Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

NGHIÊN CỨU HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.76 KB, 29 trang )

[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 1


CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG
TIỀN MẶT
1. Cơ sở lí luận về thanh toán không dùng tiền mặt :
1.1 Khái niệm :
Thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) là phương thức chi trả được
thực hiện bằng cách trích một số tiền từ tài khoản người chi trả chuyển sang tài
khoản người thụ hưởng. Các tài khoản này đều được mở tại ngân hàng.
Như vậy, TTKDTM là một nghiệp vụ trung gian của ngân hàng. Ngân hàng
chỉ được thực hiện thanh toán khi có lệnh của chủ tài khoản, bao gồm các tổ
chức kinh tế, đơn vị và cá nhân mở tài khoản tại ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt thông thường gồm có 4 bên tham gia:
 Bên mua hàng hay bên nhận hàng hóa, dịch vụ cung ứng;
 Ngân hàng bên mua, tức ngân hàng mà bên mua mở tài khoản;
 Bên bán hàng hay bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ;
 Ngân hàng bên bán, tức ngân hàng mà bên bán mở tài khoản;
1.2 Vai trò và chức năng của thanh toán không dùng tiền mặt :
1.2.1 Đối với nền kinh tế :
 Thúc đẩy phát triển hoạt động thương mại điện tử :
Thương mại điện tử là xu hướng kinh doanh sẽ phát triển mạnh mẽ trong
thời gian tới đây do sự tiến bộ của cộng nghệ thông tin và trình độ sử dụng
vi tính trong dân cư được nâng cao đáng kể. Xét trên nhiều phương diện,
TTKDTM là nền tảng của các hệ thống thương mại điện tử. Sự khác biệt cơ
bản giữa thương mại điện tử với các ứng dụng khác cung cấp trên internet
chính là nhờ khả năng thanh toán trực tuyến này. Do vậy, việc phát triển
TTKDTM sẽ hoàn thiện hóa thương mại điện tử, để thương mại điện tử phát


triển ngày càng mạnh mẽ và vững chắc.
 Tăng quá trình lưu thông tiền tệ và hàng hóa:
TTKDTM đẩy mạnh quá trình lưu thông tiền tệ và hàng hóa. Người bán
có thể nhận tiền thanh toán tức thì, do đó có thể yên tâm tiến hành giao hàng
một cách sớm nhất, thu hồi vốn nhanh để tái đầu tư. Ngoài ra, TTKDTM
còn giúp thực hiện việc thanh toán trở nên an toàn, đảm bảo quyền lợi cho
các bên tham gia, hạn chế rủi ro so với thanh toán bằng tiền mặt.
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 2


 Nâng cao khả năng quản lí dòng tiền của các cơ quan điều hành :
TTKDTM tạo ra một loại tiền mới, đó là tiền số hóa. Tiền số hóa được
thực thi trên hệ thống hoàn toàn tự động, giúp quá trình giao dịch trở nên
đơn giản, an toàn. Các thông tin tiền tệ được cập nhật tức thì, chi phí giao
dịch giảm bớt đáng kể và các cơ quan quản lí Nhà nước cũng có thể dễ dàng
kiểm soát luồng tiền lưu thông trên thị trường, từ đó có những chính sách
điều hành nhanh chóng và phù hợp hơn.
1.2.2 Đối với hệ thống NHTM :
 Giảm chi phí, tăng hiệu quả kinh doanh :
Giảm chi phí văn phòng và chi phí nhân sự : Các giao dịch hầu như được
thực hiện một cách tự động trên hệ thống, do đó thời gian tác nghiệp được
rút ngắn, các thủ tục, quy trình được chuẩn hóa một cách gọn nhẹ, nâng cao
hiệu quả tìm kiếm và xử lí chứng từ. Từ đó, giảm bớt đáng kể chi phí văn
phòng và nguồn nhân lực.
Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị sản phẩm: Thông qua các website cung
cấp dịch vụ TTKDTM của chính Ngân hàng, các Ngân hàng có thể tăng khả
năng tiếp cận khách hàng, giảm bớt chi phí tiếp thị, quảng cáo so với các

loại hình truyền thống trước đây.
 Đa dạng hóa dịch vụ và sản phẩm :
Các ngân hàng có thể cung cấp thêm các dịch vụ mới cho khách hàng
như dựa trên nền tảng TTKDTM như “Phone Banking”, “Home Banking”,
“Internet Banking”, v.v…Từ đó, đa dạng hóa các dịch vụ sản phầm, thu hút
thêm nhiều khách hàng tham gia giao dịch.
 Nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo nét riêng trong kinh doanh :
“Ngân hàng điện tử” giúp các ngân hàng tạo và duy trì một hệ thống
khách hàng rộng rãi và bền vững. Thay vì phải xếp hàng rất lâu chờ rút tiền
tại một chi nhánh ngân hàng, khách hàng có thể đến một máy rút tiền tự
động của một ngân hàng khác và thực hiện giao dịch trong vài phút. Thế
mạnh về Ngân hàng điện tử sẽ tạo ra nét riêng trong kinh doanh và nâng cao
năng lực cạnh tranh của Ngân hàng.
 Thực hiện chiến lược toàn cầu hóa :
TTKDTM là xu thế toàn cầu và đã phát triển ở hầu khắp các quốc gia
phát triển trên thế giới. Do đó, với tiến trình hội nhập ngày càng sâu
rộng, nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 3


trước nhất phải thực hiện đẩy mạnh TTKDTM để tăng khả năng gia
nhậo tiến trình toàn cầu hóa.
1.2.3 Đối với khách hàng.:
 Tiết kiệm chi phí:
Phí giao dịch thanh toán điện tử mà các Ngân hàng cung cấp hiện được
đánh giá là ở mức thấp so với các phương tiện giao dịch khác. Điều này
hoàn toàn có thể lí giải được bởi một khi các ngân hàng có thể tiết kiệm

được chi phí khi triển khai với hình thức các ngân hàng ảo (chỉ hoạt động
trên hệ thống tự động) thì các chi phí mà khách hàng phải trả theo đó mà
giảm đi rất nhiều.
 Tiết kiệm thời gian:
Đối với các giao dịch ngân hàng từ Internet được thực hiện từ xa, xử lí
một cách nhanh chóng và hết sức chính xác. Khách hàng không cần phải
đến tận văn phòng giao dịch của ngân hàng, không phải mất thời gian đi lại
hoặc nhiều khi phải xếp hàng chờ đợi tới lượt mình. Giờ đây với dịch vụ
ngân hàng điện tử, họ có thể tiếp cận với bất cứ một giao dịch nào của ngân
hàng vào bất cứ thời điểm nào hoặc ở bất cứ đâu mà họ muốn.
 Thông tin liên lạc với ngân hàng nhanh chóng và hiệu quả hơn:
Khi khách hàng sử dụng ngân hàng điện tử, họ sẽ nắm được nhanh
chóng, kịp thời những thông tin về tài khoản, tỷ giá, lãi suất. Mặt khác,
thông qua máy vi tính được nối mạng, khách hàng có thể giao dịch trực tiếp
với ngân hàng để kiểm tra số dư tài khoản, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn
dịch vụ công cộng, thanh toán thẻ tín dụng, mua séc du lịch, kinh doanh
ngoại hối, vay nợ, mở và điều chỉnh, thanh toán thư tín dụng và kể cả kinh
doanh chứng khoáng với ngân hàng…
1.3 Sự cần thiết phải phát triển thanh toán không dùng tiền mặt :
Thanh toán không dùng tiền mặt là một bộ phận không thể thiếu được trong
nền kinh tế thị trường. Đó là sự đòi hỏi khách quan của quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hóa. Nền kinh tế hàng hóa càng phát triển, luôn đòi hỏi phải có
những thay đổi trong phương tiện thanh toán, mua bán hàng hóa. Từ việc trao
đổi hàng hóa thông qua chính bản thân hàng hóa đó, rồi đến vật ngang giá
(những sản phẩm có tính phổ biến, dễ chấp nhận như vàng, bạc). Khi nền sản
xuất hàng hóa phát triển hơn nữa, thì việc sử dụng tiền vàng có rất nhiều bất
tiện (nặng, khó vận chuyển khi mua một khối lượng hàng hóa lớn, nhà nước
phải dự trữ một khối lượng tiền vàng lớn). Do đó, tiền giấy đã ra đời, rất thuận
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]


