Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

tìm hiểu kỹ thuật ương giống cá chim vây vàng (trachinotus blochiilacepede, 1801) giai đoạn từ 0 đến 60 ngày tuổi tại lương sơn, nha trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.75 MB, 63 trang )

i

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực hiện đề tài tốt nghiệp chuyên ngành Nuôi trồng Thủy
sản, tôi đã được tiếp xúc và vận dụng lý thuyết vào thực tiễn sản xuất giống cá nhân
tạo. Tôi đã được trực tiếp thực hiện các thao tác kỹ thuật, nắm vững các qui trình
trong việc sản xuất giống không chỉ ở cá chim vây vàng mà ngay cả các loài cá
chẽm, cá hồng bạc…
Ở các đợt thực tập chuyên ngành trước, tôi chỉ biết qua sách và làm qua loa
các thao tác, các qui trình nuôi do số lượng sinh viên quá đông. Nhưng qua đợt thực
tập này, tôi đã một mình tự tay nuôi ra những chú cá khỏe mạnh và đáng yêu với sự
cố vấn của những người có kinh nghiệm. Tôi thực sự cảm thấy hứng thú và càng
thêm yêu nghề hơn.
Để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp
đỡ của quý thầy cô, các anh và các bạn ở trại sản xuất giống. Trước tiên, tôi xin
chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nha Trang, Ban Chủ nhiệm
Khoa Nuôi trồng Thủy sản đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học và thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ tận tình của thầy cô trong
khoa Nuôi trồng Thủy sản, đặc biệt là TS. Nguyễn Địch Thanh, Th.S Vũ Trọng Đại
và KS. Nguyễn Đức Thịnh đã định hướng và giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình
thực hiện đề tài.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi trong
thời gian thực tập cũng như trong suốt khóa học vừa qua.
Nha Trang, tháng 6 năm 2012
Sinh viên thực tập


Trần Văn Tú
ii



MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN i
DANH MỤC VIẾT TẮT v
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC HÌNH vii
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển trên thế giới và Việt Nam 3
1.1.1. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển trên thế giới 3
1.1.2. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển ở Việt Nam 6
1.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cá Chim vây vàng trên thế giới và
Việt Nam 7
1.2.1. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cá Chim vây vàng trên thế
giới 7
1.2.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cá Chim vây vàng ở Việt Nam 8
1.3. Một số đặc điểm sinh học của cá chim vây vàng 10
1.3.1. Hệ thống phân loại 10
1.3.2. Đặc điểm hình thái 10
1.3.3. Đặc điểm phân bố. 11
1.3.4. Đặc điểm dinh dưỡng 12
1.3.5. Đặc điểm sinh trưởng 12
1.3.6. Đặc điểm sinh sản 13
1.3.7. Quá trình phát triển của ấu trùng cá chim vây vàng 13
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 14
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu. 14
2.2. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 14
2.3. Phương pháp nghiên cứu 15
2.3.1. Hệ thống công trình và công tác chuẩn bị bể 15

iii

2.3.2. Thức ăn và kỹ thuật cho ăn 15
2.3.3. Kỹ thuật chuẩn bị thức ăn tươi sống 16
2.3.3.1. Nuôi tảo 16
2.3.3.2. Nuôi luân trùng 16
2.3.3.3. Ấp nở artemia 16
2.3.3.4. Thức ăn công nghiệp 16
2.3.4. Phương pháp xác định các yếu tố môi trường và các công thức tính toán. 17
2.3.5. Phương pháp xử lí số liệu. 18
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 19
3.1. Tìm hiểu hệ thống công trình và kỹ thuật chuẩn bị sản xuất 19
3.1.1. Hệ thống công trình ương 19
3.1.3. Kỹ thuật chuẩn bị bể ương 21
3.2. Kỹ thuật chuẩn bị thức ăn tươi sống 22
3.2.1. Kỹ thuật nuôi tảo. 22
3.2.2. Kỹ thuật nuôi luân trùng 24
3.2.3. Kỹ thuật ấp artemia 27
3.3. Kỹ thuật chăm sóc và quản lý bể ương 28
3.3.1. Thả giống và mật độ thả giống 28
3.3.2. Thức ăn và kỹ thuật cho ăn 29
3.3.2.1. Kỹ thuật cấp tảo cho bể ương 30
3.3.2.2. Kỹ thuật cấp luân trùng cho bể ương 31
3.3.2.3. Kỹ thuật cấp Artemia vào bể ương 32
3.3.2.4. Kỹ thuật làm giàu artemia và luân trùng 33
3.3.2.5. Thức ăn tổng hợp 34
3.3.3. Chế độ thay nước và siphon 35
3.3.3.1. Chế độ thay nước 35
3.3.3.2. Siphon 35
3.3.4. Theo dõi các yếu tố môi trường của bể nuôi 36

3.3.5. Phân cỡ và san thưa mật độ 37
iv

3.3.6. Theo dõi tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá ương 39
3.3.6.1. Tốc độ tăng trưởng 39
3.3.6.2. Tỉ lệ sống 41
3.3.7. Kĩ thuật phòng và trị bệnh 42
3.3.8. Thu hoạch và vận chuyển 43
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
PHỤ LỤC


v

DANH MỤC VIẾT TẮT

cm : Centimet
g : Gram
h : Giờ
kg : Kilôgram
l : Lít
mL : Mililít
mm : Milimét
m
2
: Mét vuông
m
3
: Mét khối

ppm : Phần triệu
ppt : Phần nghìn
% : Phần trăm
ct : Cá thể

vi

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Đơn vị, dụng cụ, độ chính xác của dụng cụ đo các yếu tố môi trường. 17
Bảng 3.1: Các chỉ tiêu môi trường trong khoảng thích hợp 22
Bảng 3.2: Thời gian và hàm lượng thức ăn cho luân trùng. 25
Bảng 3.3: Thành phần dinh dưỡng của artemia 27
Bảng 3.4: Thành phần lipit trong artemia 27
Bảng 3.5: Số lượng và mật độ ương ấu trùng 29
Bảng 3.6: Khẩu phần thức ăn cho ấu trùng cá chim vây vàng 30
Bảng 3.7: Một số chỉ tiêu chất lượng thức ăn NRD 34
Bảng 3.8: Biến động của các yếu tố môi trường trong quá trình ương 37
Bảng 3.9: Tăng trưởng về chiều dài của cá trong hai đợt ương 39
Bảng 3.10: Tỉ lệ sống của cá chim vây vàng. 41

vii

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Cá chim vây vàng (Trachinotus blochii) 10
Hình 1.2: Phân bố của cá chim vây vàng trên thế giới 11
Hình 2.1: Sơ đồ nội dung nghiên cứu 14
Hình 2.2: Sơ đồ cung cấp thức ăn cho cá 15
Hình 3.1: Hệ thống bể ương 20

