Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Báo cáo khoa học: "Một số vấn đề trong lập, thẩm định dự án đầu t- trong các doanh nghiệp xây dựng giao thông" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.88 KB, 4 trang )


Một số vấn đề trong lập, thẩm định dự án đầu t
trong các doanh nghiệp xây dựng giao thông


NCS. Nguyễn Quỳnh Sang
Bộ môn Kinh tế Xây dựng
Trờng Đại học Giao thông Vận tải

Tóm tắt: Bi báo lm rõ một số vấn đề tồn tại trong việc lập, thẩm định dự án đầu t trong
các doanh nghiệp xây dựng giao thông v đa ra những ý kiến bớc đầu giải quyết những vấn
đề đó.
Summary: The paper clarifies some existing proplems in preparation and appraisal of
investment projects at transport construction enterprises and proposes some initial ideas
towards solving these problems.

i. Đặt vấn đề
Đầu t phát triển doanh nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt, có tính chất chiến lợc, quyết
định đến tơng lai của một doanh nghiệp. Quyết định đầu t khôn ngoan sẽ mang lại lợi ích lâu
dài, ngợc lại quyết định đầu t sai lầm buộc doanh nghiệp phải trả giá trong thời gian không
ngắn. Vì vậy, trớc khi đầu t vào một dự án nào đó đòi hỏi doanh nghiệp phải lập dự án với
nhiều phơng án khác nhau sau đó lựa chọn ra phơng án có hiệu quả nhất. Thực tế việc lập và
thẩm định các dự án đầu t nói chung, các dự án đầu t mua sắm, đổi mới công nghệ trong các
doanh nghiệp xây dựng giao thông nói riêng còn một số tồn tại nhất định. Bài báo làm rõ những
tồn tại về ba vấn đề: Xác định dòng tiền tệ; thẩm định dự án và việc sử dụng các chỉ tiêu để
đánh giá lựa chọn dự án, từ đó đa ra những ý kiến giải quyết các vấn đề đó.
CT 2
II. Xác định dòng tiền tệ
Trong phân tích đánh giá dự án (DA), điều quan trọng hàng đầu là tính đầy đủ các loại chi
phí và thu nhập để đa vào dòng tiền, phục vụ cho việc tính các chỉ tiêu. Thực tế, vấn đề xác
định dòng tiền tệ còn một số tồn tại v hớng giải quyết sau:


- Xác định thnh phần các chi phí để đa vào dòng chi phí vận hành (chi phí khai thác)
thờng rất đa dạng và phức tạp, vì vậy trong thực tế thờng bị tính trùng hay bỏ sót do cố ý
nhằm làm cho DA đẹp để thuyết phục các tổ chức tài trợ, cũng có trờng hợp do nhận thức
không đúng về bản chất chi phí khai thác. Chẳng hạn: đa vào chi phí khai thác các khoản khấu
hao và lãi vay dài hạn, là sự tính trùng làm cho hiệu quả DA bị đánh thấp xuống một cách giả
tạo.
- Hầu hết các DN đều cha tính chi phí cơ hội khi xác định dòng chi của DA. Về bản chất,
chi phí cơ hội là giá trị tốt nhất mà nhà đầu t đã bỏ qua do lựa chọn cơ hội đầu t này mà bỏ
qua cơ hội đầu t khác. Chi phí cơ hội muốn nói đến chính là cơ hội phí của những tài sản hiện
có mà dòng tiền của những tài sản này có thể tạo ra nếu chúng không đợc sử dụng trong DA.


