạch máu, chữa các vết thương cơ, thần kinh, mạch máu, gẫy
xương, sai khớp và chích bỏ máu, mổ lợn, khỉ, bò để nghiên cứu về giải phẫu.


A.C.Celsus (nửa đầu của công nguyên) đã biết cách thắt buộc mạch máu, chữa
vết thương bụng, dùng bông và giấm để chữa vết thương.
Hoa Đà (sinh năm 190 sau công nguyên) đã dùng bột gây tê để mổ vết thương,
lấy mũi tên, mổ bụng, khoan sọ, thiến hoạn
Mặc dù ngoại khoa được tách ra thành một chuyên ngành của y học từ rất sớm
(khoảng 200 năm trước công nguyên) nhưng không thể phát triển được trong suốt
thời kỳ trung cổ do sự thống trị của đạo giáo và do Giải phẫu học - môn khoa học
nền tảng của ngoại khoa vẫn chưa phát triển.
Sự phát minh ra thuốc súng và những cuộc chiến tranh triền miên giữa các nhà
nước phong kiến cùng với sự phát triển của chuyên ngành Giải phẫu đã tạo những
điều kiện thuận lợi cho ngoại khoa phát triển.
Môn Giải phẫu học trong thời kỳ này cũng rất phát triển nhờ các công trình
nghiên cứu của Leonard de Vinci (1452 - 1519), Andreas Vealius (1514 - 1584),
Andreas Vesalius (1514 - 1564), Gabriel Fallope (1523 - 1562) và các nghiên cứu
về Sinh lý học với các công trình về tuần hoàn máu của William Harvey (1587 -
1657), về tuần hoàn bạch huyết của Gaspard Aselli (1581-1626), Fean Pecquet
(1622 - 1674) về tế bào và mao mạch của Marcelo Malpighi (1628 - 1694)
Các thầy thuốc ngoại khoa lúc này đã tập hợp lại thành phường, hội để hành
nghề. Trong những thế kỉ XIV, XV, XVI, nghề phẫu thuật vẫn chưa được xã hội
công nhận chính thức. Phẫu thuật viên chỉ được coi như những người thợ cạo hành
nghề chích bỏ máu, chích áp xe, nhổ răng, rạch mổ thoát vị.
Từ năm 1540, nhờ đạt được thoả thuận về phạm vi hành nghề mà các phẫu
thuật viên không phải làm nghề cắt tóc và những người thợ cắt tóc cũng chỉ được
phép chữa răng. Phải đến những thập kỷ đầu của thế kỷ XVIII, chuyên ngành
ngoại khoa mới chính thức được xã hội công nhận.
Vào năm 1800, George III đã công nhận trường Đại học Ngoại khoa Hoàng
Gia ở Luân Đôn.
ở nước Pháp, ngày 12 tháng 12 năm 1731, vua Lui thứ 15 đã phê chuẩn thành
lập Hội ngoại khoa. Ngày 2 tháng 7 năm 1748, Viện Hàn lâm phẫu thuật của nhà
vua Pháp được thành lập. Chương trình đào tạo về ngoại khoa được Pierre Joseph