Hình 3.2: Bể lọc cơ học và bể xử lý nước 20
Hình 3.3: Máy thổi khí và hệ thống điện 21
Hình 3.4: Nuôi sinh khối tảo 24
Hình 3.5: Luân trùng B. plicatilis sử dụng làm thức ăn cho ấu trùng cá chim 24
Hình 3.6: Quy trình nuôi luân trùng trong bể xi măng 26
Hình 3.7: Thu luân trùng 26
Hình 3.8: Artemia bung dù (A), nau-artemia (B) và artemia trưởng thành (C) 27
Hình 3.9: Ấp artemia trong xô. 28
Hình 3.10: Men bánh mì và selco plus làm giàu luân trùng 31
Hình 3.11: Làm giàu luân trùng. 32
Hình 3.12: Quy trình làm giàu luân trùng và artemia. 33
Hình 3.13: Thức ăn công nghiệp NRD 34
Hình 3.14: Quá trình thay nước và siphon 36
Hình 3.15: Quá trình thay nước kết hợp với siphon. 36
Hình 3.16: Phân cỡ cá. 38
Hình 3.17: Đồ thị biểu diễn tỉ lệ phân đàn hai đợt ương 38
Hình 3.18: Chiều dài trung bình của cá trong hai đợt ương 40
Hình 3.19: Đồ thị biểu diễn tỉ lệ sống của cá trong hai đợt ương 41
Hình 3.20: Trimeseptol phòng nấm đỏ. 43
1
LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, với nhiều eo, vũng vịnh kín gió, nhiều
đầm phá rộng lớn tạo điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển Nuôi trồng
Thủy sản, đặc biệt là nuôi biển, trong đó nuôi cá biển ngày càng được chú trọng.
Tuy nhiên, hiện trạng nghề nuôi cá biển ở Việt Nam hiện nay vẫn còn manh mún và
lạc hậu, tốc độ phát triển chậm hơn nhiều so với các nước khác. Nguyên nhân là do
không tự làm ra con giống có chất lượng, đủ cung cấp cho nhu cầu trong nước,
nguồn giống chủ yếu được thu từ tự nhiên và nhập ngoại với số lượng và chất lượng
không ổn định. Mặt khác, quá trình nuôi và sản xuất giống cá biển theo mô hình nhỏ

lẻ, tự phát mà không theo quy hoạch khiến nguồn nước ô nhiễm và lây lan dịch bệnh.
Hiện nay, một số loài cá có giá trị kinh tế đã và đang được nuôi ở Việt Nam
như: cá mú (Epinephelus spp), cá giò (Rachycentron canadum), cá chẽm (Lates
sp.), cá cam (Seriola spp), cá hồng (Lutijanus erythropterus) và cá chim vây vàng
(Trachinotus blochii).
Cá chim vây vàng (Trachinotus blochii Lacepede, 1801) là loài cá có phân
bố tương đối rộng ở vùng biển nhiệt đới như Tây Thái Bình Dương, Nhật Bản, Đài
Loan, Indonesia, miền Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam, cá phân bố chủ yếu ở vịnh
Bắc Bộ, miền Trung và Nam Bộ. Sau từ 6-12 tháng nuôi, cá đạt kích cỡ thương
phẩm từ 0,6 -1 kg/con, giá bán ngay tại lồng hoặc ao đầm là từ 130.000-150.000
VNĐ/kg, thị trường xuất khẩu chính là Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng
Kông, Mỹ, Singapore.
Mặc dù là đối tượng mới nhưng với chủ trương đa dạng hóa đối tượng nuôi
nên cá chim vây vàng đã được nuôi ở Việt Nam trong những năm vừa qua. Tuy
nhiên, hiện nay nguồn giống cá chim vây vàng ở nước ta phần lớn đều phải nhập từ
Trung Quốc và Đài Loan nên giá thành cao, nguồn cung không ổn định mà sức
khỏe cá giống không được tốt và tỉ lệ sống thấp do thời gian vận chuyển lâu. Trong
khi đó, nguồn giống cá Chim vây vàng được sản xuất trong nước chưa ổn định, tỷ lệ
sống thấp, vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện qui trình sản xuất giống để
2
nâng cao tỷ lệ ra giống, đảm bảo nguồn giống ổn định có chất lượng, đáp ứng được
nhu cầu của người nuôi.
Xuất phát từ thực tế trên, được sự cho phép của Khoa Nuôi trồng Thủy sản,
Trường Đại học Nha Trang, tôi thực hiện đề tài “Tìm hiểu kỹ thuật ương giống cá
chim vây vàng (Trachinotus blochii Lacepede, 1801) giai đoạn từ 0 đến 60 ngày
tuổi tại Lương Sơn - Nha Trang” với các nội dung sau:
1. Tìm hiểu hệ thống bể ương và vệ sinh bể.
2. Thả giống và mật độ ương.
3. Các biện pháp kỹ thuật quản lý và chăn sóc.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chắc chắn không tránh được thiếu sót, rất

mong nhận được sự góp ý của Thầy, Cô và các bạn để báo cáo được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nha Trang, tháng 6 năm 2012
Sinh viên thực hiện



