Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Mỹ 2007 2009.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.05 KB, 31 trang )

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu Diễn giải
FED Cục dự trữ liên bang Mỹ
MBS Các khoản vay thế chấp
CDS Các bảo hiểm
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
CDO Các loại giấy tờ đảm bảo bằng tài sản
MBA Hiệp hội Ngân hàng cho vay thế chấp
IMF Quĩ tiền tệ Quốc tế
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
1. Biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng kinh tế Mỹ từ năm2003
2. Biểu đồ về chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ qua các năm
3. Biểu đồ về tỷ lệ thất nghiệp Mỹ từ năm 1990 đến năm 2006
4. Biểu đồ chỉ số DJIA từ đầu năm 2007 đến tháng 10/2009
5. Biểu đồ chỉ số S&P 500 từ đầu năm 2007 đến năm 2009
6. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ cao nhất trong vòng 26
7. Biểu đồ tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ
8. Biểu đồ số lao động bị sa thải tại Mỹ
9. Biểu đồ chỉ số SBT120 của Pháp năm 2008
10.Biểu đồ tăng trưởng GDP Việt Nam từ năm 2001-2009
11.Biểu đồ thể hiện giá trị xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2009 so với cùng kỳ năm 2008
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khủng hoảng tài chính của Mỹ 2007-2009 vừa qua là một điều ít ai ngờ, cả về mức độ
nghiêm trọng lẫn quy mô ảnh hưởng của nó lên hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu. Cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu dù đã đi qua nhưng hậu quả mà nó để lại cho nền kinh
tế của nhiều nước là rất nặng nề, thậm chí đến lúc này nhiều nước vẫn còn đang vật lộn trong
những khó khăn mà cuộc khủng hoảng qua đi vẫn còn để lại. Chỉ trong một khoảng thời gian
ngắn cuộc khủng hoảng xuất phát từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới


những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước
trên thế giới.
Vậy do đâu mà cuộc khủng hoảng tài chính này lại có sức phá hoại ghê gớm như vậy?
Nguyên nhân của nó là gì? Cuộc khủng khoảng đã tác động như thế nào đến nền kinh tế của
chính nước Mỹ và cả thế giới? Và riêng ở Việt Nam bị ảnh hưởng như thế nào từ cuộc khủng
hoảng của Mỹ? Qua đó chúng ta rút ra được những bài học kinh nghiệm nào từ cuộc khủng
hoảng này?
Xuất phát từ những vấn đề trên, nhóm chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu để từ đó có được
những hiểu biết một cách khái quát nhất về cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Mỹ 2007-
2009.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện nhằm mục tiêu:
- Tìm hiểu nguyên nhân và diễn biến của cuộc khủng hoảng Mỹ 2007-2009.
- Những tác động mà cuộc khủng hoảng gây ra cho chính nước Mỹ, các nước trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng.
- Những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ 2007-2009. Phạm vi
nghiên cứu là nền kinh tế Mỹ, nền kinh tế thế giới bao gồm Châu Âu và Châu Á và ở Việt
Nam nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu và tiếp cận vấn đề
- Sử dụng phương pháp hệ thống và phương pháp tổng hợp để nghiên cứu về nguyên nhân,
diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.
- Phương pháp thống kê, phân tích và suy luận trong tổng hợp số liệu.
5. Kết cấu của đề tài
2
Ngoài lời mở đầu, kết luận, đề tài còn được chia thành 3 chương
CHƯƠNG I. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính
CHƯƠNG II. Phân tích cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2007-2009
CHƯƠNG III. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn về tình tình tài chính của Mỹ và cả thế giới
như sau:
- Là đề tài tham khảo cho các đề tài nghiên cứu tiếp theo về tác động của cuộc khủng hoảng
kinh tế Mỹ đến các nước trên thế giới và quá trình khôi phục sau khủng hoảng.
- Giúp các nhà kinh tế, các doanh nghiệp có thêm sự hiểu biết để có những chiến lược kinh
doanh xuất nhập khẩu và Mỹ cũng như các nước trên thế giới cho phù hợp.
- Đặc biệt là giúp các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có thể rút ra những
bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng khoảng của Mỹ.
3
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.1 KHÁI NIỆM VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
Khủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến cho nó
không thể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất: (1) ổn định giá trị đồng tiền hoặc các
tài sản tài chính như một phương tiện giao dịch, cất trữ tài sản, và (2) là trung gian chuyển
vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất. Hệ quả là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi
quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với
lạm phát hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.
1.2 CÁC QUAN ĐIỂM VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH:
Có thể sơ bộ chia ra ba quan điểm chính về khủng hoảng tài chính:
 Nhóm thứ nhất: Những người theo chủ nghĩa tiền tệ (Monetarists), dẫn đầu là
Friedman và Schwartz (1963).
Họ cho rằng, khủng hoảng tài chính là do sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng, gây nên
sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư. Họ bỏ qua
những nguyên nhân thực, như sự sụt giảm hiệu quả của nền kinh tế, sự suy sụp của nhiều
doanh nghiệp. Vì vậy, theo họ sự can thiệp của Chính phủ là không cần thiết và thậm chí có
hại, chỉ vì những doanh nghiệp phải cho bị phá sản lại được cứu vớt, gây nên sự gia tăng quá
mức về cung tiền và dẫn tới lạm phát.
 Nhóm thứ hai: Đối lập với nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian View, dẫn
đầu là Kindleberger (1978) và Misky (1972).

Họ có quan niệm rộng hơn về khủng hoảng tài chính và tiền tệ, bao gồm sự sụt giảm của
hầu hết giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của nhiều công ty tài chính và phi tài chính, nạn giảm phát
có tổng cầu đầu tư và tiêu dùng, vì thế cần có sự can thiệp của Nhà nước. Điều đáng nói là họ
không đưa ra một đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, để làm tiền đề cho một
chính sách kích thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của Chính Phủ rất dễ dẫn đến lạm
phát và trí tuệ, như những người theo chủ thuyết tiền tệ.
 Nhóm thứ ba: Nhóm này nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính,
dẫn đầu là Stiglitz và Weiss (1981).
Theo họ, hoạt động của hệ thống tài chính, đặc biệt là ngân hàng, chịu rủi ro cao, do ngân
hàng đầu tư hay tổ chức cho vay thường không nắm rõ thông tin về khả năng sinh lợi và mức
độ rủi ro của dự án đầu tư bằng cá nhân hay tổ chức đi vay; tức là những người chủ dự án. Sự
khác biệt về thông tin hay sự thiếu minh bạch về thông tin các dự án, khiến cho hệ thống tài
chính có thể có vấn đề, bởi vì ngân hàng muốn ép lãi suất thực, cộng các phí dịch vụ cho vay
4
tăng lên để bù cho rủi ro mất vốn có thể xảy ra. Nhưng điều này lại khiến cho những dự án
cao nhất mới hy vọng có khả năng sinh lãi đủ cao nhất mới hy vọng có khả năng sinh lãi đủ
cao để trả nợ. Ngược lại, nếu đó là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với độ rủi ro ít (mức
sinh lãi thấp hơn), thì họ sẽ khó có thể được vay vốn.
Những người theo trường phái kinh tế học thể chế (institutional economics) cho rằng,
hoạt động của ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung, phải được giám sát hết
sức cẩn trọng, nhằm hướng cac giao dịch tới sự an toàn.
Nhìn chung, cho dù thuộc trường phái kinh tế nào, thì vẫn có một sự nhất trí rằng, hệ
thống tài chính cần phải được giám sát chặt chẽ, do tính phức tạp và rủi ro của hoạt động
này. Và việc thiếu sự quản lý, giám sát luôn dẫn đến bong bóng đầu cơ. Tuy nhiên, chỉ khi
việc mất cân đối vĩ mô trở nên rất nghiêm trọng, thì bong bóng đầu cơ mới có thể dẫn đến
khủng hoảng tài chính và kinh tế trên qui mô lớn.
5
CHƯƠNG 2: CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2007-2009
2.1. SƠ LƯỢC VỀ NỀN KINH TẾ MỸ
Kinh tế Mỹ, một nền kinh tế luôn được coi là lớn mạnh nhất thế giới, một câu nói cách