Desault (1744 - 1795) xây dựng.
Vào những thập kỷ sau của thế kỷ XIX, ngoại khoa đã có những bước tiến và
sự phát triển đáng kể, làm tiền đề cho sự phát triển vượt bậc của ngoại khoa trong
thế kỷ XX.
Năm 1858, nhà giải phẫu bệnh Rudolf Virchow đã đưa ra lý thuyết về bệnh lý
tế bào. Vào giữa thế kỷ XVIII, Morgagni tin rằng: mọi bệnh đều phát triển ở các
cơ quan của cơ thể. Vào đầu thế kỷ XIX, phẫu thuật viên người Ph¸p Xavier
Bichat đã khẳng định: các cơ quan của cơ thể đều được cấu tạo bởi các mô, giới
hạn cuối cùng của các quá trình bệnh lý khu trú ở các tế bào.
ở nước ta, từ thế kỷ XIV đến thế kỷ thứ XVIII, vào các thời đại nhà Lý, Trần,
Lê đã có những bài thuốc y học cổ truyền chữa gẫy xương, viêm tấy phần mềm.
Tuệ Tĩnh, vị danh y ở thế kỷ thứ XIV đã dùng cao dán để điều trị các vết thương
do dao chém, các bài thuốc để chữa bỏng, để trị dòi, bọ tại vết thương, vết bỏng.
Hải Thượng Lãn ông (1720 - 1791) đã có những bài thuốc uống, thuốc rửa, thuốc
dùng tại chỗ để điều trị các thương tích do bị đánh, bị thương (các vết đứt, vết
chém), các vết bỏng.
2. Gây mê và khử trùng.
Trước khi có các phát minh về tiệt trùng, khử khuẩn, thì tỉ lệ các vết thương bị
nhiễm khuẩn và tình trạng tử vong do nhiễm khuẩn rất cao gây ảnh hưởng lớn đến
kết quả phẫu thuật trong nhiều thế kỷ.
+ Vào năm 1840, bác sỹ sản khoa người Hungari Ignaz Semmelweis và Oliver
Wendell đã tiến hành khử trùng buồng đỡ và môi trường xung quanh bằng vôi và
khử trùng tay người đỡ đẻ bằng dung dịch clo.
+ Việc ứng dụng phương pháp gây mê trong phẫu thuật vào năm 1840 được
coi là phát minh vĩ đại nhất trong lịch sử của y học.
Vào năm 1842, bác sĩ Crawford W. Long (người Georgia) đã sử dụng phương
pháp gây mê ête để cắt bỏ những khối u nhỏ trên da. Năm 1844, H.Wells đã
nghiên cứu sử dụng protoxydazot để gây mê. Năm 1898, Augurt Bier đã đề xuất
phương pháp gây tê tủy sống. Năm 1947, J.Y. Simpson (người Anh) đã sử dụng
cloroform để gây mê và dùng cocain để gây tê từ năm 1884. Năm 1904, Eichnom

sử dụng novocain để gây tê tại chỗ. Việc Jame Young Simpson công bố phương
pháp gây mê trong phẫu thuật đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển của
ngoại khoa.
+ Mặc dù kính lúp và kính hiển vi đã được Leuenhook (1632 - 1723) phát
minh từ những thế kỷ trước, nhưng mãi tới thế kỷ XIX mới có những phát hiện về
vi sinh vật. Năm 1864, nhà khoa học người pháp, Louis Pasteur đã phát triển lý
thuyết mầm bệnh và đề xuất phương pháp dùng nhiệt để tiệt khuẩn.
+ Joseph Listera (sinh năm 1827 ở Essex) là người đã có công phát triển và
ứng dụng các nguyên lý khử trùng trong thực hành ngoại khoa. Quy trình khử
trùng bằng cách nhúng dụng cụ phẫu thuật vào dung dịch axít carboxylic và xịt hơi
nước để khử trùng môi trường trong phòng mổ đã được Lister công bố vào năm
1867.
Năm 1882, Robert Kock đã phân lập được trực khuẩn lao.
Từ năm 1881, phương pháp khử khuẩn bằng các nồi hơi với áp suất cao đã
được áp dụng khá rộng rãi. William Halsted đã đề xuất sử dụng găng tay cao su
dùng trong phẫu thuật từ năm 1890.
Năm 1994, Jgnaz Phillip Smelwis (người Hunggary) đã đề xuất: cần rửa sạch
bàn và ngón tay bằng dung dịch clorua vôi trước khi phẫu thuật và giặt sạch các đồ
vải, dụng cụ được sử dụng trong phẫu thuật
2. Phẫu thuật bụng.
Lịch sử phát triển của phẫu thuật bụng đã có từ rất lâu. Từ thời kỳ cổ đại,
Hippocrate đã có những tài liệu mô tả chứng thoát vị, loét dạ dày, tá tràng. Các
danh y Hi Lạp khác như Era sistrate (sinh năm thứ 310 trước công nguyên), đã biết
mổ bụng chữa tắc ruột và thoát vị. A.C Celsus (thế kỷ đầu của công nguyên) đã
mô tả cách chữa vết thương bụng. Hoa Đà đã tiến hành mổ bụng và thiến, hoạn.
Vào thế kỷ XIX, các phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa viêm trước khi vỡ, phẫu thuật
điều trị ung thư thực quản và dạ dày của Billroth, phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn
cải tiến của Bassini và Halsted đã được giới y học thời kỳ này đánh giá cao.
Vào những năm 1880 do chưa có những hiểu biết về khử trùng nên phẫu thuật
viên không dám mở bụng để trị tắc ruột, thoát vị nghẹt. Năm 1809, bác sỹ