Trần Văn Tú
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển trên thế giới
Nghề nuôi biển trên thế giới bắt đầu phát triển từ những năm 70 của thế kỉ
trước với những đối tượng nuôi chủ yếu là: cá hồi, cá cam, cá mú, cá chẽm, cá
măng… Năm 2004, tổng sản lượng nuôi cá biển là 4,299 triệu tấn vì đã chủ động
được con giống nhân tạo (FAO, 2007). Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số đối
tượng cá biển có giá trị kinh tế khác chưa sản xuất được giống nhân tạo thành công
và nguồn giống còn dựa chủ yếu vào khai thác từ tự nhiên. Vì vậy, việc chủ động
sản xuất giống nhân tạo cá biển là một yêu cầu bức thiết của tất cả các nước nhằm
phát triển nền công nghiệp nuôi cá biển, góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay, nghề nuôi cá biển trên thế chia thành 4 khu vực phát triển chính
gồm: Tây Bắc Âu, Địa Trung Hải, Bắc Mỹ và Châu Á [7].
● Khu vực Tây Bắc Âu.
Đây là khu vực đứng đầu thế giới về nuôi cá biển cho mục tiêu xuất khẩu cả
về sản lượng, trình độ khoa học công nghệ, hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường.
Đặc điểm nổi bật của nghề nuôi cá biển ở khu vực này là chọn đối tượng có nhu cầu
cao không chỉ ở châu Âu mà còn trên phạm vi thế giới, đó là các loài cá như: cá hồi
đại tây dương (Salmo salar), cá tráp vàng (Sparus aurata), cá chẽm (Lates sp.)…
Năm 1981, sản lượng cá hồi ở Na Uy chỉ đạt 8.000 tấn. Nhưng đến năm

1998, sản lượng cá hồi đại tây dương đã đạt tới 340.000 tấn (Hjelt, 2000). Sự thành
công của nền công nghiệp nuôi cá hồi ở Na Uy đã góp phần thúc đẩy nghề nuôi cá
biển trên thế giới ngày một lớn mạnh hơn.
Theo thống kê của FAO, giai đoạn từ năm 1988 - 1997 sản lượng cá nước
mặn và lợ trên toàn thế giới tăng trên 10% hàng năm. Năm 1997, sản lượng cá biển
nuôi trong khu vực này đạt 2 triệu tấn, trị giá 8 tỷ USD, trong đó sản lượng cá hồi
đại dương chiếm ưu thế với 640.000 tấn tương ứng 2,56 tỷ USD (Hambrey, 2000).

4
● Khu vực Địa Trung Hải
Cá Vược châu Âu (Dicentrachus labrax) và cá Tráp vàng (Sparus aurata) là
hai đối tượng chính được nuôi trong khu vực này với 97% sản lượng, bên cạnh đó
cá Hồi, cá Tầm, cá Ngừ vây xanh, cá Chình và cá rô phi cũng được nuôi ở một số
quốc gia khác nhưng chỉ chiếm sản lượng nhỏ (3%). Đến cuối thế kỷ XX, sản lượng
cá vược nuôi ở đây đạt 100 nghìn tấn do chủ động về con giống nhân tạo, quy mô
nuôi lớn và sử dụng thức ăn công nghiệp có chất lượng cao.
Dẫn đầu về nuôi cá biển ở khu vực này là Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Italia, Tây
Ban Nha. Các quốc gia Hồi giáo như: Ai Cập, Tuynidi, Ma Rốc, Xiri…mãi tới năm
1994 - 1995 mới bắt đầu tiến hành nuôi cá biển, nhưng chỉ sau 2 năm đã đạt sản
lượng vài nghìn tấn cá vược/mỗi năm.
● Khu vực Nam Mỹ
Nghề nuôi trồng thủy sản tại Nam Mỹ nổi tiếng từ lâu với các quốc gia khai
thác hải sản hàng đầu thế giới như: Pêru, Chilê, Argentina… Trong những năm gần
đây, nghề nuôi thủy sản phát triển rất nhanh với các nước mới như Ecuado – nước
đứng thứ 2 thế giới về nuôi tôm xuất khẩu. Đặc biệt là Chilê, chỉ sau một thời gian
ngắn đã trở thành quốc gia nuôi cá biển xuất khẩu hàng đầu Tây Bán Cầu và đứng
thứ 2 thế giới.
Vì mục tiêu là xuất khẩu nên các sản phẩm cá hồi nuôi của Chilê khá đa dạng
và đạt tiêu chuẩn chất lượng cao. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Chilê là cá Hồi
ướp đông nguyên con, chiếm 70 % khối lượng, cá hồi tươi chỉ chiếm 25 %, 5 % là

cá hồi đóng hộp. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Nhật Bản (60 %), tiếp theo là Mỹ
(30 %), còn lại là các thị trường Châu Á. Xuất khẩu cá hồi nuôi của Chilê nhanh
chóng trở thành lĩnh vực thu ngoại tệ lớn. Năm 1997, giá trị xuất khẩu cá hồi đạt
700 triệu USD, vượt xa giá trị xuất khẩu bột cá. Sản lượng cá biển của Chile đến
năm 2002 là 545,655 tấn và năm 2004 đạt 637,993 tấn đạt tốc độ tăng trưởng hàng
năm là 11,2 %.
5
● Khu vực châu Á
Nghề nuôi cá biển khu vực này trong những năm gần đây đã có những bước
phát triển nhanh chóng. Tổng sản lượng nuôi cá biển của toàn khu vực tăng 11% từ
năm 2004 (1,031,800 tấn) đến năm 2005 (1,143,719 tấn) tương ứng với tăng 9% về
giá trị (3.815 tỷ USD trong năm 2004 và 4.141 tỷ USD trong năm 2005).
Quốc gia có sản lượng nuôi cá biển cao nhất hiện nay là Trung Quốc với sản
lượng nuôi năm 2005 là 659,000 tấn và giá trị sản lượng ước tính khoảng 662 triệu
USD. Đứng thứ 2 là Nhật Bản với 256,000 tấn nhưng lại đứng đầu về giá trị với
hơn 2 tỷ USD vì đối tượng nuôi chủ yếu là các loài cá có giá trị kinh tế cao.
Cá Măng (Chanos chanos) hiện là đối tượng chủ yếu trong nghề nuôi cá biển
của Indonesia và Philippines. Sản lượng nuôi cá Măng tăng từ 514,666 tấn năm
2004 lên 542,842 tấn năm 2005. Tuy nhiên, giá trị tổng sản lượng trong năm 2005
lại giảm xuống chỉ còn 552 triệu USD so với 627 triệu USD so với năm 2004 do giá
bán giảm xuống từ 1.2 USD/kg xuống còn 1.0 USD/kg. Sản lượng nuôi cá Chẽm
năm 2005 tương đối ổn định ở mức 26,584 tấn, chỉ tăng nhẹ so với 25,399 tấn vào
năm 2004.
Nghề nuôi cá chẽm (Lates calcarifer) bắt đầu hình thành từ đầu những năm
1970 tại Thái Lan nhờ thành công trong sản xuất giống nhân tạo loài cá này, sau đó
được nhân rộng sang các nước như: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia,
Philippine, Singapore, Đài Loan, Việt Nam và Australia (Schipp, 1996). Theo thống
kê của FAO (2007), sản lượng cá chẽm nuôi trên thế giới năm 2005 đạt 30.970 tấn,
với tổng giá trị 79.034.000 USD, so với năm 1990 tăng 176,9% về sản lượng và
68,7% về giá trị. Trong đó, Thái Lan vẫn là nước có sản lượng lớn nhất, trong