Và cần lu ý rằng, cơ hội phí đa vào dòng tiền phải là cơ hội cao nhất trong tất cả những cơ hội
phí mà DA có thể có đợc.
- Cha tính đến vấn đề lạm phát trong các DA đầu t, bởi lẽ một DA thờng kéo dài nhiều
năm, dự tính lạm phát cho dòng tiền là sự bảo đảm cho hoạt động bình thờng của DA. Giá một
đơn vị nguyên vật liệu đầu vào, chi phí một giờ công lao động thời điểm 5 năm sau chắc chắn
sẽ khác nhiều so với hiện tại.
III. Thực trạng về thẩm định dự án đầu t
Qua nghiên cứu thực trạng đầu t ở một số DNXDGT đã cho phép tác giả rút ra một số vấn
đề trong việc lập, thẩm định DA đầu t và hớng giải quyết sau:
a. Việc lập một số DA còn trong tình trạng giải bi toán ngợc.
Thực chất của việc giải bài toán ngợc, là đáp số về tính khả thi của DA đã đợc cho trớc
theo ý chủ quan của nhà quản lý DN (chủ đầu t), nó đòi hỏi ngời lập DA phải xác lập các
thông tin, dữ liệu đầu vào và xử lý các số liệu đó sao cho thỏa mãn kết quả nh đã dự định.
Trờng hợp, quá trình giải bài toán không ra đợc đáp số khả thi, thì ngời lập DA lại phải điều
chỉnh lại đề bài bằng một trong những giả định phổ biến nh: tăng doanh thu, giảm chi phí hay
chọn nguồn vốn có lãi suất thấp hơn, điều chỉnh tăng thời gian thu hồi vốn. Nh vậy, là việc lập
DA chỉ mang tính hình thức, nó giống nh giấy phép để đợc ngời có thẩm quyền quyết định
đầu t đồng ý cho đầu t mà cha tính đến việc có nên đầu t hay không, nếu đầu t thì có hiệu

quả là bao nhiêu
b. Thu thập cha đầy đủ các thông tin, dữ liệu cần thiết để lập dự án.
CT 2
Xác lập các thông tin, dữ liệu đầu vào của DA là công việc hết sức quan trọng, quyết định
việc đánh giá DA thực sự có khả thi hay không. Vì vậy, các thông tin, dữ liệu đầu vào của DA
không thể áp đặt, sao chép mà phải dựa trên các cơ sở nghiên cứu khoa học, điều tra thị trờng,
các số liệu thống kê, dự báo một cách hệ thống, chính xác và khách quan. Công việc này, trong
thực tế là rất phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, tốn kém chi phí và mất rất nhiều thời gian,
công sức. Nhất là khi DN thực hiện các DA xây dựng công trình hay những DA có thời gian tính
toán dài, việc điều tra số liệu quá khứ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu thập số liệu, nếu có
thu thập đợc thì chỉ trong thời gian ngắn, số liệu thiếu tin cậy Do vậy, khi lập và thẩm định
DA có trờng hợp phải sử dụng các thông tin của DA tơng tự đã thực hiện có hiệu quả để điều
chỉnh cho phù hợp với DA cần lập. Nh vậy, việc xác định các số liệu là không chính xác sẽ ảnh
hởng rất lớn đến việc thực hiện sau này, bởi lẽ mỗi DA có những điều kiện khác nhau, đợc
triển khai, thực hiện ở những thời điểm khác nhau, các yếu tố tác động cũng khác nhau
c. Cha xác định đầy đủ nhu cầu vốn v nguồn vốn để thực hiện dự án
Việc xác định chính xác lợng vốn đầu t là hết sức cần thiết, nó ảnh hởng ngay từ khi
đánh giá và khi triển khai bớc ban đầu của DA. Thực tế, có một số DA, nhất là các DA sản xuất
vật liệu hay DA BOT xây dựng công trình giao thông do các DN thực hiện, thời gian thực hiện
DA tơng đối dài, hơn nữa từ khi lập đến khi triển khai, giá cả thị trờng đã thay đổi, thờng theo
chiều tăng lên, ảnh hởng rất lớn đến việc thực hiện. Chẳng hạn nh dự án BOT cầu Rạch
Miễu, tổng mức đầu t ban đầu lập là 594 tỷ đồng, do giá cả vật liệu tăng, tiền lơng tối thiểu