Trang 4


tiện cho việc chia nhỏ, lưu thông, cất giữ. Đây cũng là hình thức tiền tệ hiện
đang được sử dụng phổ biến trên thế giới, nó chính là tiền pháp định của mỗi
quốc gia.
Nhưng khi nền kinh tế trên thế giới đã có những thay đổi lớn như hiện nay,
cả thế giới như một nền kinh tế khổng lồ, thống nhất, không giới hạn về ranh
giới địa lý, trong đó mỗi quốc gia “không thể” tự tách mình ra khỏi sự gắn kết
đó được là nhờ một hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, cụ thể là mạng
Internet toàn cầu. Do vậy, đòi hỏi phải có hình thức tiền tệ mới, thỏa mãn yêu
cầu: gọn nhẹ, bảo đảm, an toàn, dễ dàng trong thanh toán ở mọi lúc mọi nơi, mà
lại sinh lời. Hình thức “thanh toán điện tử” hay còn gọi bởi thuật ngữ “thanh
toán không dùng tiền mặt” ra đời để đáp ứng nhu cầu đó.
Thanh toán không dùng tiền mặt sẽ làm giảm khối lượng tiền mặt có trong
lưu thông, giảm chi phí trong các khâu in ấn, kiểm đếm, vận chuyển giảm được
chi phí lao động xã hội, đảm bảo cho các dòng vốn trong nền kinh tế xã hội
được tập trung và phân phối nhanh, đáp ứng có hiệu quả thanh toán trong nền
kinh tế, từ đó thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Do đó, phát triển thanh
toán không dùng tiền mặt là một như cầu bức thiết hiện nay.
2. Cơ sở hạ tầng của thanh toán không dùng tiền mặt :
Để vận hành TTKDTM, hiển nhiên cần có một hệ thống cơ sở hạ tầng vững
chắc, hoạt động dựa trên nền tảng Công nghệ thông tin hiện đại, nhanh chóng và an
toàn. Hiện nay, tại Việt Nam tồn tại các hệ thống thanh toán điện tử như sau :
2.1 Hệ thống chuyển tiền trong cùng hệ thống ngân hàng :
Hệ thống chuyển tiền điện tử trong cùng hệ thống ngân hàng là hệ thống
thực hiện các nghiệp vụ chuyển tiền, thanh toán cho các khách hàng trong cùng
hệ thống, chuyển vốn giữa các chi nhánh trong nội bộ ngân hàng, do đó, không
làm thay đổi tổng nguồn vốn của ngân hàng. Việc chuyển và hoàn tất một lệnh

thanh toán được thực hiện thông qua mạng máy tính trong nội bộ của ngân
hàng.
2.2 Hệ thống thanh toán điện tử đa ngân hàng :
Thanh toán điện tử đa ngân hàng là hệ thống thanh toán giữa hai hay nhiều
ngân hàng thương mại (NHTM) hay các chi nhánh NHTM trong và ngoài hệ
thống, trên cùng địa bàn hoặc khác địa bàn. Hệ thống này được thể hiện dưới
hai hình thức: thanh toán song biên giữa hai ngân hàng thương mại và thanh
toán điện tử liên ngân hàng.

[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 5


2.3 Hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT :
SWIFT là từ viết tắt của Society for Worldwide Interbank Financial
Telecommunication. Đây là một tổ chức hoạt động theo đạo luật của Bỉ, có trụ
sở tại Brucxen. Tổ chức này hoạt động không vì lợi nhuận, cung cấp cho các
Ngân hàng thành viên một mạng riêng để chuyển giao dữ liệu trên phạm vi toàn
cầu. Mục đích hoạt động của SWIFT là chuyển những thông tin thanh toán
quốc tế an toàn, nhanh chóng, không dùng chứng từ giữa ngân hàng với ngân
hàng trên toàn thế giới. Mọi thông tin của SWIFT đều được mã hoá mà chỉ
những người có phận sự mới nắm được.
2.4 Hệ thống ngân hàng điện tử và dịch vụ E-banking :
Ngân hàng điện tử được hiểu là các nghiệp vụ, các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng truyền thống trước đây được phân phối trên các kênh mới như Internet,
điện thoại, mạng không dây và các phương tiện điện tử khác. Hiện nay, ngân
hàng điện tử tồn tại dưới hai hình thức: hình thức ngân hàng trực tuyến, chỉ tồn
tại dựa trên môi trường mạng Internet, cung cấp dịch vụ 100% thông qua môi

trường mạng; và mô hình kết hợp giữa hệ thống ngân hàng thương mại truyền
thống và điện tử hoá các dịch vụ truyền thống, tức là phân phối những sản
phẩm dịch vụ cũ trên những kênh phân phối mới.
Về nguyên tắc, thực chất của dịch vụ ngân hàng điện tử là việc thiết lập một
kênh trao đổi thông tin tài chính giữa khách hàng và ngân hàng nhằm phục vụ
nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng một cách nhanh chóng, an toàn và
thuận tiện. Sau rất nhiều tìm tòi, thử nghiệm và ứng dụng, hiện nay, dịch vụ
ngân hàng điện tử được các NHTM Việt Nam cung cấp qua các kênh chính sau
đây: Home banking, Internet banking, Phone banking, Mobile banking.
 Internet Banking: Là kênh phân phối các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng
cho khách hàng ở bất kỳ nơi đâu, chỉ cần với một chiếc máy tính có kết
nối Internet thì khách hàng có thể tìm kiếm, truy vấn thông tin về sản
phẩm dịch vụ Ngân hàng hoặc thực hiện được những dịch vụ mà Ngân
hàng cung cấp.
 Home Banking: Cho phép khách hàng thực hiện hầu hết các giao dịch
chuyển khoản, gửi lệnh thanh toán tại nhà, văn phòng công ty…ngay tại
nhà mà không cần phải đến ngân hàng.
 Phone Banking: Dịch vụ này mang đến cho khách hàng những tiện ích
mọi lúc, mọi nơi có dùng điện thoại cố định hoặc di động để có thể nghe
được các thông tin về sản phẩm dịch vụ Ngân hàng hay thông tin về giao
dịch trên tài khoản của mình thông qua hệ thống trả lời tự động 24/24.
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 6


 Mobile Banking: Là dịch vụ cho phép khách hàng thực hiện thanh toán
hóa đơn dịch vụ có liên kết với ngân hàng, chuyển khoản, kiểm tra thông
tin số dư, liệt kê giao dịch tài khoản, thông tin về tỷ giá, lãi suất… thông

qua đặc điểm, chứng năng sử dụng của điện thoại di động.
3. Những phương thức thanh toán không dùng tiền mặt :
Căn cứ theo Quyết định số 22/QĐ-NH1 ban hành về “Thể lệ thanh toán không
dùng tiền mặt” ngày 21/02/1994 của Thống đốc NHNN Việt Nam và Nghị định số
64/2001/NĐ-CP của Chính phủ Về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán ngày 20/09/2011, hiện nay nước ta đang áp dụng một số phương
tiện TTKDTM như sau :
 Thanh toán bằng thẻ ngân hàng;
 Thanh toán bằng séc;
 Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi;
 Thanh toán bằng ủy nhiệm thu;
 Thanh toán bằng thư tín dụng;
Mỗi mô hình thanh toán có nội dung kinh tế và yêu cầu kỹ thuật hạch toán khác
nhau nên đòi hỏi phải có bộ chứng từ, các tài khoản và kỹ thuật hạch toán phù hợp.
Còn việc vận dụng hình thức thanh toán nào là hoàn toàn do sự thoả thuận giữa bên
mua và bên bán, ngân hàng có trách nhiệm hướng dẫn cho khách hàng lựa chọn
những hình thức thanh toán thuận lợi nhất, hợp lý nhất.
3.1 Thanh toán bằng thẻ ngân hàng :
Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt hoặc có thể
dùng để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lí hoặc các máy rút tiền tự động. Thẻ
thanh toán chủ yếu phục vụ cho thanh toán cá nhân, thay cho tiền mặt thông
dụng trên toàn thế giới. Dùng thẻ thanh toán đã thay thế cho việc luân chuyển
một phần tiền mặt từ nơi này sang nơi khác, ở trong nước và nước ngoài, đem
lại những lợi ích kinh tế to lớn và văn minh ngân hàng.
Các thành viên tham gia vào một giao dịch thẻ bao gồm: Chủ thẻ (khách
hàng), cơ sở chấp nhận thẻ (nơi cung ứng hàng hóa dịch vụ), ngân hàng phát
hành, ngân hàng thanh toán.
Nếu xét về nội dung kinh tế thì thẻ thanh toán được chia thành 3 loại :
 Thẻ ký quỹ: Là thẻ trước khi phát hành khách hàng phải đến Ngân hàng
xin trích tài khoản của mình để lưu ký vào tài khoản “Tiền gửi thẻ thanh

