Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Giáo trình tổng hợp sự phát triển của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa phần 5 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.39 KB, 9 trang )

37

bình quân của thế giới hiện là 55.324 USD và kếm các nớc
trong khu vực châu á . Mức đầu t thấp nhng lại phân tán
và không ít trờng hợp sử dụng lãng phí. Tuy Đảng và Nhà
nớc đã có nhiều chủ trơng, nghị quyết sáng suốt, nhấn
mạnh vai trò của khoa học công nghệ và coi trọng nó không
kém gì các quốc gia khác trên thế giới, nhng mức đầu t
cho khoa học vẫn rất thấp. Có 2 khả năng lý giải tình hình
trên. Thứ nhất, nếu huy động gấp đôi vốn cho nghiên cứu
khoa học và công nghệ thì việc nghiên cứu khoa học có
mang lại hiệu quả thiết thực hay không trong khi trình độ
quản lý khoa học hiện tại còn yếu kém. Thứ hai, ngân sách
nhà nớc trong nhiều năm thâm hụt, phải bảo đảm chi cho
nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu t kinh phí cho
khoa học nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của ngời
lãnh đạo và các cơ quan quản lý của Nhà nớc. Rốt cục quy
định trong các văn bản và chỉ thị của Đảng dành 2% ngân
sách hằng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ vẫn
không thực hiện đợc.
Với mức đầu t nh vậy nên chỗ làm việc chật chội,
thiết bị lạc hậu, phòng thí nghiệm và cụng cụ thí nghiệm
thiếu cơ quan khoa học và công nghệ chỉ có thể hoạt động
cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trớc mắt mà không
38

thể tạo ra đợc thành quả khoa học có tầm chiến lợc. Nếu
không có các chính sách điều chỉnh, các cơ quan nghiên cứu
khoa học chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ
cán bộ nghiên cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những công
việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết.


b.Lực lợng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu
Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ
chủ yếu thuộc trung ơng cho thấy : trong số 22.313 cán bộ
công nhân viên thì số ngời có trình độ trên đại học là 2.509
ngời, cao đẳng và đại học 11.447 ngời và dới cao đẳng là
8.357
Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ
chỉ có 15,1% là nữ, cũng trong số các cán bộ có trình độ học
vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các chức vụ lãnh đạo.
So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành còn thiếu
lực lợng lao động có trình độ khoa học- kỹ thuật. Trớc
tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn đầu t nớc ngoài,
công ty t nhân đã thu hút số lợng đáng kể lao động có
trình độ chuyên môn cao từ các cơ quan khoa học công nghệ
39

của nhà nớc. ở tất cả các đối tợng lao động, số trờng hợp
ra đi nhiều hơn số trờng hợp đến, đặc biệt với số cán bộ
khoa học có học vị cao, số ra đi vợt hẳn số đến.
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học
hàm khá cao. Bình quân chung là 57,2 tuổi trong đó giáo s
là 59,5 tuổi và phó giáp s là 56,4 tuổi. Số cán bộ cán học vị,
học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 56
trở lên là 65,7%, riêng giáo s chiếm tới 77,4% và phó giáo
s chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa tuổi các cán bộ khoa
học công nghệ có học hàm thì phần đông giáo s có tuổi trên
60 và phó giáo s có tuổi từ 56 đến 60. Khi một bộ phận lớn
các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không có
khả năng làm việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại cha
đợc chuẩn bị bồi dỡng đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ

khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tơng lai rất
gần.
c.Sự phân bố lực lợng lao động khoa học không hợp lý
Có thể nói sự phân bố lực lợng lao động mất cân đối
giữa các ngành, các khu vực giữa các vùng, giữa các thành
phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho quá trình phát triển,
40

càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các
vùng, các ngành.
Một điều mà nhiều ngời nhìn thấy rất rõ là trong
nhiều năm, đặc biệt sau khi chuyển sang kinh tế thị trờng
thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và dờng nh
đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả
của nó sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm
trọng. Khoa học công nghệ là một hệ thống, cũng nh một
nền kinh tế nếu không có hạ tầng cơ sở tốt thì không thể phát
triển đợc. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những ngành
ứng dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ
đa khoa học đến chỗ bế tắc và không có đủ năng lực tiếp
thu làm chủ các lĩnh vực khoa học công nghệ mới.
d. Những bất cập giữa KH- CN và hoạt động kinh tế ở
VN
Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học
công nghệ và hoạt động kinh tế là cơ sở quan trọng bảo đảm
cho sự phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, ở VN hiện
nay giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế
lại bộc lộ những bất cập rõ rệt
41