những năm gần đây nhiều trại nuôi tôm ở Thái Lan và Philippine đã chuyển sang
nuôi cá chẽm do nuôi tôm không hiệu quả (Rimmer, 2008).
Cá Bớp (Rachycentron canadum) là một loài quan trọng và đang được nhiều
quan tâm chú ý trong nghề nuôi cá biển khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Trong giai đoạn 2004 – 2005, sản lượng nuôi cá Bớp tăng từ 20,461 tấn lên 22,745
6
tấn. với giá trị sản lượng tương ứng tăng từ 36.2 triệu USD lên 41.2 triệu USD với
giá cả thị trường ổn định khoảng 1.80 USD/kg cá thương phẩm.
Trong thập kỷ qua, tổng sản lượng nuôi cá biển toàn khu vực đạt tốc độ tăng
trưởng hàng năm xấp xỉ 10% và gần nhất là 11% từ năm 2004 đến năm 2005 cho
thấy nghề nuôi biển vẫn tiếp tục trên đà tăng trưởng. Tính về giá trị sản lượng, sự
gia tăng giá trị 9% trong 2 năm 2004 – 2005 cho thấy nhu cầu thị trường vẫn còn
khá cao, đặc biệt có chiều hướng tăng nếu so với mức gia tăng giá trị hàng năm
(trung bình 4% mỗi năm) trong suốt giai đoạn 1996- 2005 [15].
1.1.2. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển ở Việt Nam
Nghề nuôi cá bằng lồng trên biển ở Việt Nam bắt đầu hình thành và phát
triển vào những năm 90 của thế kỷ trước. Những đối tượng chủ yếu là: tôm hùm, cá
mú, cá chẽm, cá cam, cá giò, cá măng biển, cá hồng, cá chình, cá chẽm mõm nhọn,
cá ngựa, trai ngọc và các loài cá cảnh. Những khu vực nuôi chủ yếu là vùng biển
Quảng Ninh, Hải Phòng, dọc theo bờ biển miền Trung từ Thừa Thiên Huế đến Bình
Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu và một số tỉnh ven biển miền Tây Nam Bộ.
Năm 1994, viện Hải Dương Học đã nghiên cứu một số đặc điểm sinh học
sinh sản và sản xuất giống thành công 2 loài cá ngựa: cá ngựa đen (Hippocampus
kuda) và cá ngựa ba chấm (H. trimaculatus). Sau 8 tháng ương nuôi có thể đạt chiều
dài 132 – 156 mm, tương ứng với khối lượng 12 - 15 g/con (Trương Sỹ Kỳ, 2000).
Năm 1994 - 1995, Viện nghiên cứu Hải sản - Hải Phòng đã nghiên cứu sản
xuất thành công giống cá mú mỡ (Epinphelus tauvina), cá mú đen (E. malabaricus)
tại vịnh Hạ Long. Kết quả sau 3 tháng ương nuôi đạt chiều dài 13 cm tương ứng với
khối lượng 50 g. Năm 2001 Viện nghiên cứu NTTS I đã nghiên cứu cho sinh sản
thành công loài cá Giò (Rachycentron canadum).

Năm 2000 - 2004, dưới sự chủ trì của Khoa NTTS, Trường Đại học Nha
Trang, cá Chẽm (L. calcarifer) và cá Chẽm mõm nhọn (Psammoperca waigensisi)
đã được nghiên cứu sinh sản nhân tạo thành công và chủ động cung cấp con giống
ổn định cho nuôi thương phẩm.
7
Nguyễn Địch Thanh (2008) đã nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo, ương
giống cá Hồng bạc thành công nhưng số lượng chưa nhiều vì loài này có kích thước
rất nhỏ, thức ăn của chúng sau khi hết noãn hoàn là ấu trùng hầu, sau đó là luân
trùng cỡ nhỏ.
Sản xuất giống cá biển ở nước ta bắt đầu khá muộn nhưng cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu, tuy nhiên những nghiên cứu này chưa được ứng dụng vào
sản xuất trên quy mô lớn để đáp ứng nhu cầu con giống cho người nuôi. Để có thể
đưa nghề nuôi cá biển trở thành nghành kinh tế mũi nhọn, cần tập trung nghiên cứu
và giải quyết các vấn đề như: con giống, thức ăn, kỹ thuật nuôi, môi trường, đặc biệt
là công nghệ sản xuất giống nhân tạo. Vì thế sự phát triển có quy hoạch là yếu tố
quan trọng để có sự phát triển nghề nuôi cá biển bền vững.
1.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cá Chim vây vàng trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cá Chim vây vàng trên thế giới
Các loài thuộc giống cá Chim hiện đã và đang được nuôi khá phổ biến ở
nhiều nước trên thế giới bởi chúng có giá trị kinh tế cao, dễ nuôi, việc sản xuất
giống tương đối đơn giản. Ví dụ: loài T. ovatus được nuôi nhiều ở Đài Loan, Trung
Quốc (Ho và CTV, 2005); loài T. blochii được nuôi nhiều ở các nước như:
Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc, Mallaysia, Indonesia và Việt Nam
(Yeh và CTV, 1998; Thái Thanh Bình và CTV, 2008). Theo Lại Văn Hùng (2011)
loài Trachinotus carolinus được nuôi nhiều ở các nước Bắc Trung Mỹ, đặc biệt là ở Mỹ.
Từ năm 1952, cá chim vây vàng (T. blochii) được nuôi ở Mỹ trong ao đất với
năng suất 270- 438kg/ha, thời gian nuôi là 133 ngày, cho ăn chủ yếu là cá tạp (Lại
Văn Hùng, 2011). Ở Singapore, cá chim vây vàng là đối tượng nuôi chính nhưng
nguồn giống lại phải nhập từ Đài Loan, thức ăn chủ yếu vẫn là cá tạp (Chou, 1997).
Năm 1997, Đài Loan có 20 trại sản xuất giống cá chim vây vàng với sản