ngôn của các nhà kinh tế học là: “Khi nước Mỹ hắt xì hơi, thì cả thế giới đều bị cảm lạnh”.
Và câu nói trên đã trở thành sự thật khi nền kinh tế hùng mạnh này rơi vào khủng hoảng năm
2007.
Kinh tế Mỹ, với GDP nền kinh tế trị giá 15.000 tỷ USD chiếm tới ¼ kinh tế toàn cầu và
khi kinh tế Mỹ lâm nguy, kinh tế toàn cầu vì thế sẽ bị ảnh hưởng theo. Chúng ta sẽ cùng
“chẩn bệnh" kinh tế Mỹ qua các chỉ số
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế Mỹ từ năm 2003
Sự kiện ngày 11/9/2001 giống như một cái tát vào nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới.
điều này đã làm cho kinh tế Mỹ gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó chính phủ Mỹ lại tấp trung
cho các chiến dịch quân sự chống khủng bố mà quên đi việc phục hồi những thiệt hại kinh tế.
thâm hụt ngân sách mỗi lúc một nhiều hơn vì chi phí cho quân đội ngày càng nhiều.
 Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng kinh tế Mỹ từ năm2003
(Nguồn: Bộ Thương mại Mỹ)
Thông qua biểu đồ cho thấy kinh tế Mỹ tăng trưởng khá đều đặn từ quý 4 năm 2003 đến
quý 4 năm 2005, sau đó tăng trưởng nhảy vọt vào quý 1 năm 2006 rồi tụt dốc thê thảm và
đến quý 4 mới phục hồi. Năm 2007, kinh tế Mỹ khởi đầu đầy khó khăn, tăng trưởng vào quý
2, 3 và tụt dốc vào quý 4. Từ đây cũng bắt đầu của cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất trong
lịch sử kinh tế Mỹ. đây là một điều rất đáng chú ý vì đối với một nước có nền kinh tế đã phát
triển thì hầu như các chỉ số về phát triển kinh tế luôn ổn định. Nếu có một bước nhảy vọt nào
đó mà không lý giải được nguyên nhân cũng là một điều đáng lưu ý. Trong khi tốc độ phát
triển kinh tế của Mỹ từ 2003 – 2007 luôn biến đông không ngừng.
6
2.1.2. Tình hình lạm phát tại Mỹ qua các năm
 Biểu đồ 2: Biểu đồ về chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ qua các năm
(Nguồn: Bộ Thương mại Mỹ)
Tình hình lạm phát của Mỹ trong giai đoạn 2003- 2007 luôn ở mức khá cao, từ 3.4% đến
4.1 %. Nếu so với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì đây là những con số hoàn
toàn bình thường. nhưng với một đất nước đã phát triển như Mỹ thì điều ấy lại là một điểm
đáng chú ý. Thông thường ở các nước có nền kinh tế phát triển thì chỉ số lạm phát chỉ ở mức
dưới 2% nhưng nay con số thực tế đã hơn gấp dôi mức độ cho phép. Phải chăng kinh tế Mỹ

đang chệch ra khỏi quỹ đạo phát triển kinh tế của nó nhưng vì một lý do nào đó mà các nhà
kinh tế nước này vô tình lờ đi.
Một chỉ số tiếp theo quan hệ mật thiết với lạm phát là tỷ lệ thất nghiệp.
2.1.3. Tình hình thất nghiệp tại Mỹ từ năm 1990 đến hết năm 2006
 Biểu đồ 3: Biểu đồ về tỷ lệ thất nghiệp Mỹ từ năm 1990 đến năm 2006
(Nguồn: Bộ Phát Triển Lao Động Mỹ)
7
Cho đến nay sự chững lại của nền kinh tế đã dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng. Các
công ty hiện nay đang bắt đầu cắt giảm chi phí hoạt động và nhân công, tuy nhiên số lượng
chưa nhiều. đến năm 2004 tỷ lệ thất nghiệp có vẻ đã giảm đi. Nhưng điều đáng chú ý là tỷ lệ
thất nghiệp giảm không phải vì nhu cầu sản xuất gia tăng mà vì đáp ứng cho nhu cầu gia tăng
quân đội của Hoa Kỳ trong các cuộc chiến tại chiến trườn Iraq và trung đông.
Nhìn chung trong khoảng từ năm 2001 đến năm 2007, nền kinh tế Mỹ đã có những dấu
hiệu mập mờ cho một cuộc khó khăn về kinh tế khi các chỉ số về lạm phát và thất nghiệp
không ngừng tăng cao. Tuy nhiên đây chỉ là “tảng băng chìm” trong nền kinh tế và khi gặp
điều kiện thuận lợi sẽ tạo ra tác động cộng hưởng, mà cụ thể là việc khủng hoảng về nhà đất
và các yếu tố vĩ mô khác đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế này ngày càng trầm trọng.
2.2 NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ
Có thể thấy các nguyên nhân cơ bản dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ như sau:
2.2.1. Bong bóng bất động sản:
Mặc dù khủng hoảng xảy ra vào cuối năm 2007 đầu năm 2008 nhưng trước đó đã có
những biểu hiện không tốt làm tiền đề cho khủng hoảng. Nền kinh tế Mỹ đã có những dấu
hiệu suy thoái hiện rõ sau sự kiện 11/9, bắt đầu từ năm 2001 để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì
trệ, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục có những biện pháp tiền tệ để cứu nền kinh tế
đó là hạ thấp lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng, khuyến khích các ngân hàng mở rộng
cho vay trong lĩnh vực bất động sản. Chỉ trong thời gian ngắn từ tháng 5/2001 đến tháng
12/2002, lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5% xuống còn 1% vào giữa năm 2003. Khi
lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao. Đối
tượng cho vay cũng được mở rộng cho những người có thu nhập thấp và những người da
màu, một tiền lệ chưa từng có. Trong môi trường tín dụng dễ dãi, và không có sự quản lý

chặt chẽ, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay mạo hiểm, kể cả những người
nhập cư bất hợp pháp vay,dẫn tới cho vay và đi vay ồ ạt. Năm 2005, có tới 28% số nhà được
mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua chỉ để không, tổng giá trị tích lũy các khoản
tín dụng nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ đô la. Thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp,
cũng từ đó mà một bong bong bất động sản bắt đầu hình thành.
Vì dễ cho vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản giá
nhà sẽ tiếp tục lên liên tục. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị
thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có
lời. Trong khi đó các ngân hàng thấy thị trường quá tiềm năng và lợi nhuận cao nên cũng bắt
8
đầu xe rào cho những khoản vay dưới chuẩn vì tin vào việc bán lại tài sản thế chấp nếu có bất
lợi.
2.2.2. Chứng khoán hóa:
Một trong những nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ được cho là do sự
phát triển nhanh chóng của các sản phẩm tài chính thông qua chứng khoán hóa.
Về bản chất, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo
bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính sẵn có. Do đó, các nhà
đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro liên quan tới danh mục tài sản đảm bảo được
đem ra chứng khoán hóa.
Chính sách chung của chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân
nghèo và các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn
được thực hiện qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho
vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được đảm bảo bằng
các khoản vay thế chấp (MBS) rồi bán lại cho các nhà đầu tư phố Wall, đặc biệt là các ngân
hàng đầu tư khổng lồ như Bearns và Merrill Lynch. Sau khi mua các MBS thì các nhà đầu tư
sẽ nhận lại khoản tiền vừa lãi vừa gốc được chuyển đến hàng tháng từ các người vay tiền.
Các MBS có tính rủi ro cao thì đem lại lời nhiều hơn cho nhà đầu tư. Vì tính rủi ro của các
MBS mà các công ty bảo hiểm như AIG cũng nhảy vào để bán các bảo hiểm. bởi vì có sự
biến đổi các khoản vay thành các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng phục vụ cho thị