Ephraim mcDowell người Kentucky đã dũng cảm cắt bỏ thành công một khối u
buồng trứng lớn cho bà Jane Todd Crawford. Nếu phẫu thuật không thành công,
Ông có thể bị những người dân trong thị trấn Danville, kentucky treo cổ.
Nhưng nguyên lý cơ bản của kỹ thuật khâu nối ruột đã được phát minh từ đầu
thế kỷ XIX nhưng phải tới vài thập kỷ sau kỹ thuật này mới được đưa vào sử
dụng. Trong thời gian này, Guillaume Dupuytren (người Pháp) đã tiến hành những
thí nghiệm liên quan đến kỹ thuật khâu nối ruột.
Một sinh viên của Dupuytren là Antoine Lembert là người đã đề xuất mối
khâu rời (sau này được mang tên ông - mối khâu Lembert) cho phép áp tối đa các
mặt thanh mạc của ruột.
ở châu Mỹ, những công trình nghiên cứu của nhà giải phẫu bệnh Reginald
Heber Fitz cùng các phẫu thuật viên như Charles Mac-Burney, Henry B, Sands
(New York), John B. Murphy (Chicago) đã góp phần quan trọng trong việc thúc
đẩy sự phát triển của ngoại khoa. Năm 1886 Fitz đã chính thức đưa căn bệnh viêm
ruột thừa vào giảng dạy.
Charles Mac-Burney, giáo sư ngoại khoa của trường Y, làm việc ở bệnh viện
New York là người đã tìm ra điểm thăm khám phát hiện ruột thừa viêm vào năm
1889 (điểm này được gọi là điểm Mac-Burney), 5 năm sau ông lại công bố đường
rạch da trong phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa viêm (đường Mac-Burney).
Sự kiện dẫn lưu thành công áp xe ruột thừa cho Vua Edward VII nước Anh,
giúp cho Ông lên ngôi vua vào năm 1902 đã khiến cho dư luận quan tâm nhiều
hơn đến vai trò của ngoại khoa, tạo điều kiện cho ngoại khoa phát triển.
3. Phẫu thuật thần kinh.
Thế kỷ XIX đánh dấu sự phát triển đặc biệt của Phẫu thuật thần kinh, Phẫu
thuật lồng ngực và Phẫu thuật cấy ghép tạng.
Các công trình nghiên cứu của Harvey Cushing, Walter Dandy đã mở ra
một giai đoạn phát triển mới cho chuyên ngành Phẫu thuật thần kinh.
Phương pháp khoan sọ Trephin là một phẫu thuật xuất hiện sớm nhất trong
lịch sử phát triển ngoại khoa, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của
chuyên ngành Phẫu thuật thần kinh. Khi mới xuất hiện, phương pháp này chỉ được