toán” nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho thẻ. Loại thẻ này hiện rất
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 7


phổ biến ở Việt Nam, và thường được áp dụng cho những khách hàng
chưa có tín nhiệm đối với Ngân hàng.
 Thẻ không phải ký quỹ (thẻ ghi nợ): Là loại thẻ mà người sử dụng thẻ
không phải lưu ký số tiền để đảm bảo khả năng thanh toán cho thẻ, khi
thanh toán tiền được thực hiện trực tiếp từ tài khoản của người phát
hành thẻ. Loại này thường áp dụng đối với khách hàng có tín nhiệm với
ngân hàng.
 Thẻ tín dụng: Là loại thẻ khi phát hành khách hàng được ngân hàng cho
vay một số tiền nhất định, gọi là hạn mức tín dụng để đảm bảo thanh
toán thẻ. Hình thức này cũng có thể xem như một hoạt động tín dụng
của ngân hàng dựa trên hệ thống thanh toán điện tử.
3.2 Thanh toán bằng séc :
Séc là lệnh trả tiền của người phát hành séc trả cho người thụ hưởng. Trong
thời hạn hiệu lực thanh toán của tờ séc, người phát hành séc có nghĩa vụ thanh
toán cho người thụ hưởng và phải thanh toán ngay khi người thụ hưởng nộp séc
vào Ngân hàng.
Séc là một công cụ lưu thông tiền tệ đã có từ lâu đời và đã được sử dụng
một cách phổ biến trên khắp thế giới. Thể thức thanh toán bằng séc đòi hỏi việc
mua - bán và thanh toán diễn ra đồng thời cùng một lúc, tức là bên mua đồng ý
mua và trao cho bên bán tờ séc mà trên đó có ghi rõ số tiền bằng giá trị hàng
hóa đã nhận đủ. Séc phải được bảo quản chặt chẽ, nghiêm cấm ký, đóng dấu
khống để ngăn ngừa tham ô tài sản.
Thanh toán bằng séc có ưu điểm là thuận tiện, rút ngắn thời gian từ khi giao

hàng đến khi thu hồi vốn. Nhưng trong quá trình thực hiện cũng phát sinh nhiều
khiếm khuyết như: chủ tài khoản phát hành séc quá số dư hiện có tại ngân hàng,
trong trường hợp này, mặc dù đơn vị phát hành séc bị xử phạt chậm trả trả cho
người thụ hưởng, tuy nhiên bên thụ hưởng vẫn bị thiệt do vốn thu hồi chậm.
Mặt khác, séc có thể bị sửa chữa, thất lạc, mất cắp, nên đòi hỏi không được
buông lỏng khâu quản lý, phải kiểm tra, kiểm soát, bảo quản chặt chẽ và xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm.
Hiện nay, trong TTKDTM ở nước ta, thanh toán séc qua ngân hàng thông
dụng nhất là 02 loại: séc chuyển khoản và séc bảo chi.
 Séc chuyển khoản: do Chủ tài khoản phát hành để trả trực tiếp cho người
thụ hưởng. Séc chuyển khoản chỉ được áp dụng thanh toán trong phạm
vi giữa các khách hàng có tài khoản ở cùng một chi nhánh Ngân hàng
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 8


hoặc khác Ngân hàng nhưng các chi nhánh này có tham gia thanh toán
bù trừ trên địa bàn tỉnh, thành phố.
 Séc bảo chi : do chủ tài khoản phát hành được Ngân hàng đảm bảo chi
trả, lập theo mẫu séc chuyển khoản hoặc séc cá nhân. Người phát hành
séc phải lưu ý trước số tiền ghi trên tờ séc vào một tài khoản riêng để
Ngân hàng làm thủ tục bảo chi trước khi giao séc cho khách hàng.
3.3 Thanh toán bằng ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi :
 Ủy nhiệm chi :
Ủy nhiệm chi thực chất là lệnh chi tiền của chủ tài khoản lập theo mẫu in
sẵn của ngân hàng, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình (nơi mở tài khoản tiền gửi)
trích chuyển một khoản tiền từ tài khoản của mình trả cho người thụ hưởng.
Ủy nhiệm chi có thể thanh toán trong phạm vi một Ngân hàng hoặc khác

ngân hàng, có đặc điểm thanh toán nhanh, thủ tục đơn giản, do đơn vị mua chủ
động phát hành sau khi họ đã hoàn thành việc nhận hàng hóa hay dịch vụ của
bên bán. Như vậy, việc thu hồi vốn của bên bán bị phụ thuộc vào bên mua, nếu
bên mua gặp khó khăn về tài chính thì quyền lợi của bên bán cũng bị ảnh
hưởng. Mặt khác, áp dụng thể thức thanh toán bằng Ủy nhiệm chi thì khả năng
kiểm soát của ngân hàng bị hạn chế, vì quyền chủ động chi trả phụ thuộc vào
chủ tài khoản, nếu đến hạn trả tiền mà người mua chưa trả thì ngân hàng cũng
không kiểm soát được. Do vậy mà thể thức thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi
thường được áp dụng đối với các tổ chức kinh tế có sự tín nhiệm lẫn nhau trong
quan hệ mua bán và có khả năng tài chính tương đối ổn định.
 Ủy nhiệm thu :
Ủy nhiệm thu được áp dụng trong thanh toán tiền hàng và dịch vụ (trả tiền
điện, nước, cước phí bưu điện, v.v…) giữa người mua và người bán trên cơ sở
hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng. Thanh toán ủy nhiệm thu xuất phát do
người bán lập và nộp vào ngân hàng nơi mình mở tài khoản, để uỷ nhiệm cho
Ngân hàng thu hộ số tiền của người mua theo chứng từ thanh toán hợp lệ, hợp
pháp.
Ủy nhiệm thu có thể thanh toán trong phạm vi một Ngân hàng hay hai Ngân
hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ thống. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường,
hình thức thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu thường là thanh toán chậm trễ, vì
chứng từ xuất phát từ bên thụ hưởng, song theo nguyên tắc đòi hỏi phải ghi nợ
trước, ghi có sau nên chứng từ phải luân chuyển qua nhiều khâu gây vòng vèo
ách tắc trong thanh toán.
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 9


3.4 Thanh toán bằng thư tín dụng :

Thư tín dụng được dùng để thanh toán tiền hàng trong điều kiện bên bán đòi
hỏi bên mua phải có đủ tiền để chi trả ngay và phù hợp với tổng số hàng đã giao
theo hợp đồng hoặc đơn đặt hàng đã ký. Khi có nhu cầu, bên mua phải lập giấy
mở thư tín dụng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản tiền gửi (hoặc
tiền vay của ngân hàng) lưu ký vào tài khoản tiền gửi mở thư tín dụng, số tiền
bằng tổng giá trị hàng hóa đặt mua. Mức tiền tối thiểu của một thư tín dụng là
10 triệu đồng. Theo quy định, tiền gửi thư tín dụng không được hưởng lãi và
mỗi thư tín dụng chỉ dùng để trả cho một người bán. Thời hạn hiệu lực thanh
toán của thư tín dụng là 03 tháng kể từ ngày Ngân hàng bên mua nhận mở thư
tín dụng.
Hình thức này chủ yếu được sử dụng trong thanh toán quốc tế, nơi mà người
mua và người bán thường không quen biết nhau nên họ phải thận trọng trong
quá trình thanh toán.



