1. Mặc dù tồn tại số lợng đáng kể các cơ quan nghiên
cứu khoa học công nghệ và dới nhiều dạng thực phong phú,
nhng các viện nghiên cứu, các trờng đại học thờng mạng
nặng tính hàn lâm và ít gắn bó hữu ích với các tổ chức kinh
tế. Ngoài mối quan hệ lỏng lẻo giữa cơ quan nghiên cứu và
các đơn vị kinh tế còn một khía cạnh nữa là bản thân hệ
thống cơ quan nghiên cứu vẫn thiếu phơng pháp luận tiếp
cận có hiệu quả tới hệ thống kinh tế. ở đây đòi hỏi sự hợp
tác, trao đổi qua lại nhiều vòng giữa các nhà khoa học và đại
diện của các khu vực sản xuất. Các hãng luôn đợc coi nh
nhân vật trung tâm của đổi mới khoa học công nghệ Đáng
tiếc phơng pháp này còn xa lạ đối với VN.
Thiếu những định hớng rõ ràng, cụ thể đã làm cho
các chơng trình nghiên cứu khoa học công nghệ trở nên kéo
hiệu quả
2. Cơ cấu của đội ngũ hoạt động khoa học công nghệ
hiện mất cân đối đáng kể so với cơ cấu nền kinh tế. Trong
các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, việc khắc phục khoảng
trống bằng cách chuyển các nhà nghiên cứu khoa học cơ bản
sang cũng cha đáp ứng đợc yêu cầu đòi hỏi tối thiểu.
42

Mặt khác, sự phân bố của lực lợng khoa học công
nghệ không sát với địa bản hoạt động kinh tế. Trên thực tế,
có nhiều vùng kinh tế còn nh vùng trắng của hoạt động
khoa học công nghệ
3.Thực tế đổi mới vừa qua đã xuất hiện một nghịch lý
và mở của mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế thì nó lại
làm cho vị thế của các nhà khoa học trong nớc giảm xuống
tơng đối. Một bộ phận không nhỏ đội ngũ các nhà khoa học

công nghệ buộc phải làm thêm nghề khác hoặc đổi hẳn
nghề.
Sự lão hoá của đội ngũ khoa học cũng lý giải một
phần cho hiện tợng này. Tuổi trung bình của cán bộ khoa
học công nghệ làm việc ở các viện nghiên cứu là 45- 46 tuổi,
tuổi trung bình của cán bộ nghiên cứu có trình độ cao vào
khoảng 55 và 60 có thể do nhiều lý do, trong đó một lý do
quan trọng là : coi giai đoạn hiện nay nh là quá độ chuyển
đổi từ mô hình nghiên cứu khoa học công nghệ kiểu cũ sang
mô hình nghiên cứu kiểu mới. Đối với lớp trẻ, hình mẫu các
nhà nghiên cứu thế hệ trớc không còn mấy hấp dẫn, họ
đang tìm kiếm những con đờng khác, những phơng thức
hoạt động khoa học khác
43

4. Chúng ta từng hy vọng có thể thông qua hoạt động
đầu t nớc ngoài vào VN để nhận đợc những công nghệ
cần thiết tiến hành CNH, HĐH. Tuy nhiên thực tế diễn ra
không nh mong muốn. Trớc hết, luồng đầu t nớc ngoài
đang có xu hớng chững lại sẽ hạn chế khuôn khổ chuyển
giao công nghệ. Thứ hai, cơ cấu đầu t với 18,7% vào khách
sạn dụ lịch là một nhân tố góp phần hạn chế quy mô
chuyển giao công nghệ tiên tiến. Thứ ba, ngay trong bản
thân lĩnh vực công nghiệp, các chủ đầu t nớc ngoài dờng
nh chẳng hề sốt sắng du nhập các công nghệ tiên tiến vào
VN, thay vào đó, họ chú ý nhiều đến các công nghệ thế hệ
cũ cho phép thu lại lợi nhuận tức thì từ lao động rẻ, môi
trờng đầu t dễ dãi và miền đất đầu t mới mẻ.
3. Nguyên nhân của những thực trạng ấy
Do tỷ lệ cán bộ KH- CN trong các doanh nghiệp còn