dùng để điều trị chứng tâm thần, để làm giảm áp lực nội sọ trong chấn thương sọ
não hoặc để điều trị chứng động kinh. Harvey là người đã sáng chế ra một lược đồ
giúp cho các bác sĩ gây mê có thể liên tục thu thập được những thông tin về hô hấp
và huyết áp của bệnh nhân. Vài năm sau ông đã sáng chế ra máy đo huyết áp phục
vụ cho các phòng mổ. Tại bệnh viện Johns Hopkins, Ông đã sáng lập ra các phòng
phẫu thuật thực hành để có thể dạy cho sinh viên các phương pháp phẫu thuật
thực nghiệm hiện đại trên chó.
4. Phẫu thuật lồng ngực.
+ Trước khi khâu thành công vết thương tim vào năm 1890, chuyên ngành
Phẫu thuật lồng ngực mới chỉ thực hiện được các thủ thuật dẫn lưu mủ, máu màng
ngoài tim. Các phương pháp điều trị ngoại khoa đối với những thương tổn của tim
(chấn thương, bẩm sinh, thoái hóa, tổn thương sau nhiễm trùng) đã được đề cập
đến khá chi tiết trong các cuốn sách của Meade, Richardson và Johnson.
Năm 1902, từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên động vật, Lauder Brunton
cho rằng: có thể điều trị được các bệnh van tim bằng phẫu thuật. Cho đến tận năm
1925, một đồng nghiệp của Lauder Brunton ở London là Henry Souttar đã thực
hiện thành công phẫu thuật nong van hai lá bằng ngón tay qua đường tiểu nhĩ trái
để điều trị bệnh hẹp lỗ van hai lá cho một cô gái 19 tuổi. Phẫu thuật van tim bắt
đầu phát triển mạnh từ năm 1940.
Năm 1928, Elliot Cutler and Claude Beck đó tổng kết 12 trường hợp phẫu
thuật van với tỷ lệ tử vong là 83%.
Các thí nghiệm về phẫu thuật tim được bắt đầu từ những năm 1880. Năm 1882
M. H. Block- nhà phẫu thuật người Đức đó thông báo vể các dạng tổn thương tim.
ông đã khâu thành công vết thương tim trên thỏ và khẳng định phương pháp phẫu
thuật này có thể áp dụng trên người.
Phẫu thuật thay van động mạch chủ đã được một số tác giả tiến hành từ năm
1965.
Một trong những người tiên phong trong chuyên ngành phẫu thuật tim là
Michael E. DeBakey. Năm 1934, Ông đã phát minh ra loại bơm cuộn - đảm nhiệm
chức năng cơ học của tim trong máy tim - phổi nhân tạo, chế tạo các loại động

mạch nhân tạo. Ông là người đầu tiên tiến hành các phẫu thuật điều trị phồng
động mạch chủ bụng và động mạch chủ ngực, phẫu thuật cắt bỏ lớp áo trong của
động mạch chủ, động mạch cảnh (năm 1953), là người đầu tiên sử dụng các đoạn
tĩnh mạch nông làm cầu nối để điều trị thành công bệnh tắc động mạch vành (năm
1964).
Sự ra đời của phương pháp gây mê nội khí quản vào năm 1910 đã giải quyết
được những khó khăn về kĩ thuật mà chuyên ngành Phẫu thuật lồng ngực đã gặp
phải trong suốt một thời gian dài. Mặc dù John H. Gibbon đã bắt đầu nghiên cứu
về máy tuần hoàn ngoài cơ thể từ trước chiến tranh thế giới lần thứ II, cho đến tận
những năm cuối của thập kỷ 30 (thế kỷ XX), máy hô hấp nhân tạo, thiết bị hạ
nhiệt và tim phổi nhân tạo mới ra đời.
Vào những năm đầu thập niên 40 (thế kỷ XX), Blalock, Edwards A. Park Helen
Taussig, Edwards A. Park, Helen Taussig và Vivien Thomas đã phát triển thành
công phương pháp điều trị ngoại khoa tứ chứng Fallot.
+ Sơ lược lịch sử phát triển của máy tuần hoàn ngoài cơ thể:
Năm 1812, LeGallois đã khẳng định tính khả thi của việc chế tạo máy tuần
hoàn nhân tạo.
Năm 1869, Ludwig và Schmidt đã tiến hành những thử nghiệm về khả năng
cung cấp ôxy nhân tạo cho máu.
Năm 1882, Schraeder là người đầu tiên đã chế tạo thành công thiết bị cung
cấp ôxy cho máu trong hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể (bubble oxygenator).
Năm 1885, Frey và Gruber đã chế tạo thành công màng lọc ôxy (film oxygenator)
đầu tiên.
Năm 1916, McLean đã tìm ra heparin cho phép máu của cơ thể có thể chảy
qua hệ thống các ống nhân tạo trong một thời gian dài (mà không bị đông lại).
Năm 1934, DeBakey đã phát minh ra loại bơm cuộn (roller pump) dùng để
bơm máu, thay cho chức năng cơ học của tim trong hệ thống tuần hoàn ngoài cơ
thể (máy tim - phổi nhân tạo).
Năm 1937, Gibbon đã mô tả trong cuốn sách “Lịch sử ngoại khoa” một máy
tim-phổi nhân tạo và thông báo về một trường hợp mổ thực nghiệm trên động vật