[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 10


CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG
TIỀN MẶT TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 – 2012
1. Định hướng của Chính Phủ về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt
tại Việt Nam qua các giai đoạn :
Với những lợi ích không thể phủ nhận từ hoạt động TTKDTM, Chính phủ Việt
Nam đã chú trọng phát triển vấn đề này từ những năm 2001. Tuy nhiên, chính thức
có Đề án với các động lực và giải pháp chi tiết nhằm thúc đẩy TTKDTM tại Việt
Nam chỉ mới bắt đầu được xác lập vào năm 2006 với Đề án số 291/2006/QĐ-TTG.
Tiếp theo những thành quả khả quan đã đạt được, Chính phủ lại tiếp tục thực hiện
giai đoạn 5 năm lần thứ hai với Đề án số 2453/QĐ-TTG. Giai đoạn này là thời gian
thực hiện kế hoạch lần hai, nhưng trước mắt đã đạt được những thành quả rất khả
quan và đáng khích lệ.
1.1 Giai đoạn 5 năm lần thứ 1 (2006 – 2010) và định hướng phát triển
thanh toán không dùng tiền mặt đến năm 2020 :
Ngày 29/12/2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
291/2006/QĐ-TTG về việc: Phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt
giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020 tại Việt Nam với các vấn
đề chính như sau:
Một số chỉ tiêu về hoạt động thanh toán đến năm 2010 và năm 2020:
- Đến cuối năm 2010 đạt mức phát hành 15 triệu thẻ, 70% các trung tâm
thương mại, siêu thị, nhà hàng, khách sạn, cửa hàng tự chọn v.v… lắp đặt
các thiết bị chấp nhận thanh toán thẻ. Phấn đấu đến năm 2020 con số này
đạt lần lượt là 30 triệu thẻ và 95%.

- Đến năm 2010 tỷ lệ tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán không quá
18%. Đến năm 2020 tỷ lệ này phấn đấu khoảng 15%.
Đạt mức 20 triệu tài khoản cá nhân vào cuối năm 2010; 70% cán bộ hưởng
lương ngân sách và 50% công nhân lao động trong khu vực doanh nghiệp,
tư nhân thực hiện trả lương qua tài khoản. Đến năm 2020 đưa những con số
này lên lần lượt là 45 triệu tài khoản cá nhân (bình quân mỗi người có 0.5
tài khoản - ở một số nước phát triển mỗi người hiện có hơn 1 tài khoản);
95% cán bộ hưởng lương ngân sách và 80% lao động được trả lương qua tài
khoản.
- Đạt mức 80% các khoản thanh toán giữa các doanh nghiệp với nhau thực
hiện qua tài khoản tại Ngân hàng đến cuối năm 2010 và đạt 95% đến năm
2020.
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 11


Định hướng phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam
đến hết năm 2020 :
- Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt phải phù hợp với trình độ phát
triển của nền kinh tế, hạ tầng kỹ thuật công nghệ và hệ thống thanh toán.
Các giải pháp xây dựng trong Đề án không mang tính hành chính, áp đặt,
gây tác động tiêu cực kìm hãm sự phát triển các hoạt động kinh tế - xã hội;
- Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt đặt trong mối quan hệ cân
bằng giữa lợi ích chung của cộng đồng và lợi ích của người sử dụng dịch vụ
thanh toán, của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; những biện pháp
hỗ trợ của Nhà nước chỉ mang tính chất ngắn hạn, nhằm tạo ra bước đột phá
ban đầu cho sự phát triển thanh toán không dùng tiền mặt;
- Các giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt hướng tới việc

sử dụng các biện pháp kinh tế là chủ yếu nhằm huy động các nguồn lực của
khu vực tư nhân để đầu tư phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Nguồn
lực của Nhà nước chỉ được sử dụng trong trường hợp nguồn lực của tư nhân
không đủ lớn hoặc cho những dự án mang tính chiến lược lâu dài, hình
thành cơ sở nền tảng để thúc đẩy sự phát triển chung của toàn bộ các hoạt
động thanh toán của nền kinh tế.
1.2 Giai đoạn 5 năm lần thứ 2 (2011 – 2015) :
Ngày 27/12/2011, Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 2453/QĐ-
TTG về việc Phê duyệt Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại
Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015 với các nội dung chính sau :
Mục tiêu tổng quát của Đề án là đa dạng hóa dịch vụ thanh toán, phát triển
cơ sở hạ tầng thanh toán, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thanh toán điện tử, chú
trọng phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực nông thôn để đáp
ứng tốt hơn nhu cầu thanh toán của nền kinh tế, giảm chi phí xã hội liên quan
đến tiền mặt, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt về tập quán thanh toán trong
xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng và hiệu
quả quản lí nhà nước.
Mục tiêu cụ thể :
- Phấn đấu đến cuối năm 2015, tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh
toán ở mức thấp hơn 11%; tăng mạnh số người dân được tiếp cận các dịch
vụ thanh toán, nâng tỷ lệ người dân có tài khoản tại ngân hàng lên mức 35 –
40% dân số; thực hiện mục tiêu của Kế hoạch tổng thể phát triển thương
mại điện tử giai đoạn 2011-2015.
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 12


- Bên cạnh đó, sẽ phát triển dịch vụ thanh toán thẻ, trọng tâm là phát triển

thanh toán qua điểm chấp nhận thẻ. Đến năm 2015, toàn thị trường có
khoảng 250.000 thiết bị chấp nhận thẻ được lắp đặt với số lượng giao dịch
đạt khoảng 200 triệu giao dịch/năm; áp dụng một số hình thức thanh toán
mới, phù hợp với điều kiện của khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Đề án cũng đã xác định ba nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn 2011-2015
như sau :
- Phát triển thanh toán điện tử với nhiều sản phẩm, dịch vụ mới, đa dạng, an
toàn, thuận tiện; trong đó trọng tâm là phát triển thanh toán qua điểm chấp
nhận thẻ để giảm thanh toán bằng tiền mặt, tạo thói quen thanh toán không
dùng tiền mặt trong bộ phận lớn dân cư.
- Lựa chọn áp dụng một số mô hình thanh toán phù hợp với Việt Nam để xây
dựng nền tảng, tạo bước phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt ở khu vực nông thôn, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà
nước về nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
- Đồng thời, tăng cường quản lý thanh toán bằng tiền mặt, giảm sử dụng tiền
mặt trong các giao dịch thanh toán.
 Bảng 01 : Tóm tắt một số mục tiêu phát triển thanh toán không dùng
tiền mặt của Chính phủ qua các Đề án phát triển :

291/2006/QĐ-TTG
2453/QĐ-TTG

2010
2020
2015
Tỷ lệ Tiền mặt/tổng
phương tiện thanh toán
< 18%
15%
< 11%

Tài khoản cá nhân
20 triệu TK
45 triệu TK
35 - 40% dân số
(~ >35 triệu TK)
Số lượng phát hành thẻ
15 triệu thẻ
30 triệu thẻ

Lắp đặt các thiết bị chấp
nhận thanh toán thẻ .
(Trung tâm thương mại,
siêu thị, v.v….)
70%
95%
250.000 thiết bị
Thanh toán giữa các
doanh nghiệp qua NH
80%
95%

[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 13


2. Thực trạng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai
đoạn 2006 – 2012 :
2.1 Đánh giá chung :

Một điều dễ nhận thấy là tại các nước phát triển, sự phát triển của
công nghệ, mức thu nhập bình quân đầu người khá cao cộng với sự hỗ trợ
của hệ thống chính sách vĩ mô đã khiến các công cụ và phương tiện
TTKDTM của các ngân hàng cũng như các tổ chức phi ngân hàng thuận tiện đến
mức tiền mặt lưu thông chỉ còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (thường chiếm khoảng <
1% - 3%).
Còn tại Việt Nam và một số nước đang phát triển lại tồn tại một thực
tế tương đối khác, dù cho tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán
của nước ta đã có chiều hướng giảm xuống đáng kể, nhưng tỷ lệ này là rất
cao khiến cho việc thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn rất phổ biến, nhất là các
hoạt động thanh toán ở khu vực dân cư.
 Bảng 2: Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán tại Việt Nam từ
năm 2006 – T07/2012 :
TT
Năm
Tỷ lệ tiền mặt /tổng
phương tiện thanh toán
(%)
Mức độ thay đổi
(%)
1
2006
17,21

2
2007
16,36
-0.85
3
2008

14,6
-1,76
4
2009
15,25
+0,65
5
2010
15,10
-0,15
6
2011
11,47
-3,63
7
07/2012
11,14
-0,33
(Theo Báo cáo hàng năm của Ngân hàng Nhà nước)

