Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.31 KB, 11 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. Lý luận chung về quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
C.Max, Ph.Awngghen, V.I.Leenin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kì
quá đọ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó trong quá
trình vận đọng phát triển của các hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
C.Mac đã cho rằng thời kì đi lên chủ nghĩa xã hội bao gồm những giai đoạn kéo
dài. Điều đó cũng được Lênin khẳng định: Trong thời kì quá độ, sự nghiệp xây dựng
CNXH có khi phải “ làm lại nhiều lần” mới xong. Theo V.I. Lênin tất yếu xảy ra quá độ
lên CNXH là do đặc điểm ra đời phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa và cách mạng
vô sản quy định, sự hình thành chế độ mới do đó nó cần phải có thời gian, có những sự
chuẩn bị và những tích luỹ vật chất cần thiết đủ cho nó lọt lòng và phát triển.
Thời kì quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH cũng
đều phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền kinh tế phát triển. Con đường phát
triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ
gián tiếp.
Bối cảnh lịch sử thế giới lúc bấy giờ bước vào thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản
(CNTB) lên CNXH. CNTB lúc đó là xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn
cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là
giai đoạn chủ nghĩa xã hội.
Ngay khi ra đời Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên
CNXH. Từ sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo đã
thành công thì chúng ta đã cởi bỏ được hai vòng xích, đã thoát khỏi cảnh một cổ hai
tròng, Đảng và Nhà nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm niềm tin vào Đảng, quyết
tâm đi theo Đảng. Trong thời đại ngày nay chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mới
đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự cho toàn thể nhân dân lao động. Vì những lẽ
đó, Đảng tất yếu lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến thẳng lên CNXH không trải
qua giai đoạn phát triển TBCN.
Liên Xô lúc đó đã tiến hành thành công cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa và sẵn


sàng giúp đỡ chúng ta cả về vật chất và tinh thần. Sau đó hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
1
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Liên Xô và Đông Âu tan rã đã đưa ra cho chúng ta tấm gương khá sinh động về sự thành
công và thất bại đã sâu sắc và chi tiết đến mức có thể từ đó đưa ra những giải pháp điển
hình cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến trình cách mạng.
Thành công của chúng ta đạt được phải kể đến yếu tố quan trọng bậc nhất là sự
lãnh đạo của Đảng và liên minh công nông vững chắc. Ngoài ra, khả năng và nguồn lực
trong nước có thể đáp ứng được yêu cầu của thời kì quá độ lên CNXH. Chúng ta có lực
lượng lao động dồi dào, chăm chỉ, khéo léo, dễ đào tạo, sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu
của thời đại mới. Tài nguyên thiên nhiên của nước ta cũng hết sức giàu có và phong phú
tạo điều kiện hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tạo tiền đề
xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
II. Thực trạng xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Các giai đoạn trong quá trình quá độ lên CNXH:
a) Giai đoạn 1945-1954:
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra
Đời, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước ta đứng trước bối cảnh vừa có
những thuận lợi cơ bản, cũng như gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.
- Thuận lợi: Chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ trung
ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh đất nước. Lực lượng vũ trang
nhân dân được tăng cường. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
- Hạn chế: hậu quả của chế độ cũ để lại rất nặng nề (giặc đói, giặc dốt, ngân quỹ
quốc gia trống rỗng). Kinh nghiệm quản lý đất nước của cán bộ các cấp còn non yếu.
Nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận và đặt quan hệ
ngoại giao.
b) Giai đoạn 1954-1975:
- Thuận lợi: thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, sau 21 năm nỗ lực phấn
đấu, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt được những thành tựu đáng tự hào. Một

chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bắt đầu được hình thành. Văn hóa, xã hội, y
tế, giáo dục không những được duy trì mà còn có sự phát triển mạnh. Sản xuất nông
nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường.
- Hạn chế: vẫn còn tàn dư của chiến tranh để lại, tổn thất lớn về người và của.
c) Giai đoạn 1975-1985:
2
Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Hạn chế:
o Mối quan hệ giữa Đảng- nhà nước và nhân dân từng cấp, từng đơn vị
chưa được xác định rõ, còn chống lấn, chế độ trách nhiệm chưa nghiêm, pháp chế còn
nhiều thiếu sót.
o Bộ máy nhà nước cồng kềnh, cơ chế quản lý tập trung quan liêu , bao
cấp dẫn đến chưa phát huy được dân chủ xã hội.
o Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm nhiệm vụ, có tình trạng tập
trung- quan liêu. Các đoàn thể chưa phát huy vai trò tổ chức, động viên quần chúng
tham gia hoạt động và quản lý kinh tế- xã hội.
d) Giai đoạn 1986- đến nay:
- Ưu điểm:
o Nhà nước kiện toàn cả về tổ chức và hoạt động, trên cả ba lĩnh vực lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Quản lý nhà nước bằng pháp luật được tăng cường. Sự
lãnh đạo nhà nước được thể chế hóa trong Hiến pháp
o Đảng thường xuyên coi trọng việc đổi mới và tự chỉnh đốn, giữ vững và
tăng cường vai trò lãnh đạo xã hội. Phương thức lãnh đạo, phong cách công tác nhiều
đổi mới, tiến bộ, dân chủ được phát huy, quan hệ với nhân dân được củng cố
- Hạn chế: Năng lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành
của nhà nước, hoạt động của mặt trận và các tổ chức quần chúng ngang tầm nhiệm vụ.
o Cải cách hành chính chậm, bộ máy còn cồng kềnh, quản lý chưa hiệu
quả, phát sinh nhiều tiêu cực.
Mặt trận, các tổ chức quần chúng chưa thoát khỏi ”hành chính hóa”, chất lượng giám sát,
phản biện còn yếu, dân chủ còn bị vi phạm.

2. Những thành tựu đã đạt được
2.1. Về kinh tế
Như ta đã biết dưới ách thống trị của thực dân Pháp nền kinh tế hết sức nghèo nàn,
lạc hậu, nạn đói xảy ra triền miên và kéo dài, nghiêm trọng nhất là vào năm 1945 có tới
hàng vạn người có nguy cơ chết đói. Nhưng từ khi cuộc kháng chiến trường kì kết thúc
thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kì quá độ thì dưới sự lãnh đạo của Đảng tính chất nền
kinh tế đã thay đổi. Từ nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến, chúng ta đã xây dựng được
3
Tư tưởng Hồ Chí Minh
nền kinh tế mang tính độc lập mang tính chất dân chủ nhân dân, thoát khỏi sự phụ thuộc
hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc.
Trong giai đoạn từ 1945 đến 1975 kinh tế đã có những bước phát triển nhất định
nhưng kết quả thực sự đáng lưu ý là từ năm 1986 đến nay (thời kì đổi mới).
Nền kinh tế trong những năm qua tăng trưởng liên tục và có tốc độ cao. Mức tăng
GDP năm 2002 đạt 6,79%, năm 2003 đạt 7,26% và năm 2004 đạt 7,5%, giai đoạn 2006-
2010 đạt bình quân 7%/năm. Cụ thể mức tăng của một số ngành như sau.
Ngành nông nghiệp, mặc dù trong những năm qua thời tiết khắc nghiệt, thiên tai và
hạn hán thường xuyên xảy ra đã gây ảnh hưởng lớn nhưng tổng sản phẩm ngành nông,
lâm, thuỷ sản vẫn tăng. Sản xuất lương thực, thực phẩm vẫn giữ vai trò lớn nhất trong sản
xuất nông nghiệp. Nhờ áp dụng khoa học công nghệ mà sản xuất lúa đã chuyển dịch
mạnh theo hướng tăng năng suất lao động, tăng chất lượng lúa gạo để phù hợp nhu cầu
thị trường, tăng sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên trường quốc tế.
Ngành công nghiệp, sản xuất vẫn phát triển ổn định và tăng trưởng cao. Tổng giá
trị sản xuất công nghiệp năm 2010 đạt 794.2 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2009.
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế với sự chuyển dịch ngành và chuyển các thành phần
kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (gồm nông
nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục nhưng tỷ trọng
đã giảm xuống trong đó tỷ trọng khu vực II (công nghiệp và xây dựng cơ bản) và khu vực
III (gồm các ngành dịch vụ) đã tăng lên. Đến năm 2003 tỷ trọng của khu vực I là 22%,