trường bất động sản không còn là sân chơi duy nhất của ngân hàng thương mại hoặc các
công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó trở nên một sân chơi mới cho các nhà
đầu tư trong và ngoài nước Mỹ và họ không biết rằng các hợp đồng cho vay bất động sản
dùng để đảm bảo là không đủ điều kiện. Chính những chứng khoán loại này và sự góp tay
mạnh mẽ của các các nhà đầu cơ mà bong bong bất động sản ngày càng được thổi to hơn.
Tuy nhiên việc hình thành, mua bán và bảo hiểm MBS là vô cùng phức tạp cho nên nó
diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm
soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên
cạnh đó bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản cho vay để các công ty khác biến chúng
thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp
khả năng trả nợ của người vay.
Chiến lược trên được đưa ra với mục đích giảm rủi ro cho những khoản vay bất động sản.
Tuy nhiên, trái lại nó tạo ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền và khiến rủi ro bị đẩy lên cao hơn.
9
2.2.3. Sự quản lý lỏng lẻo của Chính phủ:
Các NHTM đã huy động vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn vào một lĩnh vực khá nhạy
cảm là bất động sản, mặc dù để đảm bảo khả năng thu hồi nợ họ đã bán các khoản vay này
cho các tổ chức tài chính và đã để lại cho nền kinh tế, thị trường tài chính rủi ro rất lớn. Đó là
rủi ro vỡ nợ khi giá của các tài sản dài hạn là bất động sản xuống thấp hớn giá trị các khoản
nợ ngắn hạn và rủi ro thanh khoản do việc đi vay ngắn hạn nhưng lại cho vay dài hạn. Rủi ro
này sẽ tăng lên gấp bội trong điều kiện thiếu sự kiểm soát và giám sát của chính phủ.
Không có sự giám sát chặt chẽ về quy trình và phương pháp đánh giá MBS của các tổ
chức định mức tín nhiệm và đã gây ra hậu quả nghiêm trọng. Trong giai đoạn thị trường
bùng nổ, các tổ chức này dễ dãi đánh giá cao nhiều MBS/CDO dẫn tới giá trị các chứng
khoán này được thổi phồng lên. Khi thị trường lâm vào khó khăn, các tổ chức định mức tín
nhiệm lại định giá thấp đối với nhiều MBS/CDO (tính đến tháng 11/2007) buộc các nhà đầu
tư, mà hầu hết là những người chỉ được phép giữ những tài sản bảo đảm phải bán tống bán
tháo gây ra dư thừa cung và sự mất giá của nhiều MBS/CDO. Như vậy, một dòng tiền lớn
được huy động không phải chỉ từ nước Mỹ đổ vào thị trường bất động sản ở Mỹ.
Đến năm 2005, khi lạm phát tăng lên quá cao, FED đã tăng lãi suất thực hiện thắt chặt

tiền tệ. những người thu nhập thấp giờ đây những người thu nhập thấp không còn khả năng
trả nợ hàng tháng đành thanh lý những căn nhà cầm cố cho các ngân hàng. Bong bong bất
động sản bắt đầu xì hơi sau thời kì phát triển quá nhanh.
Từ những tác động đó, bong bóng nhà đất vỡ làm nhiều người vay đã không có khả năng
trả được nợ cũng rất khó bán bất động sản và kể cả bán được thì giá trị của bất động sản cũng
giảm tới mức không đủ để thanh toán các khoản vay dẫn tới bị tịch biên nhà thế chấp. Nhưng
giá nhà xuống khiến tài sản tịch biên không bù đắp nổi khoản ngân hàng cho vay, khiến các
ngân hàng rơi vào khó khăn. Sau khi bong bóng nhà đất vỡ các cá nhân gặp khó khăn trong
việc trả nợ. Các tổ chức tín dụng phải gánh chịu hậu quả đầu tiên bởi các khoản cho vay dễ
dãi của họ không có khả năng thu hồi. Các khoản vay này lại được chứng khoán hóa và bán
cho giới đầu tư khiến tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi giới đầu tư bị thiệt hại nặng nề.
Đến lượt mình giới đầu tư lại bán tháo các khoản đầu tư đang nắm trong tay khiến chúng rớt
giá thảm hại gây thiệt hại nặng cho ngân hàng đầu tư. Các ngân hàng đầu tư sụp đổ khiến các
khoản ủy thác đầu tư của công chúng bốc hơi Cơn địa chấn tài chính ở Hoa Kỳ chắc chắn
sẽ khiến nhiều thị trường tài chính, nhiều ngân hàng trên thế giới bị rung động theo, bởi hàng
loạt ngân hàng lớn trên thế giới đã đầu tư mua lại trái phiếu MBS.
2.3. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG ĐẾN NỀN KINH TẾ MỸ
2.3.1. Thị trường chứng khoán
10
Chỉ số DJIA (Dow Jones Industrial Average) giảm từ đỉnh 14093.8 điểm thiết lập ngày
12-10-2007 xuống mức đáy 6547.5 điểm ngày 09/03/2009. Tính đến ngày 02/11/2009
(9789.44 điểm), gần 2 năm từ khi bắt đầu khủng hoảng, chỉ số DJIA vẫn mất gần 30% giá trị.
 Biểu đồ 4: Biểu đồ chỉ số DJIA từ đầu năm 2007 đến tháng 10/2009
(Nguồn: Bloomberg)
Tương tự, S&P 500 (Standard & Poor's 500), một chỉ số phản ánh bao quát thị trường cổ
phiếu Mỹ cũng từ mức đỉnh thiết lập ngày 12/10/2007 (1561.8 điểm) xuống còn 676.53 điểm
ngày 09/03/2009.
 Biểu đồ 5: Biểu đồ chỉ số S&P 500 từ đầu năm 2007 đến 2009
(Nguồn: Bloomberg)
Như ta thấy trên biểu đồ, vào tháng 9 năm 2008, thị trường chứng khoán đột ngột đi

xuống, tin xấu về các công ty liên tục xuất hiện. Thị trường giảm đột ngột đến nỗi Ủy Ban
Chứng Khoán Mỹ (SEC - U.S. Securities and Exchange Commission) đã phải ra lệnh cấm
bán khống trong vòng 3 tuần để giúp các công ty được ổn định (mặc dù về sau chủ tịch SEC
đã tỏ ra hối hận vì quyết định này).
2.3.2. Thị trường bất động sản
11
Khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp tăng đã khiến hơn 13% trong số gần 45 triệu người vay
cầm cố mua nhà tại Mỹ mất khả năng thanh toán, dẫn tới nguy cơ bị tịch thu nhà. Đây là con
số cao nhất trong lịch sử nước này.
Hiệp hội Ngân hàng cho vay thế chấp (MBA) công bố con số kỷ lục 13% số người vay
cầm cố mua nhà tại Mỹ không có khả năng thanh toán tiền. Trong số này, hơn 4% đã bị
ngân hàng tịch thu nhà, khoảng 9% khác đã trễ hạn thanh toán ít nhất một lần và đang trong
nguy cơ không còn giữ được căn nhà đã mua.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, tình trạng tịch biên nhà siết nợ
tiếp diễn tại các thành phố ở Mỹ khiến nhiều người mất nhà và nhiều người thuê nhà trở
thành vô gia cư.
Theo hãng tin AP, làn sóng tịch biên nhà siết nợ đã lan tới các khu phố cổ của Mỹ, số
người mất nhà lên tới con số kỷ lục. Tại thành phố Los Angeles, năm 2007 có tổng cộng
1.690 căn hộ trong các tòa nhà bị tịch thu siết nợ, đến năm 2008, con số đã lên tới 4.789 nhà.
Trong năm 2007, gần 1,3 triệu bất động sản ở Mỹ bị tịch thu để thế nợ, tăng 79% so với năm
2006.
Ngày càng nhiều chủ nhà đất tiếp tục nhận được thông báo tịch thu tài sản để thế nợ, cụ
thể là cứ 519 hộ thì một nhận được hồ sơ tịch thu tài sản để thế nợ trong tháng 4-2008. Xây
dựng quá nhiều trong thời kỳ bùng nổ, tỷ lệ tịch thu tài sản để trả nợ tăng. Việc rất nhiều chủ
sở hữu nhà không sẵn sàng bán nhà với mức giá đã bị giảm đi, làm tăng đáng kể lượng cung
nhà khả dụng. Số lượng bán nhà mới giảm 26,4% vào năm 2007 so với năm trước đó. Tính
đến tháng 1-2008, thời gian trung bình một nhà mới không bán được là 9,8 tháng, dựa vào
khối lượng bán vào tháng 12-2007, mức cao nhất kể từ năm 1981. Hơn nữa, một con số kỷ
lục, gần 4 triệu nhà hiện không bán được, bao gồm gần 2,9 triệu nhà bỏ trống.
Cuộc khủng hoảng tín dụng bắt đầu trầm trọng vào cuối năm ngoái đã làm đình trệ các