với máy tim-phổi nhân tạo đầu tiên thành công.
Năm 1944, Kolff đã phát triển phương pháp thẩm tách máu bằng “thận nhân
tạo” (phương pháp điều trị bằng tuần hoàn ngoài cơ thể đầu tiên được ứng dụng
trên người trong lịch sử y học).
Năm 1953, Gibbon đã mổ đóng lỗ thông liên nhĩ thành công cho một bệnh
nhân nữ 18 tuổi dưới tuần hoàn ngoài cơ thể.
Năm 1956, ca phẫu thuật tim mở đầu tiên sử dụng máy tim-phổi nhân tạo được
thực hiện thành công ở Đức (tại vùng Zenker thuộc thành phố Marburg).
Năm 1965, Bramson đã chế tạo thành công màng lọc ôxy đầu tiên.
Năm 1968, Raffert và cộng sự đã mô tả loại bơm máu ly tâm dùng cho máy
tuần hoàn ngoài cơ thể. Năm 1994, toàn thế giới đã mổ được trên 650.000 trường
hợp với máy tuần hoàn ngoài cơ thể (trung bình mổ được gần 2000 trường hợp
mỗi ngày).
5. phẫu thuật mạch máu, vi phẫu thuật.
Sự phát triển của chuyên ngành Phẫu thuật mạch máu có thể chia ra làm hai
thời kỳ: thời kỳ thắt mạch và thời kỳ phẫu thuật tái tạo, phục hồi sự lưu thông của
các mạch máu.
6.1. Thời kỳ thắt mạch:
Từ thời kỳ đế quốc La Mã, thời kỳ Phục Hưng tới giữa thế kỷ XX, phẫu thuật
thắt mạch máu vẫn là phẫu thuật chính, cơ bản trong xử trí vết thương mạch máu.
Từ thời kỳ Hippocrate, người ta đã tiến hành thắt buộc các mạch máu và cắt
cụt để điều trị bệnh hoại thư các chi thể tại vị trí mà các mạch máu bị tắc để tránh
biến chứng chảy máu.
Antyllus đã đề nghị phương pháp điều trị ngoại khoa phồng động mạch bằng
phương pháp thắt mạch máu ở đầu trung tâm của túi phồng.
William Hunter đã đề nghị thắt động mạch ở đầu trung tâm của túi phồng để
cầm máu.
Kết quả nghiên cứu về các vòng tuần hoàn chi thể và những biện pháp cải
thiện tuần hoàn bên của V.N. Tonkov, V.A. Oppel, B.A. Dolgo - Saburov, Port,
Lerich đã góp phần cải thiện kết quả phẫu thuật thắt mạch máu.

6.2. Thời kỳ phẫu thuật tái tạo, phục hồi sự lưu thông mạch máu:
Năm 1759, Hallowel (nước Anh) đã khâu phục hồi thành công tổn thương mặt
bên của động mạch cánh tay.
Carrel đã đặt nền móng cho chuyên ngành Phẫu thuật mạch máu vào cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đề xuất 12 vấn đề chủ yếu cần chú ý trong điều trị thông
động-tĩnh mạch làm cơ sở cho kỹ thuật cấy ghép tổ chức cơ quan sau này.
Năm 1879, nhà phẫu thuật người Nga là EKK đã thực hiện thành công miệng
nối bên-bên hai mạch máu (tĩnh mạch chủ dưới và tĩnh mạch cửa).
Năm 1882, Schede đã khâu hồi phục thành công một trường hợp rách thành
bên tĩnh mạch.
Năm 1895, I. Ph. Sabanhiev đã thực hiện lấy thử vật tắc ở động mạch đùi nhưng
không thành công. Mãi tới năm 1911 tại Pháp, Labey mới tiến hành phẫu thuật lấy
bỏ vật tắc ở động mạch đùi thành công. Sau đó phẫu thuật loại bỏ tắc mạch ở ngã
ba động mạch chủ bụng được Bauer thực hiện thành công tại Thụy Điển.
Sự phát hiện ra heparin của Mc Lean năm 1916 và sử dụng nó vào trong lâm
sàng ở cuối những năm 30 của thế kỷ XX cùng với kỹ thuật chụp cản quang mạch
máu (C.A. Reiberg, 1924; Sicard và Foresetier, 1923; Dos Santos, 1925) và thành
công trong lĩnh vực gây mê, tuần hoàn nhân tạo vào những năm 50 - 60 của thế kỷ
XX là một bước phát triển nhảy vọt của chuyên ngành Ngoại khoa phục hồi mạch
máu.
Trong thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ hai và những năm đầu sau chiến tranh,
các nhà ngoại khoa tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu phương pháp điều trị
ngoại khoa các vết thương mạch máu và phình mạch (B.V. Petrovski, A.P.
Krymov, G.G. Karavanov, A.I. Arutynnov ).
Năm 1903, Matas đã đề xuất phương pháp điều trị phồng động mạch (sau này
mang tên Ông) bằng cách mở túi phồng và khâu kín lỗ động mạch từ bên trong
lòng túi phồng.
Năm 1906, Goyanes là người đầu tiên đã sử dụng mảnh ghép tĩnh mạch tự
thân để thay thế một túi phồng động mạch ở vùng khoeo.
Govans (1906) và Lexer (1907) đã thay thế thành công đoạn khuyết động mạch