khu vực II là 39%, khu vực III là 39%; năm 2010 thì tỷ trọng các khu vực tương ứng là
22%; 40%; 38% . Các thành phần kinh tế trong GDP cũng có sự chuyển dịch từ chủ yếu
là quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần nhung vai trò chủ đạo của kinh tế quốc
doanh vẫn được tăng cường.
Về cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình thành. Nhà nước đã xoá bỏ
về cơ bản kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành cơ chế thị trường, Nhà nước đã
dần dần cải tổ bộ máy và các công cụ quản lý. Từ chỗ chủ yếu sử dụng phương pháp
hành chính coi kế hoạch hoá với các chỉ tiêu pháp lệnh là công cụđể quản lý, điều hành
4
Tư tưởng Hồ Chí Minh
nền kinh tế sang chủ yếu quản lý bằng pháp luật kết hợp chính sách và các công cụ điều
tiết vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, thu nhập và chính sách kinh tế đối ngoại.
Kinh tế nước ta đã đạt thành công lớn trong việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát.
Trong những năm từ 1986 đến 1988 lạm phát tới ba con số (cao nhất là 774,7% năm
1986) nhưng đến năm 1989 lạm phát đã được chặn lại ở hai con số sau đó giảm xuống
một con số (năm 1997 là 3,7%; năm 1999 là 0,1%; năm 2001 là 0,8%; năm 2002 là 4%;
năm 2003 là 3% thậm chí còn có giảm phát vào năm 2000 là - 0.6%. Năm 2004 lạm phát
đã tăng lên 9,5%. Và năm 2010 là 11.75%
Về kinh tế đối ngoại trong thời kì quá độ cũng phát triển mạnh mẽ. Chúng ta đã
tham gia vào các tổ chức khu vực cũng như trên thế giới: gia nhập ASEAN năm 1995,
gia nhập AFTA năm 1996, gia nhập APEC năm 1998, ký hiệp định thương mại Việt –
Mĩ. Tháng 10 năm 2004 chúng ta đã tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu lần
thứ 5 (ASEM 5). Và đến tháng 11 năm 2004 Việt Nam đã kí 86 hiệp định thương mại
song phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộđầu tư, 40 hiệp định chống đánh thuế
hai lần đối với các nước, vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với 160 nước và nền kinh
tế, năm 2007 Việt Nam trở thành thành viên 150 của tổ chức Thương mại thế giới
(WTO). Thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ như WB, FDI, IMF, ODA…
2.2. Về xã hội

Trong suốt thời kì quá độ chúng ta đã đạt được những chuyển biến tốt về mặt xã
hội. Nhìn chung đời sống vật chất, tinh thần của phần lớn nhân dân được cải thiện một
bước rõ rệt. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, GDP bình quân đầu
người trong cả nước đạt 1.387 triệu đồng/tháng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 30% năm 1992
xuống còn 10,8% năm 2003 và 9,45% năm 2010.
Một thành quả to lớn về xã hội phải kể đến là sự phát triển của hệ thống y tế, giáo
dục. Mạng lưới y tế bây giờ đã rộng khắp luôn kịp thời chăm lo sức khoẻ cho nhân dân.
Ở hầu hết các xã phường thị trấn đều có các trạm xá với những cán bộ y tế đã được qua
đào tạo.
Giáo dục ở Việt Nam trong những năm vừa qua luôn được coi là quốc sách hàng
đầu. Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách hỗ trợ và đầu tư cho phát triển giáo
dục như đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật, trợ cấp cho học sinh, sinh viên….
Người lao động ngày càng chủ động hơn trong tìm kiếm việc làm tìm cách tăng
thu nhập, tự cải thiện đời sống, tham gia ý kiến đóng góp vào các sinh hoạt chung của
5
Tư tưởng Hồ Chí Minh
cộng đồng, xã hội. Không còn nhiều hiện tượng ỷ lại, thụđộng, trông chờ Nhà nước, dựa
dẫm tập thể.
2.3. Về chính trị
Thực hiện tốt Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử và là tất yếu
khách quan. Trong suốt mấy chục năm qua Đảng đã thành công trong việc vừa lãnh đạo
nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập và xây dựng
một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng luôn là lực lượng chính trị duy nhất lãnh
đạo cách mạng và lãnh đạo nhân dân, Đảng lãnh đạo toàn diện đối với Nhà nước và mọi
mặt của đời sống xã hội.
Trong suốt thời kì quá độ vừa qua nhìn chung chúng ta tiếp tục giữ vững ổn định
chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ chế độ, chủ quyền đất nước. Mặc dù
những kẻ thù địch không ngừng chống phá cách mạng trong nước, mặc dù xảy ra khủng
hoảng kinh tế, xã hội vào thời kì những năm 1996 – 2000 nhưng chính trị của nước ta vẫn