lượng gần 38 triệu con giống cỡ 2- 3cm để phục vụ nuôi thương phẩm trong nước
và xuất khẩu. Đến năm 2001, một số loài cá chim khác như: T. falcatus, T. ovatus
đã được sản xuất giống thành công trong tổng số 45 loài cá biển được sản xuất
giống tại quốc gia này (Yeh và CTV, 1998; Liao và CTV, 2001).
8
Thouard (1989) thí nghiệm nuôi cá chim loài T. goodie ở Pháp bằng thức ăn
công nghiệp với hàm lượng protein 50%, sau 5 tháng cá đạt cỡ 300g với tỉ lệ sống
83- 90%; Lazo và CTV (1998) đã nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng protein từ
35- 45% lên sinh trưởng của cá chim T. carolinus cho thấy hàm lượng protein thích
hợp cho sinh trưởng và phát triển của cá là 45%; Trong khi đó kết quả nghiên cứu
của Tatuman và CTV (2004) cho thấy hàm lượng protein ở mức 45% là phù hợp
cho ương nuôi cá chim vây vàng loài T.ovatus. McMaster (2003) thí nghiệm nuôi cá
chim vây vàng ở độ mặn 19‰, sử dụng thức ăn của công ty Aquafeed với hàm
lượng protein là 43%, lipit là 10% cho kết quả sau 4 tháng nuôi từ cỡ giống 10g cá
đạt cỡ 110g (Lại Văn Hùng và CTV, 2011).
Lan và CTV (2007), đã thử nghiệm ương giống cá chim vây vàng cỡ 4,9-
6,7g trong lồng với mật độ 222con/m
3
, cho ăn bằng thức ăn công nghiệp (47%
protein, 15% lipit) và sau 30 ngày ương cá đạt cỡ 14,4- 26,5g, tỷ lệ sống 90%, năng
suất 2,8- 5,3kg/m
3
, FCR từ 0,89- 1,86; Sau đó đàn giống này được sử dụng để nuôi
thương phẩm ngoài biển (thể tích lồng: 100m
3
, mật độ: 96con/m
3
), sử dụng thức ăn
công nghiệp (protein: 43% và lipit: 12%). Kết quả sau 146 ngày nuôi, cá đạt cỡ 577-
640g với tỉ lệ sống 99,2- 99,5%, năng suất 54,6- 61,3kg/m

3
, FCR: 2,43- 2,76.
Theo Juniyanto và CTV (2008), Indonesia đã thành công trong việc cho sinh
sản nhân tạo cá chim vây vàng thay vì như trước đây phải bắt con giống ngoài tự
nhiên, với tỷ lệ nở: 65 – 75 %, tỷ lệ sống trong quá trình ương cá từ lúc nở đến 35
ngày tuổi đạt 20 – 25 %, kích cỡ cá đạt 3,0- 3,5cm.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cá Chim vây vàng ở Việt Nam
Năm 2007, Ngô Vĩnh Hạnh đã tiếp nhận công nghệ sản xuất giống cá chim
vây vàng từ Trung Quốc và độc lập sản xuất thức ăn tươi sống (tảo, luân trùng,
Copepod, Artemia) làm thức ăn cho cá chim vây vàng giai đoạn từ cá bột lên cá
giống. Kết quả cho thấy, tỷ lệ nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ cá chim vây vàng đạt
63,5 – 100 %, tỷ lệ đẻ đạt 73,3 - 100 %, tỷ lệ thụ tinh trung bình đạt 46,34 %, tỷ nở
đạt 28 - 56 %, tỷ lệ sống từ cá bột lên cá hương đạt 31 - 35 %, tỷ lệ sống từ cá
hương lên cá giống đạt 50 - 62,5 %. Từ kết quả này, cá chim vây vàng đã được sản
9
xuất giống thành công trong điều kiện nhân tạo ở Việt Nam với 104.480 con giống
cỡ 4 – 6 cm. Vì vậy, chủ động được kỹ thuật ương nuôi từ cá bột lên cá hương, cá
hương lên giống trong bể xi măng và trong ao đất.
Theo Thái Thanh Bình và Trần Thanh (2008), cá chim vây vàng được nuôi
trong ao với hai mật độ 1,5 và 2,5 con/m
2
, độ mặn: 18 ppt, pH: 7,6; oxy hòa tan: 4,7
mgO
2
/L, nhiệt độ: 28 – 30
o
C. Cá giống có khối lượng trung bình 21,1 ± 1,7 g và
chiều dài 9,8 ± 2,1 cm được cho ăn bằng thức ăn công nghiệp có hàm lượng protein
và lipit là 43 % và 10 %. Sau 12 tháng nuôi cá đạt chiều dài trung bình 32,63 ± 0,12
cm, khối lượng đạt 621,23 ± 2,55 g ở mật độ 1,5 con/m

2
và chiều dài trung bình đạt
29,24 ± 0,142 cm và khối lượng đạt 593,37 ± 2,6 g ở mật độ 2,5 con/m
2
. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, cá chim vây vàng là loài phàm ăn, sống thành bầy đàn trong
ao, sinh trưởng nhanh, ít bị bệnh và tỷ lệ sống cao.
Năm 2009, cá chim vây vàng lần đầu tiên được thử nghiệm sản xuất giống
nhân tạo tại Khánh Hòa, kết quả sau hai năm nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ thành thục
của cá bố mẹ đạt trung bình 81,54%, tỷ lệ thụ tinh trung bình 78,53%, tỷ lệ nở
61,66-89,12%, số ấu trùng thu được qua 17 lần ấp là 12.628.000 con, đem ương với
mật độ 18-60 con/l, sau 30-37 ngày thu được 644.800 con cá hương cỡ 17.2-26.0
mm, tỷ lệ sống trung bình đạt 14.43%. Cá hương cỡ 17.2-26.0 mm sau 20-36 ngày
ương ở mật độ 1.000-1.500 con/m
3
thu được 404.500 con cá giống cỡ 4-5 cm [6].
Tóm lại cá chim vây vàng là loài mới được nghiên cứu ở Việt Nam có nhiều
ưu điểm như: rất háu ăn, tốc độ tăng trưởng nhanh, cá sống trong điều kiện rộng
muối (3 - 33 ppt), giá trị thương phẩm cao, thị trường xuất khẩu rộng… Do đó, cá
chim vây vàng được đánh giá là đối tượng có tiềm năng lớn trong phát triển nghề
nuôi cá thương phẩm ở các vùng nước lợ, mặn ở nước ta.
10

1.3. Một số đặc điểm sinh học của cá chim vây vàng
1.3.1. Hệ thống phân loại
Nghành: Vertebrata
Lớp: Osteichthyes
Bộ: Perciformes
Họ: Carangidae
Giống: Trachinotus

Loài: Trachinotus blochii Lacepede, 1801.