bằng một đoạn tĩnh mạch tự thân .
Năm 1916, Lexer đã sử dụng một đoạn tĩnh mạch hiển để thay thế cho một túi
phồng động mạch nách sau chấn thương.
Bernheim đã sử dụng tĩnh mạch tự thân để thay thế thành công hai trường hợp
phồng tĩnh mạch khoeo.
Việc sử dụng các thuốc cản quang (nitrat iodua) tiêm vào trong lòng động
mạch đã được Brooks đề xuất từ năm 1924.
Năm 1927, Moniz và Santos đã sử dụng thuốc cản quang loại thorium dioxide
bơm vào lòng động mạch để chụp động mạch não và động mạch chủ.
Dos Santos (1947) đã đề nghị phẫu thuật loại bỏ nghẽn tắc động mạch, Kunlin
(1949) đề xuất tạo đường lưu thông phụ (cầu nối) (by - bass) bằng tĩnh mạch qua
chỗ tắc.
Năm 1951, Dubost đã cắt bỏ thành công một phình động mạch chủ bụng,
DeBakey và Bahnson đã cắt bỏ thành công một phồng động mạch chủ ngực.
Năm 1953, Gibbon đã mổ thành công các phồng động mạch chủ bụng và động
mạch chủ ngực với máy tuần hoàn ngoài cơ thể
Năm 1952,Voorhees và Blakemore đã sử dụng động mạch nhân tạo (Vinyon-N,
Dacron và Gore-Tex) vào thực hành lâm sàng.
Từ năm 1960, Jacolson và Suarez đã tiến hành những nghiên cứu thực nghiệm
về vi phẫu thuật. Nhờ sự hỗ trợ của kính hiển vi phẫu thuật, với các kim khâu có
kích thước từ 50 - 60 micron đường kính và các dụng cụ đốt cầm máu lưỡng cực,
phẫu thuật viên có thể nối được các mạch máu có đường kính dưới 2mm. Sự phát
triển của vi phẫu thuật đã cho phép nối mạch, nối dây thần kinh, nối các ngón
chân, ngón tay bị đứt rời, nối mạch trong ghép các mạch tự do gồm da và tổ chức
dưới da có bó mạch thần kinh nuôi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật
tạo hình phát triển.
Carrel đã công bố kỹ thuật khâu nối mạch máu của mình vào năm 1902, khi
Ông chưa đầy 30 tuổi. Với kỹ thuật khâu nối mạch máu đơn giản nhưng vô cùng
hiệu quả này, Ông đã đoạt giải thưởng Nobel về Y học vào năm 1912.
Năm 1965, Komatu và Tâmi đã khâu nối thành công một ngón tay cái bị cắt

đứt hoàn toàn. J. Cobbelt đã tiến hành chuyển một ngón chân lên để thay thế cho
một ngón tay bị đứt lìa thành công vào năm 1968.

×