thấp ; cấu trúc và phân bố đội ngũ cha hợp lý ; số cán bộ
đợc đào tạo về các ngành KH và KT chỉ chiếm 15,4% trong
tổng số đội ngũ cán bộ KH- CN ; sự phân bố cán bộ KH- CN
theo vùng lãnh thổ còn mất cân đối lớn. Đội ngũ cán bộ KH
đông nhng cha mạnh
44

Chất lợng đào tạo cán bộ KH- CN thấp. Về trình độ,
cha cập nhật CN và tri thức hiện đại của thế giới, bị hổng
nhiều về CN cao, quản tri kinh doanh, tiếp thị, ngoại ngữ
Đội ngũ cán bộ KH- CN nớc ta có tiềm năng trí tuệ đáng
kể, tiếp thu nhanh tri thức mới, nhng còn thiếu tính liên kết
cộng đồng, khó hợp tác giữa cơ quan và cá nhân, thiếu cán
bộ đầu đàn có khả năng tổ chức và thực hiện những chơng
trình nghiên cứu mang tính đột phá cao. Lực lợng chuyên
gia giỏi ở các ngành hiện nay rất mỏng, phần lớn chỉ nắm lý
thuyết, thiếu thực hành. Trớc sức hấp dẫn của các doanh
nghiệp và các cơ sở liên doanh với nớc ngoài, đa số hệ
thống cơ quan nghiên cứu- triển khai không giữ đợc đội
ngũ cán bộ trẻ, có năng lực. Nhiều cán bộ KH- CN có kinh
nghiệm và trình độ, bỏ chuyên môn làm dịch vụ. Chính sách
đối với cán bộ KH- CN chậm đổi mới, nên không khuyến
khích đội ngũ cán bộ làm KH phát huy hết khả năng của
mình trong nghiên cứu. Việc tổ chức sắp xếp lại các cơ quan
KH- CN triển khai chậm.
Có sự mất cân đối lớn trong phân bố theo vùng lãnh
thổ mạng lới các cơ quan nghiên cứu- triển khai. Nhiều cơ
quan nghiên cứu có chức năng trùng lắp, không đồng bộ.
Việc sắp xếp và đầu t cho các cơ quan này không theo các
45


hớng u tiên trọng điểm. Cơ sở vật chất của cơ quan nghiên
cứu- triển khai các trờng đại học, nghèo nàn, lạc hậu : phần
lớn đợc xây dựng và trang bị đã trên 30 năm trình độ thiếu
bị thua kém ngay cả các cơ sở doanh nghiệp trong nớc.
Đầu t tài chính cho KH- CN từ ngân sách, nhà nớc
ở nớc ta, hiện còn thấp. Do vậy, nền khoa học của ta chỉ
giải quyết những vấn đề trớc mắt, cha tạo đợc kết quả
KH lớn, tầm cỡ chiến lợc. Việc sử dụng tài chính cho KH-
CN hiện nay với một cơ chế thờng thúc ép chúng ta rơi vào
thế phả chi, chia bị động,. Số chơng trình và đề tà cấp nhà
nớc, cấp bộ còn nhiều và dàn trải so với khả năng kinh phí
hiện có. Nguồn ngoại tệ viện trợ không điều chỉnh đợc
trong phạm vi quản lý nguồn vốn KH- CN, nên hiệu quả còn
thấp. Việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà
nớc cho hoạt động nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, cha
có cơ chế và chính sách đồng bộ để khuyến khích các doanh
nghiệp, các tổ chức t nhân tự nguyện đầu t. Nhiều cơ quan
nghiên cứu- triển khai, hoạt đông KH- CN còn dựa chủ yếu
vào ngân sách Nhà nớc. Thực tế trên đã dẫn đến một nghịch
lý: vốn cho KH-CN gần nh duy nhất từ nhà nớc lại bị phân
chia dàn trải.Trong khi đó, một số lĩnh vực cần đầu t thích
đáng :giáo dục y tế bảo vệ môi trờng hoặc những hớng

×