Số liệu của bảng 2 cho thấy, vào năm 2006 là năm đầu tiên thực hiện đề
án thúc đẩy TTKDTM giai đoạn 1, tỷ lệ TTKDTM trong tổng phương tiện
thanh toán là 17,21%. Đến năm 2010, qua 5 năm thực hiện, tỷ lệ này đã giảm
xuống còn 15,10%, đạt chỉ tiêu đã đặt ra theo kế hoạch là nhỏ hơn 18%. Đây
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 14



là một nỗ lực hết sức to lớn của Chính phủ và hệ thống Ngân hàng Việt Nam
lúc bấy giờ.
Bước vào giai đoạn 2 từ năm 2011, những số liệu tính đến 07/2012 lại cho
thấy tình hình tiến triển vượt bậc của tỷ lệ TTKDTM trong tổng phương tiện
thanh toán, hiện nay ước đạt chỉ khoảng 11,14% và có khả năng sẽ giảm
mạnh trong thời gian tới, vượt mức chỉ tiêu yêu cầu theo Đề án lần 2 đến năm
2015 là tỷ lệ này phải nhỏ hơn 11%.
 Biểu đồ 1: Tiền mặt lưu thông trong tổng phương tiện thanh toán tại
Việt Nam từ cuối năm 2011 đến tháng 07/2012 (%).

(Theo Số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước)
Xét về cơ cấu các phương tiện TTKDTM có thể nói, về thực tế các loại
hình thanh toán truyền thống như ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi giữa các doanh
nghiệp, cơ quan, hộ gia đình tại Việt Nam vẫn là chủ yếu và chiếm tỷ trọng
cao nhất, trên 70% mỗi năm. Với sự hạn chế về thông tin, bài tiểu luận chỉ
xin đưa ra những con số cụ thể về cơ cấu này trong quý II và quý III năm
2012 để làm minh chứng.

Bảng 3: Cơ cấu tỷ trọng các phương tiện thanh toán không dùng tiền
mặt quý II và III năm 2012 tại Việt Nam:
PTTT
SL (món)
Giá trị giao dịch
(triệu đồng)
Tỷ trọng
(%)
Quý II/2012
100%
Thẻ ngân hàng
4,947,737

17,730,386
0.18%
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 15


Séc
137,801
41,936,073
0.43%
Lệnh chi
29,159,534
7,345,218,954
74.56%
Nhờ thu
283,911
189,376,237
1.92%
PTTT khác
(*)

17,489,226
2,257,675,791
22.92%
Quý III /2012
100%
Thẻ ngân hàng
5,907,782

24,227,032
0.22%
Séc
117,879
42,661,804
0.38%
Lệnh chi
41,602,288
8,430,649,844
74.99%
Nhờ thu
342,166
229,378,523
2.04%
PTTT khác
(*)

20,361,487
2,515,512,296
22.38%
(Theo: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
(*): Phương tiện thanh toán khác gồm: Hối phiếu, Lệnh phiếu, Thư tín dụng nội
địa, SMS Banking, Mobile Banking, Phone Banking, Internet Banking, Giấy
chuyển khoản từ tài khoản vãng lai CA-Current Account,
2.2
Thực trạng thanh toán thẻ tại
Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012:
Có thể nói rằng trong khoảng năm năm trở lại đây, sử dụng thanh toán
bằng thẻ ngân hàng đang trở thành “điểm nhấn” chủ yếu trong công tác triển
khai hoạt động TTKDTM ở nước ta. Sự phát triển của công cụ thẻ thanh toán

đã tạo ra một hiệu ứng tích cực cho cộng đồng dân cư trong việc sử dụng dịch
vụ ngân hàng - tài chính, tăng tỷ lệ người dân sử dụng dịch vụ và giúp giảm
dần tỷ lệ TTKDTM trong nền kinh tế.
2.2.1 Hoạt động phát hành thẻ :

Bảng 4: Hoạt động phát hành thẻ giai đoạn 2006 – 2012 :
TT
Năm
Số NH phát hành
thẻ (lũy kế)
Tổng số thẻ phát hành
(triệu thẻ, lũy kế)
1
2006
17
5,1
2
2007
22
9,34
3
2008
25
15,03
4
2009
34
22
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]


Trang 16


5
2010
39
31,7
6
2011
41
40
7
09/2012
47
60
(Theo Số liệu của Hiệp hội thẻ Việt Nam)
Từ năm 2006, thẻ ngân hàng đã được đông đảo người dân đón nhận, có
tốc độ phát triển nhanh chóng và liên tục tăng dần qua các năm. Cụ thể, từ 5
triệu thẻ khiêm tốn cuối năm 2006, hiện nay con số này đã tăng lên đến 60
triệu thẻ vào tháng 9/2012, gấp 12 lần về số lượng và vượt qua chỉ tiêu cần
đạt 30 triệu thẻ vào năm 2020 theo Đề án 291 của Chính phủ.
Không những tăng về số lượng mà hoạt động thẻ còn tăng về chất lượng,
hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng về
thẻ, chi phí hợp lý, hình thức thanh toán phong phú như : thẻ định danh, thẻ
không định danh, thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng… trong đó nổi bật nhất là các sản
phẩm thẻ ghi nợ quốc tế và thẻ tín dụng quốc tế Visa, Master Card – loại thẻ
được chấp nhận thanh toán trên toàn thế giới, bất cứ đâu có sự hiện diện của
hai tổ chức thẻ là Visa và Mastercard.
2.2.2 Hoạt động phát triển hệ thống thanh toán thẻ :

Song song với việc phát triển về số lượng thẻ, các ngân hàng, tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán cũng rất quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng, máy
móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động thanh toán thẻ. Xét về số lượng, đến cuối
tháng 9/2012, tại Việt Nam, hiện có gần 14.030 máy ATM và hơn 94.500
máy POS, tăng lần lượt 550% và 570% so với cuối năm 2006.
Nhìn vào biểu đồ dưới đây ta có thể thấy trong giai đoạn 2006 – 09/2012,
mức độ phát triển số máy ATM vẫn tăng nhưng ngày càng chậm lại, số lượng
thẻ ATM vẫn tăng trưởng đều đặn và số lượng máy POS thì có xu hướng
tăng ngày càng cao. Điều này cho thấy các ngân hàng đang hướng đến tập
trung hơn vào máy POS để tăng tính tiện lợi cho người dân khi thanh toán
không dùng tiền mặt. Máy POS đã len lỏi vào các trung tâm mua sắm, nhà
hàng, khách sạn, shop thời trang… với tính năng tiện lợi,chi phí thấp hơn
nhiều so với đầu tư máy ATM (mỗi máy ATM đầu tư khoảng 500 triệu đồng
chưa kể chi phí thuê địa điểm, bảo trì máy, tiền mặt dự trữ trong máy…trong
khi một máy POS chỉ khoảng 20-30 triệu đồng, chi phí vận hành là không
đáng kể), chiết khấu của máy POS từ cửa hàng ( 1-3%) cao hơn rất nhiều so
với thu phí thẻ nội địa từ ATM (miễn phí nội mạng, ngoại mạng chỉ thu phí
3.300 đồng/ giao dịch).
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 17



Biểu đồ 2: Biểu đồ tăng trưởng số lượng máy ATM và máy POS tại
Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012 (ĐVT : máy)
2,500
4,855
7,670

9,731
11,294
13600
14043
14000
18471
24912
37000
54000
70000
94500
0
20,000
40,000
60,000
80,000
100,000
120,000
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Sep-12
Số máy POS
Số máy ATM