Hình 1.1: Cá chim vây vàng (Trachinotus blochii)
- Tên tiếng việt: cá chim vây vàng, cá sòng mũi hếch, cá chim trứng [2].
- Tên tiếng anh: Snub - noes pompano [16].
1.3.2. Đặc điểm hình thái.
Cá chim vây vàng có cơ thể hơi tròn, cao và bề bên dẹp chính giữa lưng hình
vòng cung. Trên đường bên của cá có khoảng 135 - 136 vẩy, chiều dài so với chiều
cao 1,6 - 1,7 lần, so với chiều cao đầu 3,5 - 4 lần, cuống đuôi ngắn và dẹp. Đầu cá
nhỏ, chiều cao đầu lớn hơn chiều dài, môi tù về phía trước. Lỗ mũi mỗi bên 2 cái
gần nhau, lỗ mũi trước nhỏ hình tròn, lỗ mũi sau to hình bầu dục. Miệng cá nhỏ
xiên, xương hàm trên lồi, hàm trên và dưới có răng nhỏ hình lông, răng phía sau dần
thoái hóa, không có răng hầu. Rìa phía trước xương nắp mang hình cung tương đối
to, rìa sau cong. Bộ phận đầu không có vảy, cơ thể có nhiều vẩy tròn nhỏ dính dưới
11
da. Ở giai đoạn cá giống, giữa các gai có màng liền nhau, cá trưởng thành màng
thoái hóa thành những gai tách rời nhau [20].
1.3.3. Đặc điểm phân bố.
Theo Forlan (2004), cá chim vây vàng có phân bố địa lý rộng, cá sống ở
vùng biển hở Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương. Ở châu Á, cá chim
vây vàng phân bố ở miền Nam Nhật Bản, Indonesia, Trung Quốc, Đài Loan. Ở
nước ta, cá chim vây vàng được tìm thấy trên vịnh Bắc Bộ, miền Trung và Nam Bộ [2].


Hình 1.2: Phân bố của cá chim vây vàng trên thế giới
(Phần chấm đỏ là khu vực cá phân bố)
Cá chim vây vàng là loài cá nước ấm, có tập tính di cư, sống ở tầng giữa và
tầng mặt. Hàng năm khi mùa đông kết thúc, cá giống thường tập trung thành đàn
sống ở vũng vịnh, cửa sông. Cá trưởng thành sinh trưởng tốt nhất ở điều kiện nhiệt độ
22 – 28
o
C.
Cá chim vây vàng là loài cá rộng muối, chúng có thể sống trong điều kiện độ
mặn dao động trong khoảng từ 3 tới 33 ppt. Ở độ mặn dưới 20 ppt cá sinh trưởng
nhanh, trong điều kiện độ mặn cao tốc độ sinh trưởng của cá chậm lại. Nhu cầu hàm
lượng oxy hòa tan của cá lớn hơn 2,5 mg/L. Theo Potonetal (1989), cá trưởng thành
sống ở vùng cát hoặc gần vùng rạn san hô, độ sâu ít nhất 7 m. Ngoài ra, cá giống
thường thấy sống ở vùng đáy cát hoặc gần vùng đáy đất cát pha sét (Forlan, 2004).
12
1.3.4. Đặc điểm dinh dưỡng.
Cá chim vây vàng là loài cá ăn tạp, thiên về động vật, cá có thể kiếm thức ăn
ở trong cát, cá trưởng thành có thể bắt những động vật có vỏ cứng như: ngao, cua,
ốc. Giai đoạn cá giống thức ăn chính của cá là động vật phù du và động vật đáy, chủ
yếu là luân trùng, nauplius của Artemia. Thức ăn chính của cá con và cá trưởng
thành là các loại tôm, cá nhỏ và động vật thân mềm.
Trong điều kiện nuôi thương phẩm, cá giống cỡ 2 cm có thể ăn được cá tạp,
tôm tép băm nhỏ hoặc thức ăn tổng hợp. Cá trưởng thành ăn tôm nhỏ và thức ăn
công nghiệp hoặc ăn hoàn toàn thức ăn công nghiệp.
Theo Nur và CTV (2008), thức ăn cho các giai đoạn phát triển của cá được
sử dụng như sau: giai đoạn nuôi vỗ, cá bố mẹ được cho ăn cá tạp, hỗn hợp thức ăn
viên, có bổ sung vitamin E và vitamin tổng hợp. Khẩu phần cho ăn 3 - 5 % khối
lượng thân. Giai đoan ấu trùng, cá được cho ăn chủ yếu bằng thức ăn tươi sống
(luân trùng, nauplius -Artemia) và thức ăn tổng hợp. Cá được cho ăn bằng luân

