Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.06 KB, 29 trang )

Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam

Trong nền kinh tế hiện đại, cùng với tiến trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ, quá
trình tự do hóa tài chính liên tục, các luồng tài chính dòng vốn được giao lưu tự do và
xuyên suốt từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong bối cảnh đó nền kinh tế mỗi quốc
gia càng gắn liền với tình hình biến động kinh tế chính trị diễn ra trong toàn cầu, Việt
Nam chúng ta đã gia nhập WTO, cũng chịu sự tác động to lớn trong xu thế đó. Một nền
kinh tế phát triển ổn định bền vững, tự chủ về tài chính sẽ giúp nền kinh tế đất nước có
sức đề kháng trước những cú sốc kinh tế bên ngoài nhất là các cuộc khủng hoảng kinh tế.
“Chẩn đoán” ra các căn bệnh của nền kinh tế và tìm cách “chữa trị” nó là cách hữu hiệu
để đứng vững trên con đường hội nhập, trong đó vấn đề đặt ra đối với hệ thống tài chính
cũng như nền kinh tế hiện nay là tình hình “đôla hóa” mà theo các chuyên gia “đôla hóa
Việt Nam đang ở mức báo động” có thể ảnh hưởng rất sâu sắc đối với nền kinh tế Việt
Nam.
Hiện tượng đôla hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ
của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đôla Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế
làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hóa là
"đôla hóa".
 nhóm thực hiện tiếp cận vấn đề ở góc độ cơ bản nhất
để tìm hiểu hiện tượng “ đô la hóa” là gì, các loại hình đô la hóa, nguyên nhân gia tăng
hiện tượng này và tiến tới khảo sát thực trạng đô la hóa của Việt Nam. Qua đó tìm hiểu
và phân tích một số giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực và phát huy những mặt
tích cực do việc sử dụng đồng ngoại tệ mang lại trong nền kinh tế đem lại.
   Đô la hóa có thể tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau như: nhìn
nhận đô la hóa dước góc độ tiền gửi, tiền vay và tiền mặt. Trong đề tài này, nhóm thực
hiện tìm hiểu hiện tượng đô la hóa tại Việt Nam dưới góc độ tiền gửi trong giai đoạn từ
năm 1988 đến nay.
!"#$$%& nhóm sử dụng phương pháp thống kê mô tả là chủ yếu.
1
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
'()*+, /,0,123,45,(36


1/ Định nghĩa “Đô la hóa”
Đôla hóa (tiếng Anh: dollarization) là một hiện tượng phổ biến ở khá nhiều nước
trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ Latinh. Quan điểm chung cho rằng, Đô la hóa là việc sử
dụng một ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh và có khả năng tự do chuyển đổi) thay
thế đồng nội tệ để thực hiện một số chức năng của tiền tệ (lưu thông, thanh toán hay cất
trữ).
Bất kỳ một ngoại tệ nào (như đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật) có khả năng thay thế
đồng nội tệ cũng dẫn đến hiện tượng “Đô la hóa”. Tuy nhiên trong tình hình hiện nay, nói
đến Đô la hóa, người ta chỉ nghĩ đến một đồng tiền duy nhất đó là Đô la Mỹ (USD). Mặc
dù hiệp ước Bretton Wood đã phá sản nhưng từ lâu USD đã trở thành phương tiện thanh
toán quốc tế mà không có đồng tiền nào có thể thay thế được. Mặt khác, Mỹ luôn lợi
dụng sự lớn mạnh của nền kinh tế đã gây sức ép với nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó
hệ thống tiền tệ vốn chưa “hoàn thiện”, và còn rất “nhạy cảm” ở các nước đang phát
triển.
Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hóa
cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ
mở rộng (M2) bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, và tiền gửi ngoại tệ.
2/ Phân loại
7897#:; là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi
trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Ở những nước
có nền kinh tế bị đô la hóa không chính thức, phần lớn người dân đã quen với việc sử
dụng đồng đô la nhưng Chính phủ vẫn cấm niêm yết giá hàng hóa bằng đô la, cấm dùng
đô la đối với hầu hết giao dịch trong nước.
78:; (hay còn gọi là đô la hóa từng phần) là tình trạng đồng
đô la được sử dụng như một đơn vị kế toán, phương tiện trao đổi, dự trữ giá trị và phương
tiện thanh toán trong khi đồng nội tệ vẫn tồn tại và lưu thông. Đồng đô la có chức năng
như một đồng tiền hợp pháp thứ hai của nền kinh tế. Các nước ở tình trạng này vẫn duy
trì một Ngân hàng Trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
78:; (hay còn gọi là đô la hóa hoàn toàn) xảy ra khi đồng ngoại

tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được
2
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các
khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu
và thường chỉ là đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường, các nước
chỉ áp dụng đô la hóa chính thức khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn
định kinh tế.
3/ Nguyên nhân
Trước hết< đô la hoá là hiện tượng phổ biến xảy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các
nước chậm phát triển. Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao,
sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác,
trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất
giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm
phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị. Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba chức
năng thuộc tính của tiền tệ, đó là:
- Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị.
- Chức năng làm phương tiện cất giữ.
- Chức năng làm phương tiện thanh toán.
Thứ hai< hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó
tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu
quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh,
ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã
dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới. Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số
đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên
Nhật, Franc Thuỵ Sỹ, euro của EU nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu
quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch
giao dịch thương mại thế giới). Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hoá là
"đô la hoá".
Thứ ba, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế

kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác
kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong
từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một
3
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở đây có khi là nhu cầu, trở thành thói quen thông lệ ở
các nước.
Thứ tư, mức độ đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển nền
kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng,
chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc
gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ đô la hoá
càng cao.
4/ Những tác động của đô la hoá
Tình trạng "đô la hoá" nền kinh tế vừa có tác động tích cực cũng vừa có tác động tiêu
cực.
=>#?@#:%
- Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao,
bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn
đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát
và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức.
- Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì
được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư
nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân
hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát,
đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để
trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do
vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.
- Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế. Với
một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều
kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước

ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với luồng
ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối
ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
- Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như
chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác
4
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân
hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.
- Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại
bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do
thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được chênh lệch lãi
suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống và thúc đẩy
tăng trưởng và đầu tư.
- Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính thức. Tỷ giá
chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt
động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị
trường hợp pháp).
=>#?@#%
- Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong một nền kinh
tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là
chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh
tế quốc tế, nhất là khi xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế.
- Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ, cụ thể như là :
o Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó
dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu
thông kém chính xác và kịp thời.
o Làm cho đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những
cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua
việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.

o Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá: Đô la hoá có thể làm
cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng
nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ
giá. Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền,
thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu
vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.
5
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
o ABC!D#E$7897#:; Ở trong các nước đô la hoá
không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến
động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá
và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi
bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra
sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá).
Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục
tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân
hàng. Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm
cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng
cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la
hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.
o ABC!D#E$78:; Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng
nề vào nước Mỹ. .Chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ
do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát
triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu
kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những
chính sách tiền tệ khác nhau. Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của
ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các
nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự
có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi
của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước

đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ,
chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn
toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương
mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của
ngân hàng trung ương đã bị mất.
6
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
'(0FG(4H*I*JK0L/,0,M-N(,
Do đặc thù của nền kinh tế Việt Nam phát triển qua các giai đoạn với những đặc điểm
và hoàn cảnh riêng biệt, tình trạng đô la hóa ở nước ta có thể chia làm 05 giai đoạn chính
như sau:
Hình 2.1: Tỷ lệ đô la hóa ở Việt Nam từ năm 1989 đến nay
1. Giai đoạn trước khi mở cửa - năm 1988
Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền về
ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá,
dịch vụ rất thấp, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ khai.
Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm theo Nghị định số 102/CP ngày 06/07/1963
của Chính phủ nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước (kể
cả việc cất trữ, mang theo người), mọi giao dịch trong nước phải thực hiện bằng VND.
Việc chuyển đổi VND sang ngoại tệ được thực hiện theo kế hoạch với cơ chế đa tỷ giá
(tỷ giá mậu dịch, tỷ giá phi mậu dịch) do Nhà nước công bố. Xuất nhập khẩu và thanh
toán quốc tế chủ yếu theo các Hiệp định song biên - đa biên, đồng tiền sử dụng trong
quan hệ thanh toán đối ngoại thường là đồng Rúp và đồng Nhân dân tệ. Vì vậy, khả năng
chuyển đổi của VND rất hạn chế.
Về cuối giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh
sau thất bại của chính sách giá - lương - tiền, lạm phát tới 3 con số và liên tục có các đợt
7
Nguồn: IMF
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
tăng giá vàng. Trong dân cư xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ để tích trữ, đầu cơ giá và

sử dụng làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên mức độ Đô la hóa là không đáng kể do
độ mở của nền kinh tế còn rất nhỏ.
2/ Giai đoạn từ năm 1989 đến 1996
Tính chuyển đổi của VND đã được nâng cao đáng kể so với giai đoạn trước do vị thế
của VND được phục hồi, chính sách quản lý ngoại hối có sự nới lỏng hơn và khả năng
đáp ứng ngoại tệ được cải thiện một bước.
Việt Nam chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước dần xoá bỏ chế độ độc quyền ngoại thương, đồng thời ban hành nhiều chính
sách để thúc đẩy kinh tế phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Kinh tế tăng
trưởng cao và khá ổn định, trung bình gần 8%/năm, lạm phát được kiểm soát ở mức trên
dưới 10%, kinh tế đối ngoại phát triển mạnh ở cả xuất nhập khẩu, đầu tư và vay nợ nước
ngoài.
Cùng với thắng lợi trong việc kiềm chế lạm phát, sự phát triển của hệ thống ngân
hàng hai cấp đã khôi phục dần vị thế của VND. Hình thành Trung tâm giao dịch ngoại tệ
và sau đó là Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Hệ thống thanh toán bắt đầu phát triển,
VND được hỗ trợ bởi các ngân phiếu thanh toán có mệnh giá lớn làm cho việc sử dụng
thuận tiện hơn. Trong điều kiện tỷ giá tương đối ổn định, lạm phát đã được kiềm chế nên
mức lãi suất cao làm cho VND trở nên khá hấp dẫn. Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử
dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch buôn bán bắt đầu được chú ý đến từ năm
1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng đô la. Bức tranh tổng quát về
tình hình đôla hóa ở Việt Nam qua các năm được biểu hiện cụ thể qua các giai đoạn sau:
8
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
(OPQRSR?TQRRQ, tình trạng đôla hóa tăng nhanh với hơn 41% tiền gởi bằng
ngoại tệ trong các ngân hàng vào năm 1991, do:
Hình 2.2: tỷ lệ lạm phát của Việt Nam từ 1989 đến 2003
- Sự thất bại trong việc cải cách tiền tệ năm 1985 với hậu quả là tỉ lệ lạm phát ở
mức rất cao và sự mất giá trầm trọng của đồng nội tệ (VND) so với đồng đôla kéo
dài cho đến cuối năm 1991 làm cho niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ bị
sụt giảm trầm trọng. Để tránh rủi ro mất giá của đồng nội tệ và bảo toàn giá trị tài

sản của mình, người dân tìm đến các công cụ dự trữ giá trị khác trong đó có vàng
và với nền kinh tế mở là đồng đôla (USD).
- Tình trạng leo thang giá USD (do tình hình cán cân thanh toán quốc tế, thâm hụt
ngân sách nhà nước và mức độ lạm phát cao ở Việt Nam) đã kích thích tâm lý dự
trữ, đầu cơ vào USD nhằm ăn chênh lệch giá, càng đẩy giá USD lên cao. Ngoại tệ
vốn đã khan hiếm, lại không được dùng trực tiếp cho hoạt động xuất nhập khẩu
mà bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Người dân Việt Nam ưu
tiên hoạt động trong lĩnh vực có yếu tố nước ngoài, có thu nhập bằng ngoại tệ và
ưu tiên sử dụng USD trong các giao dịch có giá trị lớn. Hậu quả tất yếu là sự phát
triển giữa các vùng, các lĩnh vực, các ngành kinh tế bị mất cân đối, tạo môi trường
cho quá trình đôla hóa một cách nhanh chóng.
9
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
(OPQRRU?TQRRV, tình trạng đôla hóa có chiều hướng giảm mạnh bắt đầu từ
năm 1992 xuống khoảng 30% và còn 20% vào năm 1996 nhờ vào sự lên giá của đồng
nội tệ đã giúp củng cố niềm tin của người dân vào đồng nội tệ cuốn hút người dân chuyển
từ USD qua VND như là phương tiện dự trữ giá trị.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng giảm tình trạnh đô la hoá nền kinh tế bằng
cách can thiệp mạnh vào thị trường ngoại tệ vào năm 1992, tỷ giá USD/VND khá ổn định
làm suy yếu tâm lý đầu cơ USD và cuốn hút các doanh nghiệp tập trung ngoại tệ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó cũng cần kể đến 3 chương trình kinh tế lớn của
Chính phủ, đó là: Sản xuất hàng xuất khẩu, khuyến khích sản xuất hàng tiêu dùng & tăng
cường sản xuất lương thực, đã giúp hỗ trợ đắc lực cho cung ngoại tệ của nền kinh tế và
giảm nhu cầu chi ngoại tệ, góp phần làm cho tỷ giá được duy trì ổn định trong thời gian
này.
Hình 2.3: tỷ giá USD/VND trong giai đoạn 1989 - 2003
Sự lên giá của đồng nội tệ (VND) trong giai đoạn này, là do:
- Lượng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam tăng nhanh. Năm 1994 là 1 tỷ USD
chảy vào Việt Nam dưới hình thức FDI. Ngoài ra, Việt Nam còn tiến hành các
khoản vay từ các tổ chức quốc tế, vay & viện trợ từ các chính phủ khác. Trong

thời gian này, lượng ngoại tệ chuyển vào Việt Nam dưới dạng kiều hối và chuyển
tiền cá nhân lớn dần lên qua các năm đặc biệt là từ Nga & Đông Âu. Vốn chảy vào
Việt Nam làm cho nội tệ (VND) lên giá.
10
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
P QRRU QRRW UXXX UXXW
FDI/GDP
(%)
2% 6.3% 12.7% 15%
Nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư
Bảng 2.1: Tỷ lệ FDI/GDP của Việt Nam giai đoạn 1992-2005
- Trong giai đoạn cải cách kinh tế 1989-1992, Việt Nam đã đạt được thành tựu
trong việc kiềm chế lạm phát từ mức 3 con số trong năm trước 1989, giảm xuống
còn 2 con số và sau đó là một con số khiến cho VND ổn định được giá trị. Bên
cạnh về ổn định kinh tế - chính trị, Nhà nước còn có luật khuyến khích đầu tư
trong nước, nên đã kích thích mạnh đầu tư cho sản xuất kinh doanh trong nước
ngày càng tăng, góp phần làm tăng nhu cầu về VND.
- Chênh lệch lãi suất giữa VND & USD cũng là nhân tố quan trọng khiến VND lên
giá. Trong suốt giai đoạn 1993-1997, lãi suất tiền gửi bằng VND luôn được duy trì
ở mức cao (khoảng từ 12-18%/năm) so với của USD (chỉ khoảng 3-4%/năm). Do
lam phát của VND trong giai đoạn này tương đối thấp & ổn định nên lãi suất thực
của VND cao hơn đáng kể so với USD. Sự chênh lệch lãi suất thực dẫn đến
khuynh hướng các cá nhân và tổ chức trong nước cũng như các nhà đầu tư nước
ngoài bán USD để lấy VND gửi tiết kiệm hoặc mua trái phiếu kho bạc. Điều này
dẫn đến VND lên giá.
3/ Giai đoạn từ năm 1997 đến 2001
Từ năm 1996 tỉ lệ dollar hóa vẫn giữ khoảng 20% và tăng dần qua các năm 1997 đến
2001. Cuối giai đoạn lại tăng cao, cao nhất là vào năm 2000-2001 vượt quá 30%. Cuối
năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến 31,7%. Một số
nguyên nhân cơ bản:

11
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
a) Trong 1996, lãi suất vay ngoại tệ trong nước cao hơn lãi suất trung bình trên thế
giới và khu vực đã tạo động lực lớn thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu
hàng trả chậm. Bởi vậy, mặc dù nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu lớn nhưng nhu cầu vay
vốn ngoại tệ từ các NHTM trong nước không tăng mạnh. Còn đối với các NHTM, thời
kỳ 1999 - 2000, lãi suất quốc tế tăng cao hơn lãi suất trong nước. Vì vậy, NHTM Việt
Nam cũng từng bước nâng lãi suất huy động ngoại tệ. Tuy nhiên, khó có thể nâng lên
tương đương vì đụng phải trần lãi suất do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định.
Chênh lệch giữa lãi suất quốc tế và lãi suất trong nước khoảng 1,4 - 1,8% vào thời điểm
đầu năm 2000 đã khiến việc huy động ngoại tệ trong nước, chuyển ra nước ngoài trở
thành một hoạt động sinh lời hấp dẫn đối với các NHTM.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 2.4:Tăng trưởng nhập khẩu và xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 1991-
2002
b) Cũng do tỷ giá ổn định, lãi suất vay vốn USD bình quân chỉ có 3,0% - 4,0%/năm,
thấp chỉ bằng 1/3 lãi suất vay vốn VND, nên nhiều doanh nghiệp lựa chọn vay USD, làm
cho tỷ trọng và số tuyệt đối dư nợ vốn vay USD tăng lên.
c) Niềm tin của người dân vào đồng tiền Việt Nam trong lúc này giảm sút do tác động
của khủng hoảng. Lo sợ đồng Việt Nam mất giá và kỳ vọng vào sự phá giá của VND
12
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
nên người dân chuyển sang giữ tiền bằng kênh USD và vàng, dẫn đến tình trạng đầu cơ,
găm giữ ngoại tệ tái diễn.
4/ Giai đoạn từ năm 2002 đến 2007
Từ năm 2002 đến 2007, tỷ lệ đô la hóa có xu hướng giảm trở lại, xuống dưới mức
30% vào đầu năm 2002, đến năm 2003 thì xuống dưới mức 25% và đến măm 2007 thì
xuống dưới mức 20%.
Tỷ lệ đô la hoá giảm là do từ năm 2002 đến 2007, mặc dù lượng ngoại tệ gửi tại các
ngân hàng luôn có xu hướng gia tăng qua các năm (nhờ nguồn vốn đầu tư FDI tăng

mạnh, các doanh nghiệp vẫn dự trữ ngoại tệ cho hoạt động thanh toán, nguồn ngoại tệ
đến từ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu ) nhưng đây là thời kỳ
tăng trưởng kinh tế nên nguồn cung tiền từ các chính sách tiền tệ rất dồi dào. Từ năm
2002 – 2007, tốc độ tăng trưởng tín dụng có xu hướng năm sau cao hơn năm trước nhằm
hỗ trợ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đặc biệt các ngân hàng quốc doanh:
Vietcombank, Agribank, BIDV, Công Thương có mức tăng trưởng tín dụng trên 30%
trong nhiều năm liền và đỉnh điểm là năm 2006 và 2007. Chính nhờ lượng cung tiền này
từ các ngân hàng mà tỷ lệ đô la hoá có xu hướng giảm trong giai đoạn 2002 – 2007.
P YAZ%
-A?P#9[
(Triệu USD)
-A%&
(Triệu USD)
2002 808 2,998.8 2,591
2003 791 3,191.2 2,650
2004 811 4,547.6 2,852.5
2005 970 6,839.8 3,308.8
2006 987 12,004 4,100.1
2007 1.544 21,348 8,030
2008 1.171 60,217 11,500
(\#]A ^=XSU QQQ<Q_V=_ `W<X`U<_
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 2.2:Đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 2002 – 2008.
Tuy nhiên, thực tế theo đánh giá của NHNN căn cứ mức độ sử dụng ngoại tệ để thay
thế các chức năng của VND thì mức độ Đô la hóa nền kinh tế trong giai đoạn này là khá
trầm trọng.
P UXX` UXX_ UXXW UXXV ^'UXX^
Khối lượng tiền gửi bằng USD 6,220 8,215 10,027 12,396 13,992
13
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam

Nguồn : IMF – Vietnam statistical Appendix 2007
Bảng 2.3: Khối lượng tiền gửi bằng USD ở Việt Nam trong giai đoạn 2003-2007
Điều này được thể hiện thông qua việc phát triển mạnh của thị trường chợ đen và hình
thức thanh toán cho các giao dịch của các loại tài sản có giá trị đều được tính bằng đồng
USD như : Chuyển nhượng BĐS, xe ô tô, các loại máy móc thiết bị giá trị lớn…. Thực tế
này xuất phát từ nguồn ngoại tệ xâm nhập vào nền kinh tế trong nước để lưu thông mà
nhà nước không thể kiểm soát, quản lý chặt chẽ cũng như thế mạnh của đồng USD trong
việc dự trữ, thanh toán trong giai đoạn này. Cụ thể :
- Người dân có tâm lý do sợ sự mất giá của Việt Nam đồng, nhất là trong thời kì có
dấu hiệu lạm phát tăng cao nên họ lựa chọn đô la Mỹ để gửi ngân hàng.
- Thực trạng đó còn do nguyên nhân đồng tiền Việt Nam mệnh giá còn nhỏ, cao nhất
là tờ 500.000 đồng được đưa ra lưu thông vào cuối năm 2003, song tờ 100 USD lại
tương ứng với gần 1,6 triệu đồng. Bởi vậy việc sử dụng đồng đô la tiện lợi trong các
giao dịch lớn như: mua bán đất đai, nhà cửa, ô tô
- Các hoạt động kinh tế ngầm vẫn diễn biến phức tạp, việc sử dụng đô la Mỹ được coi
là tiện lợi hơn nhiều.
- Nguồn kiều hối (chưa kể kiều hối chuyển lậu, ngoại tệ người Việt Nam nhập cảnh
không khai báo, ) chuyển về Việt Nam mỗi năm một tăng với mức tăng bình quân
trên 10% mỗi năm.
P abA1C&Y26
2002 2,150
2003 2,580
2004 3,100
2005 4,290
2006 4,700
2007 5,500
2008 8,000
(Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
Bảng 2.4:Khối lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giai đoạn 2002 - 2008
14

Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
- Các khoản kiều hối sau khi đi qua hệ thống ngân hàng nếu không được khuyến khích
chuyển thành nội tệ sẽ phát tán trong dân cư dưới hình thức ngoại tệ và làm tăng khả
năng đô la hóa nền kinh tế. Đối với nguồn kiều hối chuyển theo con đường không
chính thức thì số lượng kiều hối này nghiễm nhiên làm tăng tỷ lệ sở hữu ngoại tệ
trong dân, chính vì vậy nó góp phần làm tăng tỷ lệ đô la hoá.
- Số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng nhanh. Khách du lịch
mang theo ngoại tệ và chi tiêu bằng ngoại tệ tiền mặt rất lớn tại các cở sở kinh doanh
tư nhân. Khách du lịch cũng có hoạt động đổi tiền tại các quầy đổi tiền nhưng thông
thường chi tiêu đến đâu họ đổi tiền đến đó và khi việc đổi tiền không mấy thuận lợi
do địa bàn, đường xá, họ thỏa thuận với người bán để thanh toán bằng đô la Mỹ.
P UXXU UXX` UXX_ UXXW UXXV UXX^ UXXS
Số lượng
(nghìn lượt
người)
2.628 2.430 2.928 3.468 3.583 4.170 4.253
Nguồn: Tổng cục du lịch.
Bảng 2.5: Thống kê số lượng khách quốc tế đến Việt Nam từ 2002-2008
- Thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư ngày càng được mở rộng và
tăng lên. Đó là thu nhập của những người Việt Nam làm việc cho các công ty
nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam; tiền cho người nước ngoài thuê
nhà và kinh doanh du lịch; khách quốc tế đến và chi tiêu đô la bằng tiền mặt ở
Việt Nam; người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam tiêu dùng; tiền của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi về; tiền của những người đi xuất khẩu
lao động, đi học tập, hội thảo, làm việc ngắn ngày mang về.
- Nguồn ngoại tệ đến từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các
hoạt động kinh tế ngầm khác. Đây là kênh ngoại tệ chuyển vào nước ta mà nhà
nước không thể kiểm soát được, có thể gây lũng đoạn nền kinh tế, đó là chưa kể
tới nền kinh tế nước ta là nền kinh tế tiền mặt, các tổ chức phi pháp nước ngoài có
thể bơm đôla vào nền kinh tế Việt Nam cho các hoạt động rửa tiền.

15
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
5/ Giai đoạn từ năm 2008 đến nay
Năm 2008, tỷ lệ FCD/M2 tăng lên so với năm 2007 (từ 19,18 % trong năm 2007 tăng
lên 20,37% trong năm 2008). Năm 2009 tỷ lệ FCD/M2 vẫn giữ ở mức ổn định so với
năm 2008 là 20,41%, đến năm tháng 2/2010 tỷ lệ này giảm xuống 20.16%. Tuy tỷ lệ
FCM/M2 bị giảm và tương đối ổn nhưng có thể nhận thấy số tuyệt đối về tiền gửi bằng
ngoại tệ vẫn gia tăng qua các năm, đồng thời tốc độ gia tăng tiền gửi bằng ngoại tệ gần
bằng với tốc độ gia tăng của cung tiền mở rộng (M2). Cho thấy thực tế tình trạng đô la
hóa vẫn không hề suy giảm. Điều này có thể xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do ảnh hưởng của gia tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế. Giai đoạn
2008-2011 lượng cung tiền trong nền kinh tế liên tục gia tăng. Nguyên nhân của việc này
xuất phát từ việc chính phủ đã thực hiện gói kích cầu trị giá 8 tỷ USD bao gồm hỗ trợ lãi
suất cho vay tín dụng, miễn thuế thu nhập cá nhân, thuế VAT, thuế thu nhập doanh
nghiệp… để ngăn chặn sự suy giảm kinh tế trong nước do ảnh hưởng của khủng hoảng
tài chính thế giới năm 2008. Đồng thời, cũng do ngân sách liên tục bội chi để phục vụ
cho hoạt động đầu tư phát triển. Trong năm 2008, bội chi ngân sách nhà nước chiếm 4,6
% GDP, năm 2009 chiếm 6,9% GDP và năm 2010 bội chi ngân sách giảm còn 5,6%
GDP và năm 2011 là 4,9%. Có thể thấy, do ảnh hưởng của gói kích cầu, cùng với việc
liên tục bội chi ngân sách nhà nước đã khiến cho lượng cung tiền (M2) gia tăng trong nền
kinh tế.
Thứ hai, Tỷ lệ lạm phát không ngừng tăng cao làm mất lòng tin trong dân chúng đối
với đồng nội tệ. Tỷ lệ lạm phát trong giai đoạn này không ngừng gia tăng qua các năm cụ
thể chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2009 tăng 6,52% so với cùng kỳ năm 2008, trong khi đó
chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2010 tăng 11,75% so với cùng kỳ năm 2009. Tỷ lệ lạm phát
cả năm 2011 là 18,13%. Tỷ lệ lạm phát gia tăng chủ yếu do chi phí đẩy khi giá xăng dầu
cũng như giá các yếu tố đầu vào trong sản xuất liên tục gia tăng. Chính việc tỷ lệ lạm
phát không ngừng tăng đã làm mất lòng tin của dân chúng vào đồng nội tệ, làm cho tâm
lý lo ngai về sự mất giá của đồng nội tệ tăng cao. Bên cạnh đó, một số tài sản đầu tư có
mức sinh lời cao trong giai đoạn trước như cổ phiếu, bất động sản lại không ngừng giảm

giá. Vì vậy, việc chuyển sang tích trữ ngoại tệ hoặc vàng để giữ giá gia tăng.Cùng với lãi
suất tiền gửi USD tương đối cao nên làm cho tâm lý tích trữ và gửi tiền dưới dạng ngoại
tệ gia tăng.
16
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
Thứ ba, Thâm hụt cán cân thanh toán cụ thể là cán cân vãng lai làm cho nhu cầu dùng
USD để thanh toán tăng cao, làm cho giá trị nội tệ bị giảm so với USD. Trong giai đoạn
2008-2011, cán cân vãng lai liên tục bị thâm hụt cụ thể . Năm 2008 Cán cân vãng lai
thâm hụt 10.787 triệu USD tương đương 9,31% GDP. Năm 2009, cán cân thanh toán
tổng thể năm thâm hụt 8,17 tỷ USD, cán cân vãng lai thâm hụt 7,44 tỷ USD tương đương
7,7% GDP. Trong năm 2010, cán cân tổng thể thâm hụt khoảng 3,07 tỷ USD. Trong đó,
cán cân thương mại thâm hụt khoảng 12,3 tỷ USD. Năm 2011, cán cân thanh toán đã
thặng dư khoảng 3,1 tỷ USD, thâm hụt thương mại giảm vẫn còn 9,5 tỷ USD, tuy nhiên
đây là con số thấp nhất trong vòng 10 năm kể lại đây. Chính việc cán cân thanh toán liên
tục bị thâm hụt đã làm gia tăng nhu cầu về USD dùng để thanh toán. Bên cạnh đó, do ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính và tâm lý găm giữ ngoại tệ nên nhiều doanh nghiệp
xuất khẩu không bán ngoại tệ cho ngân hàng thương mại, cùng với chính sách hỗ trợ lãi
suất của chính phủ đối với các doanh nghiệp đi vay bằng VNĐ khiến các doanh nghiệp
không bán ngoại tệ mà muốn vay bằng VNĐ. Do đó, lượng tiền gửi ngoại tệ có xu hướng
gia tăng trong giai đoạn này đặc biệt là năm 2009 (tăng 29,27% so với năm 2008).
Thứ tư, Lượng kiều hối chuyển về nước để hưởng chệnh lệch lãi suất. Trong giai
đoạn này lãi suất tiền gửi bằng USD là khoảng 6-7%/năm, đây là mức lãi suất USD
tương đối cao so với lãi suất USD trên thị trường thế giới. Điều này đã khuyến khích một
lượng kiều hối từ nước ngoài gửi về đề hưởng chênh lệch lãi suất cũng như mua thêm tài
sản dùng để tích trữ. Theo số liệu thống kê trong 3 năm qua lượng kiều hối chuyển về
Việt Nam đã không ngừng gia tăng. Cụ thể, trong năm 2008 lượng kiều hối chuyển về
nước trị giá 7,2 tỷ USD, trong khi năm 2009 là 6,2 tỷ USD và tăng đột biến trong năm
2010 là 8,26 tỷ USD. Và trong năm 2011, con số này khoảng 9 tỷ USD. Chính việc lãi
suất tiền gửi USD cao hơn so với lãi suất trung bình của thế giới đã thu hút lượng kiều
hối chuyển về nước hưởng chênh lệch lãi suất làm gia tăng lượng tiền gửi trong hệ thống

ngân hàng.
Có thể thấy tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế hiện nay thực sự nghiêm trọng, tỷ lệ
đô la hóa luôn chiếm hơn 20% trong tổng cung tiền mở rộng. Tuy nhiên, từ quý II/ 2011
một số chính sách tiền tệ của NHNN có thể góp phần phát huy tác dụng làm giảm tình
trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Cụ thể, quy định tăng tỷ lệ giữ trữ bắt buộc tiền gửi
bằng ngoại tệ có kỳ hạn 12 tháng từ 5% lên 7% (đối với các NHTM nhà nước NHTM
Nhà nước, NHTM cổ phần,Chi nhánh nước ngoài, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài, NH
17
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
liên doanh, Công ty TC và cho thuê tài chính), từ 2% lên 4 % ( đối với NHNN & PTNT),
khống chế tăng trưởng tín dụng trong đó có tín dụng bằng ngoại tệ dưới 20%, quy định
trần lãi suất huy động bằng ngoại tệ không quá 2%/năm. Có thể nhận thấy rằng những
chính sách này của NHNN sẽ góp phần làm giảm sự hấp dẫn của tiền gửi bằng ngoại tệ
cũng như giảm tín dụng bằng ngoại tệ tại các NHTM, góp phần làm giảm áp lực đô la
hóa lên nền kinh tế.
(8<-&#cd#dceC#?78 #f@]A
#cd"g]
Nguyên nhân mang tính lịch sử: đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân
do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào
đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90
càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy
quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn
định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc
chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Người ta thích dùng USD không chỉ vì tính ổn định mà
còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó.
Một nguyên nhân khác đó là nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng
nhanh, đặc biệt là USD bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ:
• Nguồn kiêu hối ngày càng có xu hướng tăng mạnh với mức tăng bình quân
10%/năm.
• Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng nhanh

cùng với lượng du khách đến Việt Nam.
• Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự
án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam được
trả bằng ngoại tệ.
• Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập v.v
ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia
đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác.
18
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
• Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện
quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các
tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước.
• Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư
gián tiếp.
• Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của
nền kinh tế.
• Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh
tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý.
'GhG*i0hG0j*/,0,M-N(,
Năm 2011 là năm bắt đầu giai đoạn kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015
với nhiều bất ổn vĩ mô cần được giải quyết. Những điểm yếu mang tính cơ cấu tồn đọng
từ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006-2010 có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của
nền kinh tế Việt Nam: lạm phát kéo dài, tăng trưởng không ổn định và thấp hơn so với
thời kì trước, đi cùng với các bất ổn vĩ mô gia tăng nhập siêu, nợcông, nợ nước ngoài. Từ
cuối năm 2007, đã có những chỉ dấu rõ ràng về yếu kém của nền kinh tế. Sang năm 2008,
trước bối cảnh khó khăn kinh tế toàn cầu và cơ cấu kinh tế dễ bị tổn thương, mục tiêu
19
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
tăng trưởng do Chính phủ đặt ra đã được điều chỉnh giảm, từ 8,5-9% theo kế hoạch
xuống 7,2% nhưng cũng không thể hoàn thành. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2008

chỉ đạt 6,23%, chính thức đánh dấu sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng. Sang năm 2009 và
2010, tốc độ tăng trưởng của kinh tế Việt Nam giữ ở mức thấp 5,32% và 6,78%. Tăng
trưởng kinh tế do vậy cũng không thể đạt mức kế hoạch đặt .
Bên cạnh đó, trong bốn năm vừa qua, Việt Nam là nước có tỉ lệ lạm phát cao nhất
châu Á. Dự trữ ngoại tệ cũng thường xuyên trong tình trạng căng thẳng, với tỉ giá
được điều chỉnh bằng các quyết định hành chính và cũng thường xuyên chịu áp lực phá
giá đồng tiền. Thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường cổ phiếu, biến động bất thường
với biên độ cao.
Trước sức ép về bất ổn vĩ mô trầm trọng và những hệ lụy nghiêm trọng đến xã hội
nếu các yếu tố bất ổn này không được giải quyết, nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011
đã được Chính Phủ ban hành bao gồm các giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô. Nghị quyết 11 được thế giới đánh giá rất cao, nó thể hiện quyết
tâm phản ứng nhanh của chính phủ. Nó cũng lần đầu tiên cho thấy, chính phủ gạt mục
tiêu tăng trưởng sang một bên và chỉ tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô . Nội dung của
nghị quyết 11 bao gồm sáu nhóm giải pháp sau:
- Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng.
- Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân
sách nhà nước
- Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử
dụng tiết kiệm năng lượng.
- Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo
- Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền.
Kết quả là sau 1 tháng từ khi thực hiện nghị quyết 11, hoạt động mua bán ngoại tệ
trái pháp luật đã lắng xuống, tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ đang dần bị thu hẹp. Tuy
nhiên, để hiệu quả này tiếp tục được phát huy bền vững thì cần tiến hành đồng thời các
giải pháp kinh tế, tài chính linh hoạt. Nếu không, thị trường ngoại tệ “chợ đen” sẽ lại trỗi
dậy dưới những hình thức tinh vi và khó kiểm soát hơn.
Thực tế thống kê cho thấy chỉ riêng TPHCM hiện có khoảng 4000 doanh nghiệp
kinh doanh vàng bạc, và 4000 doanh nghiệp này là 4000 dấu hiệu của kinh doanh ngoại

20
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
tệ. Vì vậy, như thượng tá Lê Hồng Sơn, Phó trưởng Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về
TTQLKT và chức vụ (Công an Hà Nội) nói “mua bán ngoại tệ trái phép trên thị trường tự
do vẫn diễn ra do nhiều người dân có nhu cầu được cất giữ ngoại tệ, hoặc vàng cho mục
tiêu đảm bảo nên họ vẫn tìm mua…Tất nhiên, là không được công khai như trước, nhưng
nó vẫn diễn ra.”
Vì vậy, tháng 3 năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra đề xuất triển khai đồng
bộ 5 nhóm giải pháp nhằm tăng cường chống đô la hóa.
Giải pháp thứ nhất: cần thực hiện các biện pháp vĩ mô để tăng dự trữ Đô la Mỹ
(USD), chủ động trong điều hành tỷ giá, tránh tăng tỷ giá quá mạnh, gây kích thích tâm
lý dự trữ USD; thực hiện đa dạng hóa ngoại tệ, tránh phụ thuộc vào USD; tiến tới mua
bán ngoại tệ theo nhu cầu của người dân, sớm có chủ trương bán ngoại tệ cho người
dân có nhu cầu chính đáng như du học, chữa bệnh hoặc đi công tác.
Về giải pháp 1, đây là một giải pháp lớn, đòi hỏi rất nhiều biện pháp thực hiện như
thực hiện đa dạng hóa ngoại tệ bằng việc thay vì chỉ gắn với USD, nên gắn với một “rổ”
tiền tệ (bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, Euro, JPY, và một số đồng tiền của các
nước trong khu vực như Nhân dân tệ của Trung Quốc, đồng Won của Hàn Quốc…). Các
đồng tiền này tham gia vào rổ tiền tệ theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư với Việt
Nam. Việc xác định tỷ giá như trên nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào
đô la Mỹ, và phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính
đến xu hướng biến động các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn.
Trong Quyết định số 750/QĐ- NHNN ngày 09/04/2011 đã nêu rõ tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc ngoại tệ thêm 2%. Cụ thể là đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12
tháng bằng ngoại tệ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại nhà nước,
ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 6% trên tổng số dư tiền gửi. Còn đối với tiền gửi kỳ
hạn từ 12 tháng trở lên thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 4% trên tổng số dư tiền gửi. Việc tăng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn được kết hợp với thực hiện mức trần lãi suất huy động USD.
Theo thông tư 13/2011/TT-NHNN ngày 31/05/2011, NHNN đã chính thức yêu cầu

các tổ chức tín dụng thực hiện mức trần lãi suất huy động vốn tối đa bằng USD của cá
nhân là 3%/năm và các tổ chức là 1%/năm. Biện pháp này đã tạo hiệu ứng tức thì đối với
thị trường tiền tệ. Bằng chứng là người dân đã bắt đầu quay sang với tiền Việt, bởi trên
21
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
thực tế lợi nhuận thu được khi gửi bằng VND gấp nhiều lần so với gửi tiết kiệm bằng
USD. Tuy nhiên, con số lãi chỉ có ý nghĩa nếu như mức tỷ giá hiện hành được giữ
nguyên và ổn định, nền kinh tế Việt Nam được giữ vững. Ngay sau đó, thông tư số
14/2011/TT-NHNN ngày 01/06/2011 quy định lãi suất vốn huy động tối đa bằng đô la
Mỹ của tổ chức, cá nhân theo hướng giảm lãi suất huy động USD của các tổ chức từ 1%
về mức 0,5%/năm và giảm lãi suất huy động USD của cá nhân từ 3% xuống còn
2%/năm.
Theo Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), việc thực thi các chính sách
này đã tạo ra thành công bước đầu, có hiệu quả rất nhanh và tích cực ngoài dự đoán của
đa phần các nhà quản lý, chuyên gia kinh tế. Theo lý giải của đại diện VAFI, ngay tại
nước Mỹ, mức huy động lãi suất của USD chỉ ở mức 1,5% đến 2%/năm; các ngân hàng ở
các nước khác trên thế giới cũng đều có mức huy động tương tự. Do đó, việc các ngân
hàng Việt Nam áp dụng lãi suất huy động USD từ 5-6%/năm như trước là không hợp lý.
Sự chênh lệch quá lớn này chính là điều kiện lý tưởng để Việt kiều mang USD từ nước
ngoài về nước nhờ người nhà gửi vào ngân hàng kiếm lời.
Giải pháp thứ hai: điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo hướng tránh lệ thuộc vào nguồn
nhập khẩu, nhất là nguyên liệu đầu vào để hạn chế cầu USD.
Về giải pháp thứ hai, việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất chỉ có thể ở dài hạn, không
thể trong ngắn hạn là có thể thay đổi được. Nếu điều chỉnh quá nhanh sẽ ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam còn phụ thuộc rất nhiều
vào nguồn nguyên liệu cho việc sản xuất để phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất
khẩu sang nước ngoài.
Bên cạnh đó, Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là những mặt hàng công nghiệp, tiêu dùng,
máy móc, sản phẩm đã được tinh chế có giá trị cao, còn xuất khẩu những mặt hàng có giá
trị thấp . Do đó, trong ngắn hạn, không thể giải được bài toán phụ thuộc nguyên liệu nhập

khẩu, đặc biệt là các thiết bị có giá trị cao. Nếu Việt Nam không có chiến lược cụ thể và
dài hơi trong việc tái cấu trúc lại nền kinh tế theo chiều sâu, gắn liền với liên kết các vùng
kinh tế theo hướng chuyên nghiệp thì sự lệ thuộc vào việc nhập khẩu sẽ còn trầm trọng
hơn.
Để giải quyết vấn đề trên, Việt Nam cần chú trọng đổi mới công nghệ, thiết bị, đẩy
mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng
22
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
cao, những mặt hàng có đóng góp quan trọng cho việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu cũng
như giải quyết nhiều lao động như các sản phẩm dệt may, giày dép, đồ gỗ, linh kiện điện
tử, sản phẩm nhựa, dây cáp điện… phát triển xuất khẩu các mặt hàng mới như sản phẩm
cơ khí, thực phẩm chế biến, hoá phẩm tiêu dùng đẩy mạnh các sản phẩm có hàm lượng
công nghệ cao như các sản phẩm phần mềm, hàng điện tử và tin học. Không nên quá chú
trọng đến việc sản xuất toàn bộ sản phẩm hoàn chỉnh mà có thể xác định một công đoạn
trong chuỗi giá trị toàn cầu mà Việt Nam có lợi thế hơn để đầu tư nhằm đạt đến giá trị
xuất khẩu gia tăng cao hơn.
Đối với nhập khẩu cũng cần cân nhắc các mặt hàng cho phù hợp, tiến tới giảm dần tỷ
trọng hàng nhập khẩu là máy móc, thiết bị, phụ tùng công nghiệp. Tập trung phát triển
các ngành công nghiệp hỗ trợ cho cả ngành sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu lẫn
ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu để giảm áp lực nhập khẩu yếu tố đầu vào. Tập trung
khai thác thị trường nội địa, cơ cấu nhập khẩu yếu tố đầu vào và hàng tiêu dùng cao đã
cho thấy sự phát triển của thị trường nội địa chưa được chú trọng. Để phát triển thị
trường nội địa, điều trước tiên phải làm là thay đổi nhận thức của chính phủ, của doanh
nghiệp, của người tiêu dùng về tầm quan trọng của thị trường nội địa Hơn một thập niên
trở lại đây, Trung Quốc là nước đứng đầu trong danh sách nhập siêu của Việt Nam. Năm
2011 giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ các nước là khoảng 106,75 tỷ USD thì Trung
Quốc đã chiếm đến 24,59 tỷ USD, và kim ngạch xuất khẩu từ các nước đạt 96,26 tỷ
USD. Dự kiến năm 2012, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 111 tỷ USD, tăng 15,30%
và kim ngạch nhập khẩu là 113 tỷ USD, tăng 5,85 so với năm 2010. Qua đó cho thấy bài
toán cân bằng giữa xuất nhập khẩu không phải là vấn đề dễ dàng có thể giải quyết được

ngay.
Vì vậy, theo đánh giá của nhóm, giải pháp này chưa thể tạo ra tác dụng giảm bớt tình
trạng đô la hóa trong ngắn hạn được.
Giải pháp thứ ba: nâng cao chất lượng dịch vụ của các tổ chức tín dụng, mở rộng thêm
các tiện ích gắn liền với việc giao dịch bằng tiền VND như dịch vụ thẻ, điểm thanh toán,
cho vay tiêu dùng…
Về giải pháp thứ ba, để hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng hoạt động tốt hơn thì Chính
phủ nên đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh việc phát triển hệ thống thanh toán liên ngân
hàng (smart link). Ngoài ra, Ngân hàng nhà nước cần định hướng, khuyến khích, hỗ trợ
23
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
các ngân hàng thương mại trong việc phát triển những chiến lược nhằm nâng cao các tiện
ích của việc giao dịch bằng VND. Cụ thể:
- Z#8]g$klP#!D#7#C9m#, tạo ra nhiều
hình thức th‘ mới phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu phong phú, đa dạng của khách
hàng, kể cả những khách hàng có thu nhập trung bình và thấp. Cần đưa các chiến
lược marketing th‘ để tăng sự hiểu biết của người dân về các dịch vụ th‘.
- 0E$[8$:]nZ#lChi phí sử dụng th‘ ảnh hưởng trực tiếp đến
doanh số phát hành và sử dụng th‘. Để doanh số này ngày càng tăng lên và có sự
cân bằng giữa lượng khách hàng trong nước và nước ngoài thì ngân hàng cần có
những chính sách hợp lý hóa các loại chi phí cho việc phát hành và sử dụng th‘,
đặc biệt là những khách hàng trong nước có mức thu nhập chưa cao.
- 0&?87##&#d# Tiếp tục đầu tư nâng cấp máy móc thiết bị,
trang bị thêm các thiết bị hiện đại, đủ công suất, thích hợp với chương trình phần
mềm giao dịch, đảm bảo xử lý thông tin thông suốt ngay cả trong những tình
huống phức tạp và giờ cao điểm. Cùng với hiện đại hoá cần chú trọng tới an toàn
thông tin mạng. Ngoài việc đầu tư công nghệ mới để nâng cao tính bảo mật hiện
có, cần xây dựng cơ chế, chính sách an ninh mạng.
- oC@##!BZp<?"pq$lob?p
??rc,(<3Y=

Giải pháp này tuy cần một lượng đầu tư ban đầu lớn song tác dụng và hiệu quả của
nó sẽ được phát huy trong thời gian dài. Đồng thời nó cũng tăng thêm uy tín cho
ngân hàng nói chung và trong thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng khi ngân
hàng thỏa mãn được nhu cầu rút tiền của khách hàng. Mặt khác việc làm này còn
tạo thói quen và ý thức cho người dân trong việc sử dụng các hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt. Song song với việc mở thêm nhiều máy ATM là việc làm
sao để các máy ATM có thể phục vụ khách hàng 24/24 giờ trong ngày từ đó nâng
cao khả năng phục vụ khách hàng.
Mục tiêu thực hiện là đặt máy ATM, POS tại tất cả các siêu thị, khách sạn, các nhà
hàng lớn, nhỏ, những khu đông dân cư, đặc biệt là những nơi có đông khách nước
ngoài đều phải đặt máy ATM. Ngoài ra, ngân hàng cũng phải đầu tư vốn vào việc
24
Thực trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam
mở rộng các phòng giao dịch phục vụ khách hàng, cho phép các phòng giao dịch
thực hiện tất cả các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
- Các ngân hàng cần tăng cường sự hợp tác trong hệ thống thanh toán th‘ tạo sự
thuận tiện trong thanh toán cho người sử: Giảm mức phí rút tiền và thanh toán
khác hệ thống, tạo nên hệ thống điểm giao dịch thuận tiện…
Giải pháp thứ tư: có giải pháp thu hút triệt để ngoại tệ từ các doanh nghiệp, cá nhân,
người Việt Nam ở nước ngoài khi mang ngoại tệ vào Việt Nam như mở thêm nhiều điểm
thu đổi ngoại tệ tại các sân bay, cửa khẩu, khuyến khích tăng tỷ lệ quy đổi sang tiền VND
với số lượng USD lớn.
Giải pháp 4 đã được Ngân hàng Nhà nước thể hiện thông qua Thông tư 13/2011/TT-
NHNN khi yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn, tổng công ty phải bán
ngoại tệ cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng từ ngày 01/07/2011. Trước đó, thống đốc
NHNN Nguyễn Văn Giàu công bố số dư ngoại tệ của 78 tổ chức, tập đoàn, tổng công ty
gửi ở các NH khoảng 1,6 tỷ USD, trong đó có 376 triệu USD là gửi có kỳ hạn. NHNN đã
yêu cầu các đơn vị này bán nguồn ngoại tệ gửi có kỳ hạn này cho ngân hàng. Tuy nhiên,
việc kết hối này chỉ có thể áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước, chứ không thể buộc
người dân cũng phải kết hối. Vì vậy, để nhất quán chủ trương quản lý ngoại tệ, đối với cá

nhân, theo nhóm cần có những quy định chi tiết hơn, mềm mỏng hơn như:
- Việc chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam, bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản, cũng
không được phép, trừ duy nhất trường hợp trả chuyển khoản cho các tổ chức kinh
doanh được Ngân hàng Nhà nước cho phép tiếp tục thu ngoại tệ.
- Việc chi trả cho người hưởng trong nước các khoản tiền như kiều hối, tiền lương,
thu nhập từ xuất khẩu lao động bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu cũng nên chấm
dứt. Việc này chỉ thực hiện bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc chi trả bằng tiền
Việt Nam.
- Cá nhân có tài khoản ngoại tệ gửi tại ngân hàng thương mai chỉ rút ra bằng tiền
mặt ngoại tệ để phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh, đi học, công tác… ở nước
ngoài.
Giải pháp thứ năm: sửa đổi các văn bản và quản lý chặt chẽ việc niêm yết hàng hóa
trong nước bằng VND.
25

×