tăng, tổng mức đầu t đã tăng lên 988 tỷ đồng [báo GTVT 30/8/06].
Về nguồn vốn, thông thờng ngay khi lập DA, đã xác định nguồn vốn để thực hiện DA. Tuy
nhiên, thực tế công việc lựa chọn nguồn vốn khi lập DA, mới chỉ dừng ở việc dự tính và do ý chủ
quan của DN mà cụ thể hơn là của ngời lập DA, mà cha có sự đàm phán, ký kết cụ thể về số
lợng vốn về thời gian cung cấpvới các nhà cung cấp vốn, họ cho rằng đây mới là giai đoạn
lập DA chứ đã thực hiện đâu, cho nên cha thấy rõ đợc tầm quan trọng của nó. Dẫn tới, có tình

trạng một số DA đang thực hiện phải dừng lại vì thiếu vốn hoặc vừa mới vận hành đợc ít ngày
thì đã phải dừng vì thiếu vốn lu động. Một số DA, trên thực tế đã không hiệu quả khi không xác
định rõ nguồn vốn nên khi triển khai đã sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để đầu t mua sắm TSCĐ
hoặc DA đang thực hiện thì bị ngừng do việc cung cấp vốn không kịp thời, gây nên ứ đọng phần
vốn đã đầu t thể hiện ở khối lợng dở dang. Đó là cha kể đến thiệt hại do đòi hỏi bức xúc về
vốn DN dễ lâm vào tình trạng tìm đợc vốn nhng chi phí phải trả sẽ rất cao.
d. Còn hiện tợng phiến diện trong phân tích ti chính
Trên thực tế, hầu hết các DA chỉ phân tích tài chính theo quan điểm của DN, mà bỏ qua
phân tích tài chính theo quan điểm tổng mức đầu t và quan điểm ngân sách Nhà nớc. Điều
này dẫn tới có DA tuy đem lại lợi nhuận cho DN, nhng lại làm tổn thất về tài chính cho xã hội
và thất thu cho ngân sách.
e. Lựa chọn quy mô v thời điểm thực hiện dự án cha thích hợp
Mỗi sự thay đổi về quy mô của DA đồng nghĩa với việc thay đổi các chi phí cho DA cũng
nh lợi ích mà DA đem lại. Có hai nguyên tắc đơn giản và quan trọng để lựa chọn quy mô DA là:
xem xét mỗi thay đổi về quy mô DA nh là một DA độc lập và lựa chọn quy mô nào cho NPV
lớn nhất.
CT 2
Với những DA quy mô lớn có tính chất đặc thù mà không thể chia nhỏ hay phân đoạn đầu
t, thì việc lựa chọn thời điểm bắt đầu thực hiện DA là hết sức quan trọng, góp phần quyết định
sự thành bại của DA.
f. Cha lờng trớc hết các vấn đề hậu thẩm định dự án
Nhiều khi các DN khi phải đối mặt với DA bất khả thi, khi thực hiện quá trình thẩm định
hoặc DA đang triển khai thì phát sinh những vấn đề làm cho DA không còn khả thi nữa. Trong
trờng hợp này, DN phải chấp nhận lựa chọn một trong hai hớng gải quyết.


Thực trạng thẩm định dự án






Thứ nhất, chấp nhận từ bỏ những chi phí quá khứ, chấm dứt DA để bảo toàn các nguồn lực
lớn hơn còn lại.
Việc l

p m

t
số DA còn
Cha xác
định đầy
đủ và rõ
vốn và
nguồn tài
trợ
Thu th

p cha
đầy đủ các
thông tin, dữ
liệu cần thiết
cho việc lập
DA
Còn hiện
t
Cha lờng
trớc hết
các vấn đề
hậu thẩm