trùng vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 14, mật độ từ 10 - 20 con/mL, cho ăn theo nhu
cầu của cá. Từ ngày tuổi thứ 8, artemia bung dù và Nau-artemia đã được làm giàu
3- 12h được sử dụng làm thức ăn cho ấu trùng cá với mật độ 0,25 con/mL. Đến
ngày thứ 15 dừng cho cá ăn luân trùng và tăng số lượng artemia. Ngày 18 bắt đầu
tập cho ăn thức ăn công nghiệp dạng viên nhỏ và số lượng Artemia cũng phải được
tăng lên 0,5 con/mL. Khi cá ăn thức ăn công nghiệp mạnh, cắt dần artemia và
ngừng cho ăn artemia ở ngày tuổi 23. Cá giống sử dụng thức ăn viên kích cỡ hạt
phụ thuộc vào cỡ miệng của cá. Tổng lượng thức ăn viên được sử dụng trong 1
ngày là 1 kg/4,2 vạn cá, đặc biệt là ngày thứ 30.
1.3.5. Đặc điểm sinh trưởng.
Cá chim vây vàng có kích thước tương đối lớn, chiều dài tối đa có thể đạt 45
- 60 cm. Cá sinh trưởng nhanh, trong điều kiện nuôi bình thường sau 1 năm đạt kích
cỡ 0,5 - 1 kg/con.
Theo Trương Bang Kiệt (2001), thời kỳ đầu của quá trình ương giống, cá
chim vây vàng sinh trưởng chậm, nhưng sau 192 ngày nuôi, cá dài 9,9 cm đạt khối
13
lượng 20,53 g. Bình quân khối lượng ngày tăng 0,6 g và hệ số sinh trưởng trung
bình ngày 1,04 % [13]. Trong điều kiện nhân tạo cá 1 ngày tuổi có chiều dài 0,2 cm;
sau 30 - 35 ngày ương đạt chiều dài 3,4 cm [20].
1.3.6. Đặc điểm sinh sản.
Cá Chim vây vàng có thể sinh sản quanh năm, cá có thể sinh sản từ tháng 4 –
9 trong tự nhiên ở Trung Quốc, trong khi đó, tại Đài Loan cá có thể sinh sản nhân
tạo từ tháng 3 – 10 [2]. Quá trình sinh sản của cá chim vây vàng không tuân theo
chu kỳ trăng hàng tháng như nhiều loài cá biển khác [20].
Tuổi và kích thước thành thục lần đầu của cá chim vây vàng ngoài tự nhiên
tương đối muộn, cá thành thục ở tuổi 7
+
- 8
+
[19]. Tuy nhiên, trong điều kiện nuôi

nhân tạo cá có thể thành thục sớm hơn, cá bố mẹ có khối lượng từ 2 - 6 kg, tuổi 3
+

có thể được tuyển chọn để nuôi vỗ cho sản xuất giống nhân tạo [19].
Sức sinh sản tuyệt đối của cá chim vây vàng đạt 40 - 60 vạn trứng/cá cái.
Theo Nur và CTV (2008), cá chim vây vàng sử dụng cho sinh sản nhân tạo với tỷ lệ
đực : cái là 1 : 1, sử dụng kết hợp hormone HCG (liều lượng 250 IU/kg cá cái thành
thục) và Fibrogen (liều lượng 50 IU/kg cá cái thành thục), liều lượng tiêm cho cá
đực bằng ½ cá cái và tiêm 2 lần, khoảng cách giữa các lần là 24h, cá thường đẻ
trứng sau khi tiêm lần 2 từ 12 - 24h, cá đẻ khoảng 60 - 70 % tổng số trứng có trong
buồng trứng, đường kính trứng thụ tinh khi trương nước là 0,8 - 0,85 mm [20].
1.3.7. Quá trình phát triển của ấu trùng cá chim vây vàng.
Chiều dài trung bình của ấu trùng cá chim vây vàng 1 ngày tuổi là 2,77
mm. Noãn hoàng có chiều dài trung bình 0,55 - 1 mm. Có 1 giọt dầu (có chiều dài
0,2 - 0,325 mm) nằm phía trước noãn hoàng làm cho cá mới nở nổi đầu theo chiều
thẳng đứng hay khoảng 45
o
so với mặt phẳng nằm ngang. Ba ngày sau khi nở noãn
hoàng hầu như được cá sử dụng hết và giọt dầu còn không đáng kể. Chỉ những cá
hương khỏe mạnh (giai đoạn 20 - 30 ngày tuổi) mới bơi lội chủ động. Ở giai đoạn
30 - 60 ngày tuổi chiều dài trung bình của cá 2 - 5 cm. Giai đoạn này cá đã gần hoàn
thiện các cơ quan vây lưng, gai và tia vây [20].

14
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu.
- Đối tượng: cá chim vây vàng (Trachinotus blochii Lacepede, 1801)
- Thời gian: 12/02-12/06/2012.
- Địa điểm: trại sản xuất giống, thôn Cát Lợi, xã Vĩnh Lương, thành phố Nha Trang.

2.2. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu.





















Hình 2.1: Sơ đồ nội dung nghiên cứu
Kỹ thuật
chăm sóc
và quản lý
bể ương
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
“Tìm hiểu kỹ thuật ương giống cá chim vây vàng (Trachinotus blochii
Lacepede, 1801) giai đoạn từ 0 đến 60 ngày tuổi tại Lương Sơn - Nha Trang”

Tìm hiểu
công trình
và kỹ
thuật
chuẩn bị
sản xuất
Kỹ thuật
chuẩn bị
thức ăn
tươi sống

Kỹ
thuật
nuôi

làm
giàu
luân
trùng

Thức
ăn và
kỹ
thuật
cho
ăn

Thả
giống


mật
độ thả
giống

Kỹ
thuật
quản
lý bể
ương

Vị trí
trại
sản
xuất

Hệ
thống
công
trình
ương

Kỹ
thuật
chuẩn
bị bể
ương

Kỹ
thuật
nuôi

tảo

Kỹ
thuật ấp
và làm
giàu
artemia
15
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Hệ thống công trình và công tác chuẩn bị bể
Hệ thống công trình và trang thiết bị phục vụ sản xuất gồm có: Hệ thống bể
ương ấu trùng, hệ thống bể nuôi thức ăn sống, hệ thống bể chứa và xử lý nước và
các trang thiết bị khác.
Công tác chuẩn bị sản xuất: quét dọn vệ sinh xung quanh trại, đường đi, trần
nhà và tiến hành diệt khuẩn trong và ngoài trại bằng chlorine. Vệ sinh bể chứa và xử
lý nước bằng xà phòng và rửa sạch bằng nước ngọt sau đó bơm nước biển vào.
Xử lý nước: sử dụng chlorine với nồng độ 20- 30ppm, sục khí mạnh 24/24,
kiểm tra dư lượng chlorine bằng test chlorine sau đó đưa qua bể lọc cơ học. Chuẩn
bị bể ương và bể nuôi thức ăn sống: dùng nước ngọt và xà phòng để lau chùi và tẩy
rửa các bể. Sau khi các hoạt động trên đã thực hiện xong thì có thể cấp nước từ bể
lọc cơ học vào bể ương thông qua túi siêu lọc.
2.3.2. Thức ăn và kỹ thuật cho ăn
Thức ăn và thời gian cung cấp từng loại thức ăn cho các giai đoạn phát triển
của cá chim vây vàng là khác nhau, phụ thuộc vào kích cỡ miệng của cá. Theo Lại
Văn Hùng và CTV (2011), giản đồ cho ăn của ấu trùng cá chim vây vàng trong quá
trình ương nuôi như sau:












Hình 2.2: Sơ đồ cung cấp thức ăn cho cá.