khoản vay thế chấp và những loại hình vay vốn khác, chính điều đó đã gây ra tác động xấu
lên thị trường bất động sản. Tình hình đã dần được cải thiện trong thời điểm hiện tại nhưng
những hậu quả to lớn từ suy thoái sẽ cần rất nhiều thời gian để khắc phục.
Không thể trông chờ giá cao ốc văn phòng tăng ít nhất là cho đến năm 2012 bởi thực tế
hiện nay điều này phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ hồi phục của nền kinh tế cũng như nhu cầu
về lực lượng lao động. Thị trường bất động sản bán lẻ và khách sạn cho thuê cũng cần thêm
thời gian để hồi phục vì những lĩnh vực này phụ thuộc khá nhiều vào chi tiêu của người tiêu
dùng và kinh doanh du lịch. Dù chỉ số công nghiệp Dow Jones đã vượt mức 10 nghìn điểm
12
và hy vọng vào đà phục hồi kinh tế ngày một tăng lên, số liệu từ quý 3/2009 cho thấy tình
hình thu hồi nhà vẫn đang hết sức căng thẳng.
2.3.3. Hệ thống tài chính-Ngân hàng
Trong báo cáo về Kinh tế thế giới tháng 4/2008, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra thông
điệp cảnh báo rằng sự lan rộng và ăn sâu của cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất có thể ảnh
hưởng sâu sắc đến hệ thống tài chính và các yếu tố kinh tế vĩ mô của Mỹ và một số nước
khác. Cuộc khủng hoảng tín dụng đã gây nên một cú sốc tài chính nặng nề nhất kể từ cuộc
đại suy thoái đến nay, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới thị trường và các tổ chức tài chính
vốn là hạt nhân của hệ thống tài chính.
Trung tâm tài chính nổi tiếng Phố Wall cũng phải chao đảo vì cơn khủng hoảng. Những
tên tuổi lớn như City Group, Merrill Lynch, Bear Stearns, Lehman Brothers, Goldman Sachs,
Morgan Stanley … đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng lần này. City Group lỗ
21tỷ USD, còn Merrill Lynch cũng mất 25 tỷ USD,… Cổ phiếu của các ngân hàng đầu tư rớt
giá thảm hại, trong đó cổ phiếu của Bear Stearns là cổ phiếu sụt giảm nặng nhất, kể từ ngày
9/10/2007 tới ngày 22/4/2008 đã mất đi hơn 90% giá trị, tương đương 16,7 tỷ USD giá trị thị
trường, cổ phiếu của Countrywide Financial mất giá 70,74%, tương đương 7,88 tỷ USD.
Tính đến tháng 7/2008, tổng thiệt hại của các ngân hàng đầu tư và các tổ chức tài chính Mỹ
ước tính lên tới 435 tỷ USD.
Ngày 7/9, Chính phủ Mỹ buộc phải chi 200 tỷ USD để tiếp quản Fannie Mae và Freddie
Mac – hai tập đoàn cho vay thế chấp sở hữu và bảo lãnh trên 5.000 tỉ đôla bất động sản,
tương đương gần 50% giá trị thị trường bất động sản Mỹ, sau những báo động về tình trạng

cạn kiệt vốn của 2 tập đoàn này. Sự sụt giá trên thị trường bất động sản và các khoản đầu tư
tài chính - bất động sản nhanh chóng làm hao hụt nguồn vốn và hạ thấp chỉ số tín dụng của
các tập đoàn tài chính – ngân hàng.
Sự kiện Lehman Brothers mất hàng chục tỷ USD giá trị cổ phiếu chỉ trong vài ngày và
phải tuyên bố phá sản không chỉ chấn động và làm đảo lộn thị trường tài chính Phố Wall mà
còn tạo nên cơn địa chấn toàn cầu đẩy cuộc khủng hoảng lên đỉnh điểm mới. Ngân hàng đầu
tư này với 158 năm lịch sử và trên 26.000 nhân viên đã tuyên bố phá sản với tổng số tiền nợ
lên tới 768 tỷ USD, bao gồm 613 tỷ USD nợ ngân hàng và 155 tỷ USD nợ trái phiếu. Cho
đến cuối năm 2007, doanh thu của ngân hàng còn là 59 tỷ USD với 4,2 tỷ lãi ròng.
Khả năng sụp đổ dây chuyền khiến các nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu của AIG - tập đoàn
bảo hiểm lớn nhất thế giới vì lo ngại AIG sẽ không đảm trách nổi những khoản bảo hiểm phá
sản. Chỉ trong vòng vài ngày, cổ phiếu của AIG đã mất tới 90% giá trị và FED đã phải chi 85
13
tỷ USD để giải cứu AIG khỏi nguy cơ phá sản. Tuy nhiên, danh sách các nạn nhân chưa
dừng lại ở đó. Khi mà Chính phủ Mỹ sắp đạt được một gói giải pháp tổng thể có chi phí lớn
nhất trong lịch sử lên tới 700 tỷ USD nhằm giải cứu thị trường tài chính Mỹ thì ngày 25/9
ngân hàng tiết kiệm lớn nhất nước Mỹ là Washington Mutual Inc (WaMu) sụp đổ. Đây là vụ
đỗ vỡ kinh hoàng thứ 6 liên tiếp trong tháng tại phố Wall. Ngoài những ngân hàng và tổ chức
tài chính nói trên, hiện nay đang có tới 117 ngân hàng và tổ chức tài chính khác đang đứng
trước nguy cơ phá sản.
Như vậy, tính tới thời điểm này, cuộc khủng hoảng đã khiến:
Ngân hàng đầu tư Lehman Brothers, WaMu, Indy Mac phá sản.
Ngân hàng đầu tư Bear Stearns và Merry Lynch bị mua lại.
Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs và Morgan Stanley buộc phải chuyển đổi mô hình kinh
doanh sang tập đoàn ngân hàng đa chức năng.
Fannie Mae và, Freddie Mac và AIG bị Chính phủ Mỹ tiếp quản
2.3.4. Tỷ lệ thất nghiệp
Theo số liệu từ Bộ Lao động Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 2 tiếp tục tăng mạnh lên
8,1% - mức cao nhất trong vòng 26 năm qua.
Số lượng người mất việc trong tháng 2/2008 lên tới 651.000 người, cao hơn nhiều so với

mức dự đoán trước đó. Đây là tháng thứ 3 liên tiếp số lượng người mất việc làm vượt ngưỡng
600.000/tháng, mức cao nhất kể từ năm 1946. Trong tháng 12/2008 và 1/2009, tổng số người
mất việc tương ứng là 655.000 và 681.000 người. Như vậy chỉ trong ba tháng, số người mất
việc tại nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã tăng thêm 2 triệu người nâng tổng lượng người
mất việc lên mức 12,5 triệu người.
 Biểu đồ 6: Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ cao nhất trong vòng 26 năm
(Nguồn: Bộ Phát Triển Lao Động Mỹ)
Theo số liệu được khảo sát tại các hộ gia đình, số lao động thất nghiệp trong Tháng 7 tại
Mỹ là 14.5 triệu người, đưa tỷ lệ thất nghiệp tại quốc gia này lần đầu tiên kể từ thời điểm
14
khủng hoảng bùng phát có sự sụt giảm từ mức 9.5% trong Tháng 6 xuống còn 9.4% trong
Tháng 7 vừa qua.
 Biểu đồ 7: Biểu đồ tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ
(Nguồn: U.S. Bureau of Labor Statistics)
Cũng trong Tháng 7, số lao động bị sa thải là 247,000 người, tính trung bình trong Quý
II/2009 thì số lao động mất việc làm trong Quý chỉ còn 331,000 người, giảm hơn một nửa so
với con số 645,000 trong Quý I/2009 trước đó.
 Biểu đồ 8: Biểu đồ số lao động bị sa thải tại Mỹ
(Nguồn: U.S. Bureau of Labor Statistics)
Suy thoái kinh tế đã làm mất đi tổng số 6,9 triệu việc làm kể từ khi bắt đầu vào tháng 12
năm 2007. Hiện nay, có 14,9 triệu người Mỹ thất nghiệp. Cắt giảm việc làm diễn ra trên
nhiều lĩnh vực:
• Ngành
xây dựng mất khoảng 65 ngàn việc.
• Các nhà
máy cắt giảm 63 ngàn.
• Các nhà
bán lẻ giảm dần 9,6 ngàn vị trí.
• Khu vực
tài chính giảm 28 ngàn việc.