định DA
Lựa chọn
quy mô và
thời điểm
th

n
g
phiến
diện trong
phân tích tài
chính
trong tình

n
g

g
tr
iải bài
toán ngợc

c hiện DA
cha thích
hợp


Thứ hai, bằng mọi cách tìm kiếm bổ sung những yếu tố thuận lợi, giảm bất lợi để tăng thêm
tính khả thi một cách giả tạo và tiếp tục thực hiện DA, thậm chí có thể gia tăng đầu t thêm
nguồn lực cho DA. Đây chính là hình ảnh của việc giải bài toán ngợc. Kịch bản này dễ đợc

những ngời có thiên hớng bảo thủ, thích mạo hiểm lựa chọn, mặc dù không có đảm bảo sẽ
cứu vãn đợc DA.
IV. vấn đề sử dụng các chỉ tiêu để đánh giá, lựa chọn Dự án
Qua khảo sát ở một số DNXDGT cho thấy, để đánh giá, lựa chọn DA đầu t phải dựa vào
một số chỉ tiêu cơ bản, tùy theo mục tiêu đầu t và tính cấp thiết của DA, tuy nhiên, trong thực tế
một số trờng hợp khi đánh giá, DN đã tính các chỉ tiêu hoặc đã tính nhng cha đủ, mà chỉ dựa
vào việc xác định các khoản thu và chi của DA làm cơ sở cho việc quyết định đầu t. Nh vậy,
quyết định sẽ không đạt đợc hiệu quả chắc chắn. Hoặc có DA đã tính đến các chỉ tiêu, nhng
còn một số tồn tại:
Thứ nhất, là việc lựa chọn chỉ tiêu để đánh giá, lựa chọn: thông thờng các DN chỉ chọn chỉ
tiêu thời gian hoàn vốn, bởi lẽ nhìn vào chỉ tiêu này dễ thuyết phục các nhà tài trợ vốn hơn, nhất
là ngân hàng. Thực tế, hiện có hai cách tính chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn (PP). Cách tính dựa
trên căn bản lãi ròng + khấu hao và cách tính dựa vào ngân lu ròng (tức dòng tiền). Thực tế,
việc chiếm dụng vốn giữa các DN, thể hiện qua việc mua chịu các yếu tố đầu vào và bán chịu
các sản phẩm đầu ra là hết sức phổ biến (đặc biệt là các DNXDGT). Trong điều kiện đó, hai
cách tính PP không phải bao giờ cũng cho một kết quả.
Thứ hai, là việc lựa chọn suất chiết khấu để tính các chỉ tiêu khi so sánh, lựa chọn DA, chủ
yếu dựa vào lãi suất vay vốn, mà cha xét đến yếu tố lạm phát, rủi ro trong kinh doanh tơng
lai.
CT 2
V. Kết luận
Lập, thẩm định dự án là việc phức tạp và có nhiều vấn đề cần giải quyết đồng bộ. Với
những tồn tại trên, tác giả hy vọng góp phần nhỏ giúp các doanh nghiệp trong việc lập, thẩm
định dự án đầu t để lựa chọn đợc dự án đầu t có hiệu nhất.



Tài liệu tham khảo
[1]. TS. Bùi Hữu Phớc. Tài chính doanh nghịêp - NXB Thống kê 2004.
[2]. PGS. TS. Vũ Công Ty, Vũ Văn Ninh. Ba cong đờng, một đích đến xác định giá trị hiện tại ròng khi

thẩm định DA đầu t trong trờng hợp sử dụng nợ vay Tạp chí Tài chính Tháng 4/2005.
[3]. Ths. Trần Văn Phùng. Một số sai lầm thờng gặp trong phân tích tài chính DA đầu t Tạp chí tài
chính Tháng 4/2005.
[4]. S.A. Ross, R.W. Westerfield, B.D. Jordan. Essential of corporate finance/ - Irwin/ McGraw -
Hill,c1996Ă

×