0

3
10
17
19
30
60
Cấp tảo
Cấp luân trùng
Cấp artemia
Cho ăn bằng thức ăn công nghiệp
Dinh dưỡng bằng noãn hoàng
16
2.3.3. Kỹ thuật chuẩn bị thức ăn tươi sống
2.3.3.1. Nuôi tảo
Tảo được sử dụng để nuôi sinh khối ở đây là Nanochloropsis oculata,
Tetraselmis sp. Tảo mua về được đưa vào các túi có thể tích 60l, sử dụng môi trường
nuôi F2 (phụ lục 1).
Nước nuôi tảo được xử lý bằng chlorine 20-30ppm và lọc qua bể lọc cơ học.
Điều kiện môi trường: độ mặn: 20-33‰, nhiệt độ: 28-30

o
C, pH: 7,5 – 8,5. Túi nuôi
được treo chắc chắn trên giàn nuôi, cấp nước theo màu tảo. Sử dụng đèn huỳnh
quang để tăng cường chiếu sáng vào ban đêm hoặc những ngày mưa thiếu ánh sáng.
2.3.3.2. Nuôi luân trùng
Luân trùng Brachionus plicatilis được nuôi trong bể xi măng với thể tích 4-6
m
3
, mật độ nuôi: 100-200 ct/mL. Điều kiện môi trường: độ mặn: 20-33‰, nhiệt độ:
28-30
o
C, pH: 7,5 – 8,5.
Cho luân trùng ăn bằng tảo tươi hoặc bằng selco plus, men bánh mì. Sau 2-3
ngày nuôi có thể thu hoạch 1/3-1/2 bể rồi nuôi tiếp hoặc thu hoạch toàn bộ. Mật độ
luân trùng khi thu hoạch là 300-400 ct/mL.
2.3.3.3. Ấp nở artemia
Trứng artemia franciscana được mua từ thị trường và ấp trong xô có thể tích
100L ở độ mặn 25‰, nhiệt độ 25-30
o
C, sục khí mạnh, ánh sáng 24/24h. Sau 12-
14h, trứng bắt đầu bung dù và từ 17-20h trứng nở thành nauplius. Tùy vào nhiệt độ
và ánh sáng trứng có thể nở sớm hay muộn. Khi thu artemia, ta tắt sục khí từ 15-20
phút để vỏ trứng nổi lên, trứng hỏng chìm xuống đáy, dùng vợt vớt vỏ trứng ra,
dùng ống siphon hút trứng hỏng ra sau đó mới tiến hành làm giàu trước khi cho ấu
trùng cá ăn.
2.3.3.4. Thức ăn công nghiệp
Khi cá đạt 19 ngày tuổi, tiến hành cho cá ăn thức ăn công nghiệp với kích
thước viên thức ăn phù hợp với cỡ miệng của cá. Từ viên thức ăn có Ø: 300- 400µm
rồi chuyển sang Ø: 400- 600µm, 500- 800µm, 800- 1200µm.
17

Loại thức ăn sử dụng là: NRD của công ty INVE Thái Lan với thành phần
nguyên liệu gồm có: đạm động vật biển, bột ngũ cốc, đạm thực vật, dầu cá, tảo,
lecithin, men tiêu hóa, chất chống oxy hóa. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn như
sau: Protein > 55%, Lipid > 9%, Xơ < 1.9%, Độ ẩm < 8%, Tro < 14.5%.
2.3.4. Phương pháp xác định các yếu tố môi trường và các công thức tính toán.
Số liệu thứ cấp: tìm hiểu và thu thập số liệu qua sách báo, tài liệu tham khảo,
báo cáo khoa học.
Số liệu sơ cấp: tìm hiểu qua quan sát, thực hành sản xuất.
Bảng 2.1: Đơn vị, dụng cụ, độ chính xác của dụng cụ đo các yếu tố môi trường.
STT Chỉ tiêu Đơn vị Dụng cụ Độ chính xác
1 Nhiệt độ
o
C Nhiệt kế 1
o
C
2 pH Test pH 0.3-0.6
3 Độ mặn ‰ (ppt) Tỉ trọng kế 1ppt
Theo dõi tốc độ tăng trưởng về chiều dài và tỉ lệ sống.
- Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trung bình ngày về chiều dài của cá (DLG-
mm/ngày):
DLG = (L
1
-L
2
)/(t
2
-t
1
) (mm/ngày)
Trong đó: L1: chiều dài cá kiểm tra tại thời điểm t

1

L2: chiều dài cá kiểm tra tại thời điểm t
2

- Xác định tỉ lệ sống:
TLS = (X/N) x 100%
Trong đó: TLS: tỉ lệ sống (%)
X: số lượng ấu trùng ở thời điểm kiểm tra (con)
N: số lượng ấu trùng ban đầu (con)
- Cách xác định số lượng ấu trùng có trong bể:
N= (A/1) x V
Trong đó: A: Số lượng ấu trùng đếm được từ 1 lit mẫu
V: Thể tích của bể ương
1: Thể tích mẫu
N: Số lượng ấu trùng có trong bể
18
2.3.5. Phương pháp xử lí số liệu.
- Giá trị trung bình:


Trong đó: X: giá trị trung bình mẫu; Xi: giá trị của mẫu thứ i.
n: số lượng mẫu.
- Độ lệch chuẩn:



- Hệ số phân đàn (C
V
):

C
V
=
X
σ
x
Trong đó: σ: độ lệch chuẩn.
n: số lượng mẫu.
Xi: thông số của cá thể thứ i.

X
: thông số trung bình của cá.
Số liệu được tính toán bằng phần mềm Microsoft-Excel 2007. Số liệu được
trình bày ở dạng giá trị trung bình (TB) ± độ lệch chuẩn (SD).

×