(Theo số liệu của Hiệp hội thẻ Việt Nam)
Máy ATM ở Việt Nam được xem như ví đựng tiền mặt di động, chủ yếu

người dân vẫn sử dụng máy ATM để rút tiền.Tuy nhiên máy ATM ở Việt
Nam vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng trong đề án thanh toán không dùng
tiền mặt của chính phủ. Việc rút tiền mặt từ máy ATM không trực tiếp làm
giảm thanh toán không dùng tiền mặt nhưng việc đem đến sự tiện dụng cho
người dân, thúc đẩy họ sở hữu thẻ ATM, tạo thói quen sử dụng thẻ; điều này
gián tiếp đưa họ đến với những dịch vụ khác của thẻ ATM trong đó có thanh
toán qua thẻ, chuyển khoản…
Về phát triển mạng lưới ATM:
Ngoài việc mở rộng hệ thống máy ATM
và cung cấp các dịch vụ cơ bản như rút tiền mặt, chuyển khoản, các ngân
hàng còn chủ động nghiên cứu và triển khai nhiều tính năng gia tăng trên hệ
thống ATM như thanh toán hoá đơn dịch vụ (điện, nước, viễn thông, bảo
hiểm ), góp phần mang lại tiện ích cho khách hàng và qua đó giúp giảm
thiểu việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán.
Về phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ - POS:
Bên cạnh việc gia
tăng về số lượng POS, các ngân hàng đã rất tích cực trong việc mở rộng
phạm vi ngành hàng phối hợp lắp đặt mạng lưới chấp nhận thẻ, trong đó chú
trọng các ngành kinh doanh bán lẻ, các đơn vị cung ứng dịch vụ hàng ngày
như dịch vụ taxi, dịch vụ bán vé tàu hoả,….
Điểm nhấn đáng kể của công tác phát triển mở rộng mạng lưới chấp nhận
thanh toán thẻ thời gian gần đây chính là hoạt động hợp tác kết nối mạng lưới
ATM, POS. Với sự chỉ đạo của NHNN, các công ty chuyển mạch thẻ
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 18


(Smartlink, Banknetvn và VNBC) đã hoàn thành kết nối liên thông hệ thống

ATM trên phạm vi toàn quốc, qua đó thẻ của một ngân hàng đã có thể sử
dụng để rút tiền và thanh toán tại hầu hết ATM của các ngân hàng khác.
Cũng theo chỉ đạo của NHNN, NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố, các
NHTM và các công ty chuyển mạch triển khai kết nối liên thông mạng lưới
POS trên toàn quốc, đến nay cơ bản hoàn thành kết nối về kỹ thuật trên toàn
quốc với sự tham gia của trên 30 NHTM (533 chi nhánh) và hỗ trợ xử lý
hàng triệu giao dịch với giá trị thanh toán hàng nghìn tỷ đồng qua hệ thống
POS được kết nối.
Việc thống nhất mạng lưới ATM/POS trên toàn quốc giúp tạo ra các tiện
ích và giá trị lớn hơn cho người sử dụng thẻ, tiết kiệm chi phí đầu tư mở rộng
mạng lưới POS, giảm tải cho hệ thống ATM. Nói chung, kể từ khi hoàn
thành kết nối liên thông hệ thống POS trên toàn quốc, nhận thức về thanh
toán thẻ qua POS đã có nhiều chuyển biến tích cực; tại các thành phố lớn, xu
hướng thanh toán bằng thẻ của dân cư đang tăng lên khá nhanh. Với các nỗ
lực mở rộng mạng lưới trên, doanh số thanh toán thẻ của các NHTM đã
không ngừng gia tăng qua các năm. Nếu năm 2006, doanh số thanh toán thẻ
quốc tế của toàn thị trường mới chỉ đạt hơn 470 triệu USD thì năm 2010, toàn
thị trường đạt gần 1.500 triệu USD, tăng gần 300% chỉ trong vòng 5 năm.
2.3

Thực trạng của một số phương thức thanh toán khác tại
Việt Nam
giai đoạn 2006 – 2012 :

2.3.1

Thanh toán thông qua séc :
Ở nước ta, thanh toán bằng séc đã ra đời từ những năm 1960 nhưng đến
nay, phương tiện thanh toán này ngày càng giảm cả về số lượng giao dịch và
giá trị giao dịch. Mặc dù thanh toán bằng séc có nhiều thuận lợi và nhanh

chóng trong giao dịch mua bán, người mua hàng ký séc đưa cho người bán và
người bán chỉ cần cầm séc và CMND ra ngân hàng là có thể nhận được tiền
hoặc được chuyển thẳng vào tài khoản nhưng vào năm 2011, tỷ lệ thanh toán
bằng séc mới chiếm khoảng 2% trong tổng thanh toán phi tiền mặt, trong đó
chủ yếu là thanh toán giữa các doanh nghiệp với nhau. Và đến cuối tháng
09/2012, tỷ trọng của hình thức thanh toán này chỉ còn chiếm 0,38% trong
tổng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.
2.3.2

Thanh toán thông qua “Ví điện tử” :
Trong bối cảnh khoa học công nghệ thông tin phát triển như vũ bão và
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, việc xuất hiện các
phương tiện và dịch vụ thanh toán mới, hiện đại như thẻ ngân hàng, thanh
toán qua internet, điện thoại di động đã thành một xu thế tất yếu và làm xuất
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 19


hiện một số tổ chức chuyên môn cung cấp các giải pháp và dịch vụ hỗ trợ cho
hoạt động thanh toán của các NHTM.
Thay vì tự phát triển các giải pháp công nghệ, đầu tư cơ sở vật chất cho
phát triển các sản phẩm dịch vụ của mình, một số NHTM đã sử dụng ngày
càng nhiều các giải pháp công nghệ và dịch vụ do các tổ chức chuyên môn đó
cung ứng. Thực tế trên thị trường Việt Nam những năm qua đã xuất hiện
nhiều tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng (TCTD) liên kết với các
ngân hàng thương mại để thực hiện cung ứng và hỗ trợ một số dịch vụ thanh
toán mới, hiện đại cho các khách hàng của các ngân hàng. Trong đó, đáng
chú ý nhất là hình thức thanh toán “Ví điện tử”.

Tính từ năm 2009 tới nay, NHNN đã cấp phép thí điểm dịch vụ ví điện tử
cho 6 công ty: VietUnion (Payoo), MobiVi, Smartlink, VNPay, VinaPay và
M-Service. Chỉ trong một năm hoạt động, khoảng 70.000 ví điện tử đã được
mở, trong đó Payoo (của VietUnion) có số lượng nhiều nhất: hơn 32.000 ví,
tiếp đó là VNPay với hơn 30.000 ví và MobiVi trên 7.000 ví. Giá trị giao
dịch qua ví đạt trên 5 tỷ đồng trong quý IV/2009 (tăng 330% so với quý
II/2009).
Đến cuối năm 2009 đã có 9 NHTM ký kết và triển khai dịch vụ ví điện tử,
110 đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử (tăng gần 1,5 lần so với cuối
tháng 6/2009). Tuy nhiên, những loại hình ví điện tử này mới chỉ dừng lại ở
dạng ví điện tử cho phép nạp tiền vào tài khoản để mua một số sản phẩm và
dịch vụ trực tuyến (chủ yếu là thẻ điện thoại, trò chơi trực tuyến…), chuyển
tiền giữa các tài khoản trong cùng mạng, nhưng lại không cho rút tiền ra.
Ngày 29/10/2010, mạng di động VinaPhone đã chính thức khai trương
dịch vụ ví điện tử MoMo. Đây là dịch vụ đầu tiên ở Việt Nam hỗ trợ người
tiêu dùng có thể thực hiện các giao dịch thanh toán điện tử ngay trên điện
thoại di động một cách nhanh chóng và thuận tiện. Dịch vụ ví điện tử MoMo
liên kết giữa VinaPhone với nhà cung cấp các dịch vụ trực tuyến lớn nhất tại
Việt Nam M-Service và hệ thống các ngân hàng lớn như Vietcombank,
Vietinbank, … Theo đó các thuê bao của di động của mạng này sẽ được
hưởng các tiện ích thanh toán, chuyển khoản ngay trên điện thoại di động của
mình.
Có thể nói các dịch vụ hỗ trợ thanh toán do các tổ chức khác không phải
là TCTD cung ứng tại Việt Nam trong thời gian tới sẽ tiếp tục có những bước
phát triển mạnh mẽ phù hợp với xu thế hiện nay trên thế giới, tạo thêm cơ hội
cho người tiêu dùng Việt Nam có nhiều lựa chọn kênh thanh toán hấp dẫn và
chi phí rẻ để thanh toán mua sắm hàng hóa, dịch vụ; từ đó góp phần thúc đẩy
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]


Trang 20


thanh toán không dùng tiền mặt và thương mại điện tử tại Việt Nam phát
triển.
3. Những vấn đề còn hạn chế trong thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt
Nam thời gian qua :
3.1 Trong hoạt động thanh toán bằng thẻ ngân hàng :
-