được ổn định. Thành quả này là kết quả tổng hợp của công cuộc đổi mới trong đó quốc
phòng an ninh giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, cải thiện
đời sống của lực lượng vũ trang luôn được quan tâm đáp ứng. Chất lượng và sức mạnh
quân đội luôn được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân luôn được củng cố vững
chắc, chủ quyền đất nước càng được khẳng định rõ ràng. Như vậy, chúng ta đã thực hiện
tốt chính sách kết hợp kinh tế và an ninh quốc phòng.
Thực hiện có kết quả nhiều bước quan trọng về hệ thống chính trị.
Về củng cố Đảng trong thời gian qua Đảng đã từng bước bổ sung, cụ thể hoá
đường lối đổi mới, làm rõ dần con đường đi lên CNXH ở nước ta, củng cố về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
trong xã hội.
Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tuy thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý nhưng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền dân chủ, do dân và vì dân.
Điều đó thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cử Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp theo
chế độ phổ thông đầu phiếu, chính người dân đã trực tiếp được cầm phiếu đi bầu người
đại diện cho mình. Bên cạnh đó, đời sống của nhân dân các vùng dân tộc cũng được đặc
biệt chú ý quan tâm, Đảng và Nhà nước đã tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi
lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển của cộng đồng các
6
Tư tưởng Hồ Chí Minh
dân tộc Việt Nam. Đảng luôn luôn tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, tập quán, tín
ngưỡng tôn giáo của các dân tộc, luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm
bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo nhưng cũng đồng thời chống việc lợi dụng tín
ngưỡng để xâm hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.
Chúng ta phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá vỡ thế bao vây, cô lập, tham
gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế, triển khai tích cực và năng động đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá. Chúng ta đã khắc phục và tăng
cường quan hệ với các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, bình thường hoá quan
hệ Việt – Mỹ, mở rộng quan hệ với các nước Nam á, Châu Phi, Mỹ Latinh, Trung Đông,
với các tổ chức quốc tế, khu vực, đã tham gia vào các tổ chức ASEAN, AFTA, APEC,

WTO Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững
hoà bình, phá bỏ thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện môi trường quốc tế, nâng cao vị thế
nước ta trên trường quốc tế.
3. Những hạn chế
Nước ta đã có nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển cơ chế thị trường nhưng cho đến
nay cơ chế thị trường vẫn còn sơ khai. Hệ thống quản lý kinh tế nước ta còn đang trong
quá trình chuyển đổi, luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, nhất quán và tác động
cùng chiều để thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả và đúng
hướng. Các kế hoạch định hướng phát triển kinh tế về quy hoạch, xây dựng, quản lý, sử
dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên, thủ tục hành chính có nhiều tiến bộ nhưng còn chậm
chạp. Về thương nghiệp thì Nhà nước còn “bỏ trống” một số “trận địa” quan trọng, chưa
phát huy tốt được vai trò chủ đạo trong lưu thông hàng hoá, ổn định giá cả thị trường, bảo
vệ sản xuất và tiêu dùng làm cho giá cả tăng cao, xảy ra cả ngộ độc thực phẩm, người
tiêu dùng mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng. Khâu quản lý xuất nhập khẩu còn
nhiều sơ hở, tiêu cực như nhập lậu, trốn thuế, nhận hối lộ… gây ra những tác động xấu
không nhỏ cho đối với sản xuất trong nước, tích luỹ nội bộ thấp và vấn đề sử dụng vốn
đầu tư còn rất kém hiệu quả.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh nhưng năng suất hiệu quả còn thấp. Nhìn chung tốc
độ tăng trưởng nền kinh tế chưa xứng với mức tăng đầu tư và thấp hơn so với kế hoạch,
tính bền vững và độ đồng đều chưa cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Hệ thống
dịch vụ hỗ trợ sản xuất vừa thiếu vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ cấu lao động chuyển dịch
7
Tư tưởng Hồ Chí Minh
chậm không tương ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là trong khu vực nông nghiệp
nông thôn
Cạnh tranh còn yếu và trình độ kĩ thuật lạc hậu, sức cạnh tranh và năng lực quản lý
của các doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bị để ứng phó hiệu quả với quá trình hội
nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá
cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ thì hàng hoá của Việt Nam cũng có sức cạnh
tranh yếu. Những mặt hàng xuất khẩu chưa có được hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia

tăng lớn, hàng xuất khẩu chủ yếu là thô hoặc sơ chế ví dụ như dầu khí, than… và chất
lượng thấp. Bên cạnh đó chưa xây dựng và sử dụng các biện pháp bảo vệ thị trường nội
địa. Một trong những nguyên nhân khiến cho cạnh tranh yếu là hàm lượng công nghệ
trong sản phẩm, trình độ lao động của Việt Nam còn thấp.
III. Giải pháp cho con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
1. Giải pháp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Cần tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật để
chuyển dịch cơ cấu, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của đất nước, tạo năng
suất lao động xã hội cao, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Do đó cần
phải có giải pháp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trước hết, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nguồn vốn rất lớn do đó chúng ta
phải huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Chúng ta có thể huy động vốn từ trong
nước hay nước ngoài. Nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc
dân, muốn huy động được nguồn vốn trong nước điều kiện cần là phải nâng cao hiệu quả
sản xuất trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ, hợp lý hoá sản xuất. Nhà nước và các
ngân hàng phải có những chính sách khuyến khích tiết kiệm như giảm thuế đánh vào lãi
suất, nâng lãi suất tiết kiệm, đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng, lãng phí. Cần tận
dụng mọi khả năng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, muốn thu hút được vốn đầu tư
nước ngoài buộc chúng ta phải có những chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, giảm bớt
rườm rà trong thủ tục hành chính, cải thiện được môi trường đầu tư theo hướng giảm giá
đầu vào của sản xuất thuộc độc quyền nhà nước như làđiện, viễn thông, dịch vụ cảng
biển, phí cầu đường…
Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động, vấn đề thiếu lao động có tay
nghề đang là một vấn nạn chung. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng mục
tiêu phát triển và hội nhập của đất nước thì Đảng, Nhà nước và địa phương cần phải có
8
Tư tưởng Hồ Chí Minh
chiến lược đào tạo nghề, chuẩn đội ngũ lao động có kĩ năng tay nghề, trình độ chuyên
môn kĩ thuật cao. Cần phải chuyển dần việc đào tạo nghề đơn giản sang đào tạo đội ngũ
lao động có nghề, có kĩ năng và có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao, có khả năng thích

ứng nhanh với thị trường lao động. Cụ thể là ưu tiên đào tạo những ngành nghề mũi nhọn
có tỷ trọng kinh tế cao, đòi hỏi kĩ thuật, công nghệ mới như ngành cơ khí, chế tác, sinh
học và dịch vụ tiên tiến…
Khoa học công nghệ cũng là một nhân tố của lực lượng sản xuất. Để phát triển
kinh tế buộc phát triển mạnh mẽ hơn nữa về khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ sẽ
đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh
tranh và hiệu quả kinh doanh… Phát triển khoa học công nghệ thì phải đi thẳng vào công
nghệ hiện đại đối với các mũi nhọn, lựa chon công nghệ thích hợp, khai thác được lợi thế
của lao động. Cùng với việc nhập công nghệ của nước ngoài chúng ta phải khẩn trương
đổi mới tổ chức, sắp xếp hợp lý các viện, trung tâm, các cơ sở nghiên cứu trong cả nước.
Phải dành vốn đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản trong các ngành khoa học, phải
phát triển khoa học công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí tuệ. Phải đổi
mới chính sách đào tạo, sử dụng vàđãi ngộ trí thức để tránh chảy máu chất xám. Khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học
công nghệ, thu hút chuyên gia giỏi của thế giới.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng
rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng
được thuận lợi và nhanh chóng thành công bấy nhiêu. Trong suốt thời gian qua, chúng ta
luôn tích cực tham gia vào xu thế chung của quốc tế, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong thời gian tới chúng ta phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng
đa dạng hoá, đa phương hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với
điều kiện của nước ta.
2. Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường
Để phát triển được kinh tế thị trường thì việc đầu tiên là phải phát triển các thành
phần kinh tế và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Khi đó, mọi
doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy
định và bảo vệ.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền chủ sở hữu và quyền kinh
9