15
• Các
ngành dịch vụ kinh doanh và chuyên ngành giảm 22 ngàn.
• Khu vực
Chính phủ thậm chí giảm 18 ngàn việc làm.
• Các
ngành giáo dục và y tế là điểm sáng duy nhất tăng thêm 52 ngàn việc làm.
Trong khi các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách kinh tế của Cục dự trữ Nền
kinh tế sẽ tăng trưởng và phục hồi vào khoảng cuối của năm 2009 nhưng tỷ lệ thất nghiệp
tăng cao, các điều kiện của thị trường lao động vẫn còn rất yếu nên rất nhiều công ty dường
như rất cẩn trọng trong việc tuyển dụng thậm chí ngay cả khi nền kinh tế được cải thiện.
Một số nhà kinh tế tin tưởng gói kích thích kinh tế 787 tỷ USD, cắt giảm thuế, tăng chi
tiêu, đi cùng với chương trình tiêu thụ ô tô "Cash for Clunkers" sẽ góp phần vào sự hồi phục
kinh tế nhưng điều đó dường như vẫn làm họ quan ngại về chuyện gì sẽ xảy ra khi tác động
của những nỗ lực kích thích kinh tế sẽ bị mờ nhạt đi trong năm tới. Chương trình kích thích
kinh tế này vẫn còn bị nhiều chỉ trích từ phía Đảng Cộng hòa. Họ cho rằng chương trình kích
thích kinh tế quá tốn kém và không thích ứng được với thực tiễn khi hàng triệu người Mỹ
vẫn bị mất việc làm.
Thực tế số liệu cho thấy, số việc làm bị cắt giảm và tỷ lệ thất nghiệp vẫn đang tăng, là
thách thức lớn đối với sự phục hồi nền kinh tế của Hoa Kỳ.
Hàng triệu người dân Mỹ đang tìm kiếm việc làm có nguy cơ phải thất nghiệp lâu dài bởi
các ngành công nghiệp phải tiến hành nhiều thay đổi lớn và một số kỹ năng trở nên không
còn phù hợp với hoàn cảnh kinh tế Mỹ sau đợt suy thoái tồi tệ nhất trong 70 năm qua.
Giới phân tích chỉ ra rằng có dấu hiêu cho thấy nạn thất nghiệp tại Mỹ có thể sẽ để lại
những hậu quả về mặt cơ cấu việc làm, mặc dù quy mô có thể không đo hết được khi cuộc
khủng hoảng bắt đầu từ tháng 12/2007 còn chưa kết thúc.
Những người bị mất việc trong một thời gian dài sẽ có nguy cơ mai một kỹ năng và bị các
nhà tuyển dụng đánh giá thấp hơn so với những người không có việc làm trong thời gian
ngắn hơn. Theo Charles Kramer, trưởng đại diện của IMF tại Mỹ, những người như vậy sẽ
ngày càng nản chí hơn và có khả năng sẽ bị loại hoàn toàn ra khỏi lực lượng lao động. Điều

này không chỉ ảnh hưởng tới họ mà còn tác động tới cả nền kinh tế. Chi phí dành cho các
chương trình thất nghiệp sẽ là một gánh nặng đối với chính phủ trong khi thâm hụt ngân sách
đã lên tới 1.800 tỷ đôla.
16
Các nhà phân tích chỉ ra rằng trong các đợt suy thoái trước kia, thời gian thất nghiệp
trung bình không bao giờ vượt quá 26 tuần. Trong khi đó con số này đã bị vượt qua. Kể từ
khi đợt suy thoái lần này bắt đầu, 7,2 triệu người đã bị mất việc làm. Đợt suy thoái lần này là
dài ngày nhất kể từ thập kỷ 30, bắt đầu từ sự sụp đổ của thị trường nhà ở Mỹ và khủng hoảng
tín dụng toàn cầu kéo dài.
2.3.5. Làm suy yếu địa vị của nền kinh tế Mỹ
Sự thay đổi quan trọng nhất cuộc khủng hoảng mang lại có lẽ là vai trò của Mỹ trong nền
kinh tế thế giới.
Trong 10 năm gần đây, người tiêu dùng Mỹ luôn là lực lượng điều khiển chính của tăng
trưởng kinh tế toàn cầu. Sau khi cuộc khủng hoảng nổ ra, thế giới không còn tiếp tục mong
chờ người tiêu dùng Mỹ dẫn dắt thế giới thoát ra khỏi khủng hoảng nữa, mà bắt đầu tìm kiếm
động lực phát triển kinh tế mới, chuyển sự quan tâm sang các nước khác hoặc thị trường nội
địa. Có thể nói cuộc khủng hoảng đã bộc lộ những hạn chế về thực lực của nền kinh tế Mỹ,
làm nổi bật sức mạnh kinh tế của Trung Quốc, Ấn Độ…
Tuy nhiên, Mỹ vẫn là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới. Kinh tế thế giới không thể
thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào Mỹ chỉ sau một đêm, cũng không có nước nào trong một đêm
có thể thay thế vị trí của Mỹ. Nhưng ít nhất, chúng ta có thể mong chờ tương lai kinh tế thế
giới sẽ không còn một “động cơ” là Mỹ mà sẽ có nhiều “động cơ”.
2.4. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG ĐẾN NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI.
2.4.1. Tác động đến Châu Âu
2.4.1.1. Thị trường bất động sản.
Sự sụp đổ của thị trường nhà đất Mỹ lan ra và trở thành một hiện tượng toàn cầu
Giá nhà đất trên khắp thế giới sụt giảm mạnh
Giá nhà đất tại Anh trung bình giảm 10,5%, mức giảm mạnh nhất trong vòng 2 thập kỷ.
Tuy nhiên, thị trường nhà đất tại Anh vẫn chưa phải chịu nhiều tác động như thị trường
nhà đất Tây Ban Nha và Ireland. Theo số liệu từ IMF, đầu tư nhà ở chiếm 12% nền kinh tế

của Ireland, 9% kinh tế Tây Ban Nha, trong khi con số này tại Anh và Mỹ mới chỉ lần lượt là
5 và 4%.
Nhiều chuyên gia dự báo một số nước sẽ phải trải qua thời kỳ giá nhà đất điều chỉnh
xuống còn mạnh hơn tại Mỹ. Tất cả những hiện tượng trên sẽ tạo ra xu hướng giá nhà đất sụt
giảm trên toàn cầu. Ảnh hưởng của thị trường bất động sản Mỹ đã làm giảm niềm tin trong
người dân,và bất động sản không còn là cách đầu tư an toàn. Mặt khác chính sách thắt chặt
17
tiền tệ cùng với nền kinh tế khó khăn cũng làm thị trường bất động sản các nước này hết sức
ảm đạm.
Tình hình nhà đất đi xuống trên khắp thế giới ảnh hưởng đến kinh tế cũng như tăng tỷ lệ
thất nghiệp tại nhiều nước.
2.4.1.2. Thị trường chứng khoán
Bất chấp những nỗ lực giải cứu từ phía các Chính phủ ở Mỹ cũng như EU, thị trường tài
chính toàn cầu dường như vẫn chưa có dấu hiệu “chạm đáy” trong cuộc khủng hoảng tài
chính này. Liên tiếp trong các phiên giao dịch, các sàn giao dịch chứng khoán khắp thế giới
đều toàn một màu đỏ rực.
Ngày 6/10/2008, Chính phủ Mỹ đã phải công bố thị trường ở tình trạng "cực kỳ căng
thẳng". Chứng khoán ở Mỹ tụt dốc gây nên tâm lý bất an giữa những nhà đầu tư và thị
trường chứng khoán của hàng loạt nước khác cũng suy sụp theo. Giá chứng khoán trên các
thị trường trên thế giới rớt mạnh trong ngày đầu tiên mở cửa giao dịch. Thị trường châu Á
dẫn đầu, và tiếp theo là thị trường châu Âu. Bất kể kế hoạch cứu nguy với chi phí khổng lồ
đã được Hoa Kỳ thông qua, các bảng giá chứng khoán điện tử trên các thị trường Frankfurt,
Paris, và London đều hiện lên một màu đỏ.
Chứng khoán châu Âu giảm giá mạnh trong phiên giao dịch đầu tuần do các nhà đầu tư lo
ngại đợt suy thoái toàn cầu sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới ngành ngân hàng và năng lượng.
Cổ phiếu hai lĩnh vực này giảm mạnh. Vào gần cuối giờ sáng 27/10/2008 (giờ GMT), các cổ
phiếu ngân hàng tại khu vực châu Âu như HSBC, BNP Paribas, Societe Generale và Banco
Santander giảm từ 5,3-12,7%. Các chỉ số chứng khoán chủ chốt của châu Âu giảm từ 3,67%-
6,07%.
Chỉ số FTSE 100 tại London giảm hơn 8%, mức sụt điểm trong ngày lớn nhất kể từ 1987.

Các chỉ số chứng khoán tại Anh, Đức và Pháp đều giảm từ vài chục tới vài trăm điểm, tức từ
một tới hai phần trăm ở đầu phiên giao dịch. Trước đó chỉ số Dow Jones sụt 7%, tức 778
điểm, số điểm giảm lớn nhất trong một ngày từ trước tới nay.
 Biểu đồ 5: Biểu đồ chỉ số SBT120 của Pháp năm 2008
18
(Nguồn: Bloomberg)
Trong số các chứng khoán rớt giá mạnh nhất là chứng khoán của 2 ngân hàng
Commerzbank của Đức và HBOS của Anh với tỉ lệ 10% trở lên. DAX 30 của Đức và CAC
40 của Pháp lần lượt giảm 7 và 9%. Tại Iceland, chứng khoán thuộc 6 công ty tài chính lớn
nhất nước, trong đó có 3 ngân hàng lớn nhất, đã bị tạm ngưng giao dịch. Nga cũng ở trong
tình trạng tương tự khi giao dịch chứng khoán trên hai thị trường chính đã bị ngưng. Cùng
trong ngày thứ Hai, cơ quan thống kê Nga thông báo lạm phát từ tháng 1/2008 đến tháng
9/2008 đã lên đến 10,6 %. Với không khí thị trường tài chính đầy bất thường rất tiêu cực,
ngày thứ hai 27/10/2008 được gọi là “Thứ hai đen”.
Tại Sydney, thị trường tài chính Australia cũng sụt giảm 5,0% bất chấp các nỗ lực của
ngân hàng trung ương nhằm ngăn chặn cuộc khủng hoảng bằng cách giảm lãi suất chính thức
xuống 1% hôm 7/10/2008.
Tính từ thời điểm chứng khoán toàn cầu ở mức giá cao nhất vào giữa năm 2007 đến nay,
có tổng cộng gần 26.000 tỉ USD đã “bốc hơi”, riêng ở Mỹ vào khoảng 8.500 tỉ USD. Khoản
tiền khổng lồ này lớn gấp nhiều lần so với các khoản vay địa ốc dưới chuẩn, từng được cho
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng.
Có thể thấy rằng chưa lúc nào, thị trường chứng khoán lại lên xuống theo bước của nền
kinh tế và chính sách của các chính phủ rõ ràng như lúc này. Các tin tức trái chiều khiến giá
chứng khoán liên tục biến động và hết sức phức tạp.
2.4.1.3. Hệ thống tài chính – ngân hàng
Những biến động dữ dội trên thị trường tài chính phố Wall của Mỹ đã thổi một cơn bão
lạnh tới các thị trường trên khắp thế giới. Tại Châu Âu, một mặt người ta thấy mô hình kinh
doanh tài chính của Châu Âu tỏ ra an toàn hơn mô hình Mỹ, nhưng thất thoát là chuyện
không thể tránh khỏi khi nhiều định chế tài chính lớn của Châu Âu có sự gắn bó mật thiết với
19

thị trường Mỹ. Nhiều tổ chức tài chính của các nước Châu Âu cũng tham gia vào thị trường
tín dụng nhà thứ cấp ở Mỹ. Chính vì vậy, khi bong bóng nhà đất ở Mỹ bị vỡ cũng làm các tổ
chức này gặp nguy hiểm tương tự như các tổ chức ở Mỹ. Những nước Châu Âu bị rối loạn tài
chính nặng nhất là Anh, Iceland, Ireland, Bỉ và Tây Ban Nha – những chủ nợ biến thành con
nợ.
Ngay từ tháng 9 năm 2007, Northern Rock của Anh bị tình trạng đột biến rút tiền gửi và
hậu quả là phải chịu quốc hữu hóa. Đột biến rút tiền gửi còn làm căng thẳng các ngân hàng
khác của nước này. Sang năm 2008, đến lượt Bradford & Bingley của Anh phải chịu chia
nhỏ thành 2 công ty riêng biệt. Các ngân hàng khác phải chịu đổi chủ sở hữu bao
gồm Catholic Building Society, Alliance & Leicester. London Scottish Bank và Dunfermline
Building Society phải chịu sự giám sát đặc biệt của Chính phủ Anh. Ngân hàng Barclays
công bố lỗ 4,5 tỉ bảng Anh và phải bán 7,7% cổ phần cho một quỹ đầu tư của Qatar để lấy
1,7 tỉ bảng Anh.
Ở Iceland đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng. Ngay quý I năm
2008, GDP của Iceland giảm 1,5%, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1983 tới thời điểm
này. Glitnir, Straumur Investment Bank, Reykjavík Savings Bank phải chịu quốc hữu
hóa. Kaupthing, Landsbanki của nước này phải chịu đặt dưới sự quản lý của cơ quan giám
sát tài chính quốc gia.
Đầu năm 2008, xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Ireland bị giảm, khiến cho giá cổ
phiếu của ngân hàng này sụt ghê gớm, giá cổ phiếu tại thời điểm đầu tháng 3 Năm 2008 giảm
tới 99% so với giá đỉnh cao vào năm 2007. Đầu năm 2009, Anglo Irish Bank bị quốc hữu
hóa. Allied Irish Banks cũng phải chịu tình trạng cổ phiếu mất giá ghê gớm và phải chấp
nhận cải cách để nhận được khoản vay tái cơ cấu của Chính phủ.
Cuối năm 2008, Fortis của Bỉ bắt đầu bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận kinh doanh dịch
vụ bảo hiểm. Hôm 16.9.2008 cổ phiếu Dexia lập tức giảm 9.2% ngay sau khi công bố thông
tin rằng ngân hàng này đang nắm giữ cổ phiếu của Lehman Brothers trị giá 500 triệu EUR
bây giờ chẳng còn giá trị gì nữa. Dexia chịu khoản lỗ 3,3 tỷ euro và phải xin Chính phủ
Bỉ cho vay để củng cố.
Ở Hà Lan, để đảm bảo hệ số an toàn vốn, ING Group đã phải xin Chính phủ Hà Lan cho
vay.

Ở Đức, ngay từ đầu năm 2008, người ta phát hiện ra rằng BayernLB đã chịu những khoản
lỗ lớn do tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Sau đó, ngân hàng này đã
phải cầu xin sự giúp đỡ của Chính phủ Liên bang Đức. Đầu năm 2008 các khoản lỗ của cá
20
định chế tín dụng xác nhận đã lên tới 295 tỷ USD và 10% trong số tổn thất đó là của các
ngân hàng Đức. Giới ngân hàng đã phải trả giá cho những tính toán sai lầm. Các ngân hàng
lớn của Đức đều thừa nhận những tổn thất của mình do đầu tư vào thị trường Mỹ. Cũng tại
thời điểm này IMF dự báo tổn thất có thể lên đến 945 tỷ USD.
Là một trong vài ngân hàng lớn và uy tín nhất thế giới nhưng Ngân hàng UBS (Thụy Sỹ)
đã bị thua lỗ nặng nề vì đầu tư BĐS không kém gì các ngân hàng Mỹ, phải bán bớt cổ phần
cho các quỹ đầu tư nhà nước từ Singapore và Trung Đông đồng thời kêu gọi cổ đông đóng
góp thêm 15 tỉ franc Thụy Sỹ để tồn tại sau khi thua lỗ hơn 37 tỉ đô la, tính đến cuối tháng 5-
2008. UBS đã thay đổi gần như toàn bộ lãnh đạo trong khi giá cổ phiếu của họ cũng đã giảm
một nửa kể từ tháng 6.2007. Ngày 16.9.2008 cổ phiếu của UBS tại thị trường Zurich giảm
14.5%, mức giảm nặng nhất trong vòng 11 năm.
Vụ phá sản của ngân hàng lớn thứ tư của Mỹ Lehman Brothers gây chấn động toàn cầu vì
các sản phẩm tài chính của Lehman được trao đổi khắp thế giới. Nhiều nhà đầu tư, ngân hàng
ở ngoài nước Mỹ bỗng chốc bị trắng tay vì “lỡ” đầu tư vào các sản phẩm này. Với sự ra đi
của các ngân hàng lớn, thị trường tín dụng không chỉ ở Mỹ mà cả châu Âu và Nhật Bản đều
rơi vào tình trạng đóng băng, không ai dám cho ai vay tiền vì lòng tin đã suy sụp nghiêm
trọng. Tính đến 9.10.2008 Mỹ đã gần như sử dụng tổng lực các công cụ tài chính để chống
đỡ những cơn bão thị trường.
Châu Âu không có một cơ chế điều hành chung và thống nhất đối với thị tường tiền tệ tài
chính như Mỹ mà phụ thuộc vào ứng xử của từng ngân hàng TW. Dù vậy, ngân hàng TW
Châu Âu ECB cũng đã liên tục bơm vốn vào cho các ngân hàng thương mại để giữ cho
chúng khỏi sụp đổ.
Ngày 18/9/2008 Bộ trưởng Tài chính Mỹ - Henry Paulson công bố kế hoạch dài 3 trang
giấy, đề nghị Quốc hội Mỹ phê chuẩn gói cứu nguy 700 tỉ đô la, dùng để mua lại những “tài
sản độc” mà các ngân hàng lớn nhất đang nắm giữ, cân đối tài sản của ngân hàng và khôi
phục lòng tin. Nhưng với số phiếu 228/205, Hạ viện Mỹ bác bỏ đề xuất này; thị trường

chứng khoán lao thẳng xuống đáy, các chỉ số chính Dow Jones, S&P 500 và Nasdaq đều mất
trên dưới 9% trong một phiên giao dịch, mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 10-1987. Kế hoạch
này sau đó được sửa chữa, bổ sung và được thông qua Quốc hội Mỹ ngày 3-10-2008.
Tuy nhiên, hành động của Mỹ đã tỏ ra quá chậm. Các ngân hàng châu Âu đã dính líu quá
sâu vào những cổ phiếu có tài sản thế chấp mà Wall Street cung cấp. Thất thoát từ những
khoản đầu tư này, cũng như tác động bởi tình trạng thắt chặt tín dụng bên Mỹ đã đẩy nhiều
định chế tài chính châu Âu vào vòng nguy hiểm.
21
Một tuần sau khi Mỹ phê chuẩn gói giải cứu tài chính 700 tỷ đô la, Chính phủ Đức công
bố chính sách bảo đảm toàn bộ các tài khoản tiền gửi tiết kiệm của người dân và thu xếp
những khoản tiền cứu nguy cho các ngân hàng lớn. Bất chấp các gói giải cứu của Mỹ và
Đức, tình hình trong tuần đầu tháng 10 xem ra vẫn rất u ám, các chỉ số chứng khoán chính
đều tụt dài, trong đó Wall Street mất đi 20% giá trị chỉ trong một tuần. Ngày 8-10, lãnh đạo
các ngân hàng trung ương hàng đầu trên thế giới quyết định bước đi đồng bộ đầu tiên là cắt
giảm lãi suất cơ bản; đồng thời quyết định mua cổ phần của một số ngân hàng lớn; riêng tại
Mỹ, Bộ Tài chính đã bỏ ra 250 tỷ đô la bơm vốn vào 9 ngân hàng lớn nhất, Anh bỏ ra 88 tỷ
đô la trong một gói cứu nguy 350 tỷ đô la để “quốc hữu hóa” ba ngân hàng lớn nhất (RBS,
Lloyds và HBOS) và Đức cũng chi ra 68 tỷ đô la. Tuy vậy một tuần sau, ngày 15-10, chỉ số
chứng khoán Dow Jones rớt 733 điểm (7,87%).
Tháng 10/2008 cũng là thời điểm cuộc khủng hoảng tín dụng chuyển hóa thành cuộc suy
thoái kinh tế, tác động đến toàn thế giới và chính phủ các nước lần lượt tung ra các gói cứu
nguy để chặn đứng đà suy thoái.
Bên cạnh Mỹ, Các quốc gia Châu Âu cũng liên tiếp đua ra các gói kích cầu: Đức chi
49.25 tỷ EUR, trong đó 15 tỷ được dùng làm bảo đảm tín dụng. Pháp chi 26 tỷ EUR, trong
đó 22 tỷ bỏa đảm tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Anh chi 23.7 tỷ EUR, đồng thời
là nướ đầu tiên trong khối EU giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng từ 17.5% xuống 15%,
cùng lúc tăng thuế nhà giàu và giảm thuế thu nhập cho gười nghèo. Tây Ban Nha chi 11 tỷ
EUR cho kích cầu. Tiếp theo là Ý, tổng kích cầu của họ chỉ là 2.4 tỷ EUR.
Các khoản chi trên có thể chia thành 3 dạng: thứ nhất, dạng đầu tư vào các lĩnh vực cơ sở
hạ tầng, đào tạo, nhằm tăng việc làm, thu nhập cho người lao động. Thứ 2, bảo lãnh tín dụng

mua lại các tập đoàn quan trọng đói với nền kinh tế có nguy cơ phá sản, nhằm tránh tạo ra
phản ứng dây chuyền nguy hại cấp bách đến nền kinh tế. Thứ 3, cho không người dân, thông
qua giảm thuế, trợ cấp, tăng nhu cầu có khả năng thanh toán cho tầng lớp này, qua đó đảm
bảo an sinh xã hội, khắc phục hậu quả kinh tế đe dọa tầng lớp thu nhập thấp.
Khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ đã càn quét Châu Âu, đẩy rất nhiều ngân hàng
lớn của Châu Âu vào tình trạng phá sản, phải quốc hữu hóa, bị sáp nhập, bị mua lại . Tuy
nhiên, Không giống như Anh, Mỹ hay nhiều nước khác, các ngân hàng của Pháp dường như
ít chịu tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính. Nguyên nhân chủ yếu do thói quen tiêu
dùng của người dân giúp họ tránh đại thảm hoạ này. Các ngân hàng Pháp rất cẩn trọng trong
việc cho vay và để hạn chế rủi ro họ còn chia các khoản đầu tư ra rộng hơn so với các ngân
hàng Anh và Mỹ. Chỉ khoảng 1/4 hoạt động ngân hàng có liên quan tới đầu tư và các loại
22
hình kinh doanh chứng khoán, còn lại đều là các hoạt động ngân hàng bình thường. Điều đó
có nghĩa là, khi cuộc khủng hoảng tín dụng ập đến, các ngân hàng Pháp thiệt hại nhẹ hơn các
nước khác.
Nhưng vấn đề không chỉ là sự khác biệt trong khu vực đầu tư ngân hàng, mà còn cả thói
quen ít mạo hiểm của cả quốc gia này nữa. Ở Pháp, mức độ nợ nần có liên quan đến chi tiêu
trong gia đình chỉ chiếm 47% trong khi ở Anh con số này cao gấp đôi. Điều đó không có
nghĩa là nước Pháp không có gì lôi cuốn người dân mua sắm, vì sức hút của chủ nghĩa tiêu
dùng ở quốc gia này cũng mạnh như bất kỳ nơi nào khác.
Nhưng ở Pháp, người ta rất khó chi những khoản tiền mà họ không sở hữu: Thẻ tín dụng
của Pháp chỉ hơn thẻ chi trả một chút, chỉ cần trong tài khoản thiếu tiền bù lại là ngân hàng
sẽ ngay lập tức chặn giao dịch. Một số người cho rằng tính cẩn trọng vốn có của người Pháp
đã cứu họ thoát khỏi thảm họa. Nói chung người Pháp chi số tiền họ đang có và không vượt
con số này. Còn ở Anh và Mỹ, nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào chi tiêu trong gia đình, sức
tiêu thụ lại do tín dụng dẫn dắt. Do vậy, quá trình tăng trưởng ở Pháp chậm hơn so với Anh
và Mỹ, và vì thế cũng suy thoái với tốc độ chậm hơn.
2.4.2. Tác động đến nền kinh tế Châu Á
Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới và hoạt động của các công ty đa quốc gia Mỹ lan rộng
đến tất cả các châu lục nên cuộc khủng hoảng ở Mỹ chắc chắn sẽ tác động đến kinh tế thế

giới, kể cả Á châu.
2.4.2.1. Khoảng tháng 8 năm 2008, kinh tế Châu Á có những biến động mạnh:
 Thị trường bất động sản: Tại Trung quốc, giá đất ở thành phố Harbin, thuộc tỉnh Hắc
Long Giang giảm 4% so với năm 2007, nhưng số vụ giao dịch thành công đã giảm tới 2/3.
Trong khi đó, tại một số khu vực ở đông nam Trung Quốc, giá bất động sản đã giảm 10-40%.
Những thành phố ven biển của Trung Quốc, nơi tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều
vào xuất khẩu, đã chứng kiến sự tụt dốc mạnh của thị trường bất động sản. Giá trị giao dịch
nhà đất tại HongKong, một trong những thị trường bất động sản được coi là sôi động nhất
châu Á, trong tháng 8 đã giảm gần 60% so với cùng kỳ năm 2007, như vậy đến cuối năm
2008 thị trường bất động sản có thể xuống tới mức thấp nhất kể từ năm 2003.
 Thị trường chứng khoán: Á châu chịu ảnh hưởng lớn nhất có lẽ là thị trường chứng
khoán. Chứng khoán ở Mỹ tụt dốc gây nên tâm lý bất an giữa những nhà đầu tư tại Á châu
và thị trường chứng khoán của những nước này cũng suy sụp theo. Tài sản của các cá nhân
đầu tư chứng khoán bị giảm sút làm giảm khả năng chi tiêu trong dân cư kéo theo sự đình
đốn trong sản xuất. Tuy nhiên điều này chỉ đúng đối với các nền kinh tế tiên tiến trong đó
23
thị trường chứng khoán đã phát triển mạnh như Nhật, Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc…
Một số ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm ở các nước châu Á đang nắm giữ
những chứng khoán MBS nên phải chịu tổn thất trong cuộc khủng hoảng ở Mỹ. Cùng với
đó là chứng khoán châu Á tuột dốc khi các thị trường Hong Kong, Trung Quốc,Thái Lan…
giảm kinh hoàng từ 6-14%, thậm chí Philippines phải đóng cửa thị trường vào giữa phiên
giao dịch.
 Hoạt động ngân hàng: điển hình là Nhật Bản, nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới, lợi
nhuận của 6 ngân hàng lớn nhất đã sụt giảm hơn 40% trong năm tài chính do những thua lỗ
tại thị trường thứ cấp Mỹ. Ngày 10/10/2008, tập đoàn bảo hiểm có lịch sử hoạt động 98 năm
tại Nhật là Yamoto Life Insurance Co. chính thức đệ đơn xin dược bảo hộ phá sản với lượng
nợ là 269,5 tỷ yên, trong đó nợ vượt quá tài sản là 11,5 tỷ yên.
 Hoạt động xuất khẩu: do Mỹ còn chiếm vị trí khá cao trong kim ngạch xuất khẩu của
những nước này nên xuất khẩu và sản xuất sẽ bị đình trệ, tuy những nền kinh tế lớn ở châu Á
như Nhật, Trung Quốc trong những năm gần đây đã giảm đáng kể độ tùy thuộc vào thị

trường Mỹ. Thấy rõ nhất là hiện Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Nhật,
không phải Mỹ. Đối với Trung Quốc từ năm 2007 thị trường xuất khẩu lớn nhất cũng đã
chuyển từ mỹ sang EU. Tuy vậy nhưng ảnh hưởng của khủng hoảng Mỹ cũng tác động gián
tiếp ở châu Á. Cầu tiêu dùng thế giới giảm mạnh, đồng nghĩa với xuất khẩu gặp rất nhiếu khó
khăn. Mặc khác các hợp đồng xuất nhập khẩu thất bại cũng bị ảnh hưởng bởi giá cả đi
xuống, sự siết chặt của môi trường và điều kiện làm ăn của các quốc gia.
Ngoài việc xuất khẩu sụt giảm mạnh kể từ quý IV/2008, nguyên nhân chính khác của sự
suy giảm hiện nay là việc giữa năm 2008 có sự lo ngại xảy ra lạm phát, khi mà giá dầu cao lỷ
lục cùng với giá lương thực tăng nhanh đẩy lạm phát tăng mạnh ở nhiều nước, buộc ngân
hàng trung ương các nước trong khu vực nâng tỷ lệ lãi suất. Tuy nhiên, điều này đã dẫn đến
nhu cầu nội địa yếu đi vào đúng lúc mà cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu leo
thang. Mặc dù kể từ đó, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng đáng kể, nhưng nhu cầu nội địa
vẫn không phục hồi khi mà xuất khẩu cũng giảm.
2.4.2.2. Tác động đến nền kinh tế Việt Nam nói riêng
Tuy Việt Nam đã gia nhập tổ chức WTO nhưng việc sử dụng các nghiệp vụ phái sinh vẫn
chưa thực sự phát triển ở Việt Nam, vì vậy tác dộng trực tiếp đối với Việt Nam thì không lớn.
Vì chưa có định chế tài chính nào ở Việt Nam đầu tư vào trái phiếu MBS và các hợp đồng
cho vay cầm cố.Nói tác động là không lớn và không trực tiếp, nhưng khủng hoảng ở Mỹ
cũng đã có những tác động nhất định đối với nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, kinh tế Việt
24
Nam cũng suy giảm ít nhiều bởi ảnh hưởng gián tiếp từ suy thoái kinh tế toàn cầu do tăng
trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào hoạt động xuất khẩu và luồng vốn đầu tư nước
ngoài từ Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc
 Biểu đồ 10: Biểu đồ tăng trưởng GDP Việt Nam từ năm 2001-2009
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê)
 Trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng
Lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế LIBOR và SIBOR tăng. Đặc biệt là SIBOR vì nó
được dùng làm lãi suất tham chiếu tại các ngân hàng Việt Nam, do đó nó làm ảnh hưởng tới
nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các NHTM và các doanh nghiệp. Tuy số nợ là không lớn
nhưng buộc các ngân hàng phải tái tục cấu trúc kỳ hạn và lãi suất, và như vậy sẽ làm ảnh

hưởng tới tình hình tài chính của các doanh nghiệp và các ngân hàng có vay trên thị trường
tài chính hoặc trên thị trường liên ngân hàng.
Khủng hoảng Mỹ xảy ra làm cho các nhà đầu tư dự đoán giá USD sẽ giảm họ có thể sẽ
rút USD ra khỏi ngân hàng hoặc bán USD để đầu tư vào một khoản mục nào đó an toàn hơn
(vàng ). Như vậy sẽ làm cho cấu trúc tài sản tại các ngân hàng thay đổi theo chiều hướng bất
lợi cho ngân hàng.
Thị trường bất động sản đóng băng, làm giá bất động sản xuống thấp kéo theo đó là tài
sản của ngân hàng cũng xuống theo và nợ xấu sẽ tăng lên. Mặc dù quy trình tín dụng tại Việt
Nam rất chặt chẽ định giá bất động sản bằng 50% giá thị trường và chỉ cho vay 70% trong
50% đó. Nếu nợ xấu tăng lên quá nhiều sẽ rất khó khăn cho các ngân hàng, các NHTM
không thể thanh lý hết các tài sản đảm bảo đó trong một thời gian ngắn, vì trong ngắn hạn
lượng cung sẽ tăng vọt do người đi vay bán, ngân hàng thanh lý tài sản đảm bảo này,bên
cạnh đó thủ tục thanh lý tài sản đảm bảo tiền vay không phải đơn giản. Đó là thách thức lớn
đối với NHNN trong việc hỗ trợ các NHTM. Theo báo cáo của NHNN thì dư nợ cho vay bất
động sản tính đến cuối tháng 9/2008 là 115.500 tỷ VND, chiếm 9,15% trong tổng dư nợ toàn
25

×