Nhìn chung, con số 60 triệu thẻ vào tháng 07/2012 không phản ánh được
thực tế số người sử dụng thẻ ở Việt Nam để cơ quan chức năng có thể
đánh giá và đưa ra chính sách phù hợp vì một người thường sở hữu rất
nhiều thẻ. Trong số 60 triệu thẻ thì phần lớn đều được sử dụng để rút tiền
mặt, đa số người dân đều quan niệm thẻ ATM nội địa chỉ để rút tiền mặt,
chuyển tiền; thẻ Visa,Mastercard mới có thể thanh toán ở máy POS. Bắt
nguồn từ sự tuyên truyền của các ngân hàng và cơ quan nhà nước, khi tiếp
thị thẻ ATM nội địa đại đa số các nhân viên ngân hàng đều quảng cáo về
tính cơ động của rút tiền mặt như: số lượng máy ATM, rút tiền được ở
nhiều ngân hàng, miễn phí thường niên, phí rút tiền thấp,v.v… mà không
đề cập đến mục đích quan trọng là thanh toán.
-

Số người sử dụng dịch vụ ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, lao
động ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhân viên công sở có thu nhập
cao và ổn định. Đại đa số dân cư, công chức, viên chức thuộc khu vực
chính phủ, lao động thuộc các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa tiếp cận với
các phương tiện và dịch vụ thanh toán.
-


Với dân số hơn 85 triệu dân thì bình quân 6.000 người có 1 ATM nhưng
số lượng máy ATM phân bổ chủ yếu ở các thành phố lớn, các khu công
nghiệp. Còn với các thiết bị tại điểm bán (POS), luôn có tình trạng một
đơn vị chấp nhận thẻ cùng tồn tại nhiều thiết bị POS của các ngân hàng
khác nhau để phục vụ cho các giao dịch bằng thẻ. Điều này thu hẹp đáng
kể phạm vi sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt so
với nhiều quốc gia trong khu vực hiện nay, ngay cả khi mật độ thiết bị
tương đương như ở các nước đó;
-

Tính cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ở mức thô sơ và phát triển dưới
mức tiềm năng. Cạnh tranh bằng thương hiệu, chất lượng dịch vụ chưa
phổ biến. Một số tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, thay vì sáng tạo ra
sản phẩm mới hoặc tạo ra giá trị gia tăng trên sản phẩm cùng loại trên thị
trường, nhiều đơn vị chỉ tập trung vào yếu tố giá cả nhằm đánh bại đối thủ
cạnh tranh. Ngoài ra, nhiều ngân hàng vẫn chỉ tập trung vào một nhóm
các đơn vị chấp nhận thẻ nhất định mà không nghiên cứu mở rộng, phát
triển các đơn vị mới, dẫn đến tình trạng một đơn vị chấp nhận thẻ có
nhiều POS, kéo theo tỷ lệ sử dụng POS không cao, đồng thời gây lãng phí
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 21


nguồn lực. Về dài hạn, tình trạng này sẽ phá vỡ sự phát triển bền vững của
thị trường thẻ và khó khăn cho việc mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận
thẻ của các ngân hàng nói riêng, ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện chủ
trương đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt.
-


Phí dịch vụ thanh toán còn khá cao và khó chấp nhận đối với những giao
dịch thanh toán mức trung bình, đặc biệt đối với các giao dịch liên ngân
hàng và liên tỉnh. Ngoài ra, một số phương tiện thanh toán khi sử dụng
khách hàng còn phải trả thêm phụ phí so với việc sử dụng tiền mặt;
-

Cơ sở hạ tầng ở các ngân hàng chưa có sự đồng bộ khi nhiều ngân hàng
có cơ sở hạ tầng kém, xử lý giao dịch chậm, dễ phát sinh lỗi, chuyển tiền
liên ngân hàng còn chậm. Đặc biệt sự phản ứng của các ngân hàng còn
chậm chưa phát huy được tối đa cơ sở hạ tầng gây quá tải vào các dịp lễ,
tết.
-

Nhiều ngân hàng nhỏ chú trọng phát triển thẻ nhưng không chú trọng xây
dựng cơ sở hạ tầng sẵn sàng trả phí hộ khách hàng ảnh hưởng đến sự phát
triển chung của ngành;
-

Một số đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn trong lĩnh vực thanh toán
chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn, tác phong phục vụ và
đạo đức nghề nghiệp.
3.2 Trong hoạt động thanh toán bằng séc:
-

Sự lo ngại của người bán hàng sợ tài khoản của người mua không còn đủ
tiền để thanh toán, hoặc séc giả dễ dẫn đến rủi ro làm cho giá trị giao dịch
qua séc ngày càng giảm.
-


Việc thanh toán séc cũng gặp không ít phiền phức nếu khách mua và
khách bán không có tài khoản ở cùng một ngân hàng, buộc các NHTM
phải thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của NHNN nhưng hiện tại,
NHNN chưa có Trung tâm thanh toán bù trừ séc.
-

Để có thể sử dụng séc, khách hàng phải có một tài khoản vốn tương đối
lớn trong ngân hàng để ngân hàng có thể phát hành séc, việc này dễ gậy bị
động cho khách hàng trong việc sử dụng vốn. Do đó, việc sử dụng séc
cũng bị hạn chế.
3.3 Trong hoạt động thanh toán bằng “Ví điện tử”:
Có thể nói, khá nhiều dịch vụ ví điện tử đã xuất hiện trên thị trường Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, người sử dụng đến giờ vẫn không mấy mặn mà với
loại ví công nghệ này. Một số hạn chế có thể nhận thấy từ loại hình thanh
toán này như sau :

-

Để ví điện tử hoạt động tốt cần có một cộng đồng chung và lớn mạnh
cùng sử dụng. Để gầy dựng cộng đồng, hầu hết các nhà cung cấp ví điện
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 22


tử đều đi theo hướng hợp tác với các nhà cung cấp dịch vụ lớn như điện,
nước, Internet, điện thoại… để thêm tiện ích thanh toán online. Tuy nhiên,
với việc thanh toán hóa đơn, người dùng vẫn chuộng thanh toán bằng
ATM hay dịch vụ Internet Banking của ngân hàng hơn việc đi đường

vòng chuyển tiền từ tài khoản ngân hàng sang trung gian là ví để thanh
toán.
-

Không chỉ ngại thanh toán qua đường vòng, điều khiến người dùng ngại
khi sử dụng ví điện tử vẫn là khoản phí phải trả khi giao dịch. Thông
thường, phí giao dịch của ví là 1% (thấp hơn rất nhiều so với phí giao dịch
của thẻ tín dụng) nhưng nhiều người dùng vẫn thấy tiếc.
-

Rất nhiều ví điện tử đang có mặt trên thị trường dẫn đến tình trạng “loạn
ví điện tử”, người sử dụng khó mà sàng lọc, đánh giá để chọn cho mình
một đơn vị cung cấp dịch vụ tốt. Ngoài ra, các ví điện tử hoạt động rời
rạc, không liên thông với nhau nên rất khó cho người sử dụng, giống như
trước kia chưa có sự liên kết giữa các ngân hàng làm việc rút tiền từ các
máy ATM rất khó khăn.
-

Ví điện tử về cơ bản khó sử dụng hơn so với các loại hình khác, người sử
dụng chưa hiểu rõ và chưa có được nhiều thông tin về loại hình dịch vụ
này. Do đó, thay đồi nhận thức và thói quen của người tiêu dùng khi tiếp
nhận một cái mới “còn mập mờ” quả thật là một rào cản khá nặng nề với
quá trình phát triển thanh toán bằng ví điện tử.













[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 23


CHƯƠNG III : NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI VIỆT NAM
1. Nguyên nhân tồn tại những hạn chế trong quá trình thúc đẩy thanh toán
không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2006-2012:
1.1 Cơ sở pháp lý còn nhiều lỗ hổng và thiếu đồng bộ:
- Nghị định số 64/2001/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hoạt động thanh
toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có ghi “ Các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu về
gửi và rút tiền mặt của người sử dụng dịch vụ thanh toán phù hợp với quy
định của pháp luật” (Điều 13). Do vậy, tiền mặt đã nghiễm nhiên trở thành
một công cụ thanh toán không hạn chế về đối tượng và phạm vi sử dụng.
Đây cũng chính là nguyên nhân để tạo ra một thói quen trong dân chúng,
trong các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế, đó là “việc
ưa thích sử dụng tiền mặt trong thanh toán.
- Luật Các công cụ chuyển nhượng có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2006
nhưng đến nay, Chính phủ chưa ban hành Nghị định, quy định thi hành, tuy
NHNN đã ban hành Quyết định số 44/2006/QĐ-NHNN ngày 5/9/2006 quy
định về thủ tục nhờ thu hối phiếu qua người thu hộ, đến nay trên thực tế, hối
phiếu chưa được các tổ chức kinh tế sử dụng trong giao dịch thương mại và

chiết khấu tại các NHTM. Ngày 11/7/2006, Thống đốc NHNN ra Quyết
định 30/2006/QĐ-NHNN về Quy chế cung ứng và sử dụng séc, nhưng đến
nay, séc vẫn chưa được nhiều người sử dụng, vì NHNN vẫn chưa thành lập
được các trung tâm bù trừ séc, qua đây có thể thấy Luật Các công cụ chuyển
nhượng đã ban hành từ lâu nhưng chưa đi vào cuộc sống.
- Hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán chưa hoàn thiện, mặc dù ngày
19 tháng 11 năm 2005 vừa qua, Luật Giao dịch điện tử đã được Quốc hội
thông qua, tạo hành lang pháp lý cho các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng hiện
đại, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia sâu rộng vào các hoạt động
thương mai điện tử, cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các chủ thể tham
gia kinh doanh trực tuyến trên mạng trong phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên,
luật vẫn còn khá nhiều lỗ hổng tạo điều kiện cho các đối tượng xấu khai
thác, chiếm đoạt tài sản của người sử dụng.
1.2 Cơ sở hạ tầng về công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu về thanh toán
không dùng tiền mặt:
- Hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ cho hoạt động TTKDTM phát triển chưa
đồng bộ giữa thành thị với nông thôn, bản thân cơ sở hạ tầng giữa các thành
[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 24


thị cũng chưa đồng bộ với nhau. Hiện tại vẫn tồn tại 3 hệ thống liên minh
thẻ nên khi có trục trặc, sự cố rất khó để tìm ra vướng mắc ở khâu nào để
tháo gỡ.
- Chất lượng, tiện ích mới trong TTKDTM còn hạn chế; các tiện ích thiết thực
và phổ biến chưa được triển khai mạnh. Các dịch vụ thanh toán trực tuyến
như Mobile Banking, Internet Banking, ví điện tử… mới chỉ dừng ở quy mô
nhỏ hẹp, chưa triển khai trên diện rộng để đáp ứng nhu cầu thanh toán nhỏ

lẻ của khách hàng.
- Hiện nay ở Việt Nam, hoạt động thanh toán qua thẻ vẫn còn khá mới mẻ với
đông đảo người dân. Họ mới tiếp cận với các hình thức như chuyển khoản,
rút tiền qua ATM chứ chưa phổ biến các ứng dụng khác như thanh toán mua
hàng hóa, dịch vụ. Hiện các điểm chấp nhận thẻ thanh toán chỉ có ở siêu thị,
nhà hàng, khách sạn lớn…trong khi chính các khu chợ và khu dân cư là nơi
thu hút người dân đến với thanh toán không dùng tiền mặt nhiều nhất.
1.3 Thói quen sử dụng tiền mặt của người dân:
- Hoạt động TTKDTM trong khu vực công, giữa các doanh nghiệp với nhau
vẫn còn một bộ phận sử dụng bằng tiền mặt.
- Việc TTKDTM trong dân cư còn nhiều hạn chế. Ngay cả khi ở các thành
thị, nơi có điều kiện thuận lợi cho phát triển TTKDTM như tại các siêu thị,
trung tâm mua sắm, việc sử dụng tiền mặt vẫn là chủ yếu do thói quen tâm
lý sử dụng tiền mặt của một bộ phận cơ quan, tổ chức và cá nhân còn phổ
biến.
1.4 Quan ngại về chi phí khi sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt :
- Đối với thẻ tín dụng, ngoài khoản phí duy trì thẻ thường niên, hầu như chủ
thẻ không phải trả thêm khoản phí nào Dù vậy trên thực tế, nhiều cửa hàng,
nhà hàng vẫn đẩy khoản phí này sang cho khách hàng chịu, có nơi còn thu
lố lên 5%. Những trường hợp bị thu hồi máy POS vì thu phí giao dịch của
khách hàng như nhà hàng Ngon ở TP.HCM rất hiếm hoi. Các ngân hàng tuy
dễ dàng phát hiện được hiện tượng này nhưng vì muốn mở rộng mạng lưới
thanh toán thẻ nên chủ yếu chỉ áp dụng hình thức nhắc nhở.
- Đối với ví điện tử, không chỉ ngại thanh toán qua đường vòng từ chuyển tiền
vào ví rồi từ ví chuyển đến người bán hàng, điều khiến người dùng dè dặt
khi sử dụng ví điện tử vẫn là khoản phí phải trả khi giao dịch. Thông
thường, phí giao dịch của ví là 1% (thấp hơn rất nhiều so với phí giao dịch
của thẻ tín dụng) nhưng nhiều người dùng vẫn thấy tiếc.



[Lớp : Cao học UEH – Đêm 4 – Khóa 22 Nhóm : 10 ]
[2012]

Trang 25


1.5 Quan ngại về rủi ro khi sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt :
- Đối với thẻ tín dụng, rủi ro bị đánh cắp thông tin khi thực hiện giao dịch
thanh toán là rất cao. Các khảo sát cho thấy việc bị mất trộm hay thất lạc
thông tin tài chính đang là quan tâm số một đối với người tiêu dùng trên
toàn thế giới, vượt qua những nguy cơ về khủng bố, bệnh dịch hay thảm họa
thiên nhiên. Do vậy, khi xảy ra một vụ mất cắp tài khoản, hay những rủi ro
khác phát sinh trong quá trình sử dụng thẻ, dễ làm người dân hoang mang lo
lắng.
- Ví điện tử đang phát triển tự phát, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngành ngân hàng
và xã hội, vai trò của ngân hàng đối với hình thức này chưa được đề cao.
Hiện vẫn chưa có khung pháp lý rõ ràng cho mô hình này như vốn pháp
định của doanh nghiệp là bao nhiêu để đảm bảo hoạt động của ví. Trong
điều kiện đó, cộng đồng người tiêu dùng vẫn phải cùng nhau tự đánh giá và
sàng lọc để chọn cho mình dịch vụ - sản phẩm có chất lượng và uy tín nhất.
2. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng thanh
toán không dùng tiền mặt :
2.1 Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý :
- Hoàn thiện và đồng bộ hóa môi trường pháp lý cho hoạt động TTKDTM, kể
cả việc bổ sung, sửa đổi một số nội dung liên quan đến hoạt động thanh toán
trong hai Dự án Luật Ngân hàng Nhà nước và Dự án Luật Các tổ chức tín
dụng, đến việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản dưới luật liên quan
đến các hình thức thanh toán hiện đại như thanh toán thẻ, thanh toán trực
tuyến qua Internet, điện thoại di động,…; hoặc liên quan đến hoạt động của
các tổ chức công nghệ thông tin, các tổ chức chuyên môn hóa trong một số

loại hình hỗ trợ dịch vụ thanh toán. Khung pháp lý rõ ràng, minh bạch, bảo
đảm vai trò hợp lý của NHNN trong việc đảm nhận vai trò giám sát hiệu
quả, cũng như bảo đảm cho thị trường một sự linh hoạt, năng động cần thiết
trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán cũng là một yếu tố quan trọng trong việc tăng cường lòng tin
của người sử dụng và giới doanh nghiệp vào các phương tiện, dịch vụ
TTKDTM.
- Phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các bên tham gia TTKDTM. Trên
cơ sở đó, việc tiến hành kiểm soát rủi ro pháp lý phải bảo đảm phù hợp với
các chuẩn mực thông lệ quốc tế; tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng,
đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường và dịch vụ của các chủ thể tham gia;
hình thành cơ chế bảo vệ khách hàng và bảo đảm quy trình giải quyết tranh
chấp khách quan.

×