Tư tưởng Hồ Chí Minh
doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh sang hoạt động
theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Thực hiện chủ trương cổ phần
hoá doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo
động lực và cơ chế quản lý năng động, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ưu
tiên cho người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài.
Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng, chuyển đổi hợp tác xã
cũ theo Luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp
đa ngành hoặc chuyên ngành để kinh doanh phù hợp quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá .
Kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị cần được Nhà nước tạo điều
kiện để phát triển.
Kinh tế tư bản tư nhân phải được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy
mô trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm, cần được khuyến khích hợp tác
liên doanh với nhau và liên doanh với doanh nghiệp Nhà nước để chuyển thành doanh
nghiệp cổ phần hay bán cổ phần cho người lao động.
Kinh tế tư bản Nhà nước cần được phát triển dưới các hình thức liên doanh, liên
kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước phát triển đa dạng.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của kinh tế Việt Nam khu vực
kinh tế này ngày càng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, điều đó rất phù hợp với mong
muốn của Đảng và Nhà nước nhưng bên cạnh việc khuyến khích phát triển thì chúng ta
cũng cần phải chú ý đến quyền công dân của lao động trong các doanh nghiệp này đồng
thời phải cảnh giác những âm mưu chính trị được nguỵ trang trong việc đầu tư kinh tế ở
Việt Nam.
3.Giữ vững chính trị và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Để giữ vững chính trị thì Đảng và Nhà nước phải quan tâm nhiều hơn nữa đến đời
sống hàng ngày của nhân dân, phải luôn chú ý đến những kẻ sống lưu vong trong nước
nhằm gây dựng các tổ chức chống phá cách mạng nước ta. Đảng phải thường xuyên duy
trì được khối liên minh công - nông – trí thức, phải cùng với các tổ chức chính trị, các

đoàn thể như hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, mặt trận tổ quốc… thường
xuyên tổ chức các hoạt động văn hoá nhằm tuyên truyền về đường lối chính sách đúng
đắn của Đảng, phải tạo được lòng tin ngày càng sâu sắc của dân vào Đảng.
10
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải được thực hiện nghiêm chỉnh và
thống nhất: “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” phải trở thành đạo đức hàng
đầu, thành nếp sống tốt đẹp của mọi người. Do đó, để hệ thống pháp luật được hoàn
chỉnh hơn thì cùng với việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật thì chính nhân dân
phải nghiêm túc chấp hành pháp luật.
4. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước của Đảng
Muốn hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước thì
chúng ta phải thực hiện cải cách bộ máy hành chính, phải tăng cường khả năng kiểm kê,
kiểm soát của Nhà nước, phải đổi mới pháp chế và phải hoàn thiện chính sách về thuế,
tiền lương, tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
Bộ máy hành chính của Nhà nước Việt Nam còn chứa nhiều bất cập, để phù hợp
với điều kiện nền kinh tế qua độ hiện nay buộc Nhà nước ta phải tiến hành cải cách bộ
máy hành chính, các cơ quan quản lý. Đảng và Nhà nước phải tăng cường quản lý đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Phải chăm lo công tác đào tạo, kể cả việc đào tạo lại, bồi dưỡng
cán bộ, công chức Nhà nước theo yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Đảng phải lãnh
đạo công tác quy hoạch và chiến lược phải thực hiện tinh chế cơ quan Nhà nước để tránh
cồng kềnh mà kém hiệu quả.
11

×