MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng giữ một vai trò cực
kỳ quan trọng đối với đời sống con người. Ngoài việc cung cấp gỗ,củi, tre nứa và
các lâm sản khác, rừng có vai trò to lớn trong việc phòng hộ, duy trì môi trường
sống của mọi sinh vật trên trái đất như điều hòa khí hậu, điều tiết nguồn nước, hạn
chế xói mòn, rửa trôi và hạn chế bão lụt, hấp thụ các bon, duy trì bảo tồn đa dạng
sinh học Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau
mà diện tích rừng bị suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng lẫn chất lượng. Ngày
nay với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước cùng với sự gia tăng về dân
số, ô nhiễm môi trường, đô thị hóa, biến đổi khí hậu,… thì việc khôi phục lại hệ
sinh thái rừng là rất cần thiết và được nhiều nhà khoa học quan tâm.
Ở nước ta, rừng và đất rừng chiếm ¾ tổng diện tích lãnh thổ, song thực tế rừng tự
nhiên còn rất ít, chủ yếu là rừng thứ sinh ở những mức độ thoái hóa khác nhau nguyên
nhân chủ yếu là do tác động chưa hợp lý của con người như: Khai thác quá mức cho
phép, phá rừng đốt nương làm dẫy, chuyển đổi trái mục đích sử dụng
Theo số liệu thống kê của Viện điều tra quy hoạch rừng, năm 1945 tổng diện
tích rừng tự nhiên của nước ta là 14 triệu ha, tương đương với độ che phủ là 43%, đến
năm 1990 tổng diện tích rừng nước ta chỉ còn là 9,175 triệu ha, tương đương với độ
che phủ là 27,2%. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mất rừng là do chiến tranh, khai
thác bừa bãi, đốt nương làm rẫy. Từ khi Chính phủ có chỉ thị 286/TTg (năm 1996)
cấm khai thác rừng tự nhiên, tốc độ phục hồi rừng đã trở nên khả quan hơn.
Năm 2003 tổng diện tích rừng nước đã là 12 triệu ha, tương đương với và độ che
phủ là 36,1%, trong đó rừng tự nhiên chiếm 10 triệu ha và rừng trồng chiếm 2
triệu ha.
Đối với diện tích rừng tự nhiên của tỉnh Lào Cai là 257.691 ha (huyện Bảo
Thắng 11.047,10 ha), trong đó rừng phục hồi sau nương rẫy là 3.086,60ha (thị trấn
Phong Hải là 292,70ha), với độ che phủ chung của cả tỉnh là 49,4% . Đánhh gía
chung trong thời gian qua, việc khai thác và sử dụng quá mức nguồn tài nguyên rừng
1
tự nhiên, công tác quản lý bảo vệ rừng còn lỏng lẻo, kém hiệu quả làm cho rừng tự
nhiên của toàn tỉnh Lào Cài giảm sút nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng.
Đừng trước thực trạng suy giảm nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng
của rừng tự nhiên đặt ra cho các nhà làm công tác lâm nghiệp một nhiệm vụ cấp
bách là khôi phục và phát triển rừng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về gỗ, củi và
bảo vệ môi trường sống của con người. Trong công tác Quản lý bảo vệ và phát triển
rừng, biện pháp kỹ thuật lâm sinh là biện pháp kỹ thuật then chốt để cải thiện và
làm cho rừng tự nhiên có cấu trúc phù hợp nhất với mục đích quản lý, nhằm đáp
ứng được các yêu cầu đặt ra cho từng loại hình kinh doanh rừng
Ở nước ta, đã có nhiều công trình nghiên cứu về cấu trúc rừng nhưng chủ yếu
tập trung vào đối tượng là rừng trồng, các công trình nghiên cứu về cấu trúc và tái
sinh của thảm thực vật rừng trong điều kiện rừng tự nhiên phục hồi sau canh tác
nương rẫy còn ít và chưa thuyết phục. Vì vậy các giải pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm
phục hồi rừng sau nương rẫy còn thiếu cơ sở khoa học. Đặc biệt ở , thị trấn Phong
Hải huyện Bảo Thắng, một trong những khu vực miền núi trước đây có nhiều
nương rẫy song chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ thống về cấu trúc
rừng phục hồi sau nương rẫy. Xuất phát từ những vấn đề của thực tiễn tôi thực hiện
đề tài: "Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp phục hồi rừng tự nhiên
tại thị trấn Phong Hải, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào cai"
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua kết quả nghiên cứu nhằm cung cấp thêm những thông tin mới góp
phần quan trọng vào việc xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn trong phục hồi rừng ở
Việt Nam nói chung và huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai nói riêng một cách hiệu quả.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Về lý luận
Bổ sung những thông tin về đặc điểm cấu trúc và tái sinh tự nhiên của thảm thực
vật rừng tại Thị trấn Phong Hải, Bảo Thắng, Lào Cai, góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa
học cho việc đề xuất những giải pháp phục hồi tự nhiên.
3.2. Về thực tiễn
2
- Đánh giá được thực trạng rừng phục hồi tự nhiên tại Thị trấn Phong Hải, huyện
Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.
- Đề xuất được một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm nâng cao hiệu quả kinh
tế, xã hội và môi trường của rừng phục hồi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Trạng thái rừng tự nhiên phục hồi IIB (theo phân loại
của Loeschau 1966)
- Phạm vi nghiên cứu: Rừng trạng thái IIB ở các giai đoạn < 10 năm, Từ 10 - 15
năm và trên 15 năm, chưa bị tác động của các yếu tố bên ngoài. Dựa trên cơ sở người
dân để phục hồi rừng theo thời gian.
+ Đối với cây gỗ: Do đặc điểm rừng phục hồi tự nhiên rất đa dạng, phức tạp, đề
tài chỉ tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm tổ thành, mật độ, tầng thứ, phân bố số cây
theo chiều cao, theo cỡ đường kính, độ tàn che, dạng sống.
+ Đối với cây tái sinh: Đề tài nghiên cứu cây tái sinh trong giai đoạn cây mạ và
cây con dưới tán rừng thông qua các chỉ tiêu: tổ thành, mật độ, chất lượng, nguồn gốc,
tỷ lệ cây triển vọng, phân bố cây tái sinh theo chiều cao, phân bố cây tái sinh trên mặt
đất. Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái (độ tàn che của tầng cây cao, độ
che phủ của cây bụi, thảm tươi, địa hình, tác động của con người) đến tái sinh tự nhiên
của các trạng thái rừng phục hồi
+ Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả phục hồi rừng: Đề tài chỉ đề xuất
một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm nâng cao hiệu quả phục hồi rừng trên cơ sở
những đặc điểm cấu trúc rừng đã nghiên cứu.
- Địa điểm nghiên cứu: Thị trấn Phong Hải, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2013
5. Ý nghĩa nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu có thể áp dụng vào việc khoanh nuôi bảo vệ rừng tại địa
bàn nghiên cứu và những vùng sinh thái lân cận có điều kiện tương tự.
Thông qua thực hiện đề tài đã giúp tôi củng cố những kiến thức chuyên ngành,
đồng thời có được một tư duy về phương pháp điều tra rừng và viết báo cáo khoa học.
3
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu ở trên thế giới
1.1.1. Về phục hồi rừng
1.1.1.1. Hiện trạng suy thoái hệ sinh thái rừng
Do dân số tăng lên, nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên cũng tăng lên. Ô
nhiễm môi trường, suy thoái đất, tài nguyên nước thiếu, khí hậu biến đổi, mất đi tính đa
dạng sinh vật, uy hiếp nghiêm trọng đến hệ sinh thái tự nhiên, sự suy thoái hệ sinh thái
rừng ngày càng nghiêm trọng hơn. Theo thống kê FAO năm 2000 đất sản xuất nông
nghiệp bị mất đi 20%, do sự can thiệp của con người trên 50x10
8
ha đất có thực bì bị
thoái hoá, làm cho chức năng phục vụ hệ sinh thái rừng trên lục địa bị ảnh hưởng tới
43%, trong đất có độ che phủ thực bì có 20x10
8
ha bị thoái hoá (chiếm 17% diện tích có
thực bì trên địa cầu, kể cả thực bì nhân tạo), trong đó bị thoái hoá nhẹ (sản lượng nông
nghiệp hơi bị giảm xuống) là 7,5x10
8
ha, bị thoái hoá vừa (sản lượng giảm nhiều phải
đầu tư mới phục hồi) là 9,1 x10
8
ha và bị thoái hoá nặng (không thể tiến hành sản xuất
nông nghiệp, phải thông qua viện trợ quốc tế mới cải tạo được) là 3 x10
8
ha và thoái hoá
cực nặng (không thể sản xuất và cải tạo được) là 0,09x10
8
ha; đất hoang mạc hóa toàn
cầu là 36x10
8
ha. Diện tích rừng mưa nhiệt đới bị thoái hoá là 4,27x10
8
ha. Hàng năm chi
phí đầu tư cho phục hồi sinh thái rừng là 10-20 tỷ USD, Hàng năm tốc độ sa mạc hoá đạt
dến một con số kinh khủng 5x10
4
– 7x10
4
km
2
. Do sự can thiệp quá mức của con người
đất có rừng che phủ đang bị suy thoái trên diện tích lớn.
1.1.1.2. Lược sử hình thành và phát triển của các biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng
Cùng với sự phát triển của nền lâm sinh học nhiệt đới các nhà lâm sinh đã
không ngừng nỗ lực để tìm một hướng đi an toàn cho rừng mưa nhiệt đới. Cùng với
sự phát triển đó phục hồi rừng là vấn đề có bề dày lịch sử. Nó được đề cập tới rất
sớm từ 100 năm nay trên nhiều lĩnh vực quản lý núi đồi, đồng cỏ, rừng và sinh vật
hoang dã. Philip năm 1883 đã xuất bản cuốn phục hồi rừng. Leopold (1935) đã
nghiên cứ phục hồi 24 ha đồng cỏ. Ông cho rằng hệ sinh thái phải được bảo vệ một
cách hoàn chỉnh, quần thể sinh vật phải ổn định và đẹp.
4
Đến thập kỷ 50 thế kỷ 20 nhiều nhà khoa học châu Âu, bắc Mỹ và Trung Quốc
đều chú ý đến vấn đề môi trường, xây dựng một loạt các công trình phục hồi và
phòng chống sự thoái hoá khoáng sản, đất và nước bằng cách áp dụng các biện pháp
sinh vật. Farnworth (1973) đã nêu ra phương hướng nghiên cứu phục hồi rừng mưa
nhiệt đới. Nhiều hội nghị ở Mỹ năm 1975 đã đưa ra các biện pháp kỹ thuật, kế
hoạch nghiên cứu liên quốc gia về vấn đề này.
Nhưng phục hồi hệ sinh thái rừng đã trở thành vấn đề nóng bỏng từ thập kỷ 80
của thế kỷ 20. Năm 1980 Cairn chủ biên cuốn “ Quá trình phục hồi hệ sinh thái bị
tổn thất” 8 nhà khoa học đã tham gia biên soạn nhiều vấn đề về sự tổn thất hệ sinh
thái và các biện pháp khắc phục Năm 1985 thành lập một hiệp hội khoa học phục
hồi hệ sinh thái quốc tế. Lĩnh vực khoa học này đã bắt đầu từ đó. Từ năm 1990
nhiều tác phẩm về phục hồi hệ sinh thái của Peng Weilin đã được xuất bản.
Do sự suy thoái rừng có rất nhiều mức độ nên các hoạt động phục hồi rừng
cũng rất đa dạng, điều này phụ thuộc vào hiện trạng của rừng khi tiến hành phục
hồi. Trong lâm sinh nhiệt đới các biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng rất đa dạng
nhưng cơ sở xuyên suốt của các biện pháp đó là việc vận dụng tái sinh tự nhiên hay
nhân tạo hay sự vận dụng cả hai hình thức tái sinh này phụ thuộc vào từng quốc gia,
từng lập địa cụ thể.
Có rất nhiều cách đưa ra lí do cần phải trồng rừng. Năm 1944 Tansley đưa ra
“giả thuyết về diễn thế gia tốc”: ở các khu rừng mưa không phải là đâu đâu cũng có
thể áp dụng được những kĩ thuật tái sinh tự nhiên. Tại một số nơi, có những diện
tích rừng rộng lớn đã bị phá huỷ do các cách khai thác tàn kiệt hoặc do canh tác tạm
thời, trên những lập địa như thế còn phải trải qua những thời gian dài thì diễn thế tự
nhiên mới sản sinh được những lớp rừng gỗ kinh tế và trồng rừng là phương sách
đẩy nhanh quá trình diễn thế đó. Trong lịch sử có một số kiểu trồng rừng được áp
dụng để khôi phục rừng ở các nước nhiệt đới như sau:
•Trồng rừng kiểu Taungya (Psyllid):
Taungya có nguồn gốc từ Miến Điện và là một trong các đóng góp chủ yếu của
nhiệt đới cho nền lâm học thế giới. Danh từ “taungya” có nghĩa là canh tác trên đồi núi
có tính chất tạm thời, hay nói cách khác là trồng trọt du canh, và cơ sở của trồng rừng
5
kiểu taungya là lợi dụng những người trồng trọt du canh để trồng nên những quần thể
rừng non sau khi những người trồng trọt bỏ lại đất không canh tác nữa.
Kiểu taungya đã được sử dụng chủ yếu ở các khu vực rừng nhiệt đới, có tính
chất phân mùa, nhưng nó vẫn được áp dụng ở các khu vực rừng mưa với một quy
mô không nhỏ. Chẳng hạn như ở Ấn Độ (Krishnaswamy, 1952), Pakixtan (Ghani,
1957), Công gô Kinsaxa ( sở lâm nghiệp Công gô, 1958), và Nijêrya (Redhead,
1960). Ở khu Mayumbe của Công gô, người ta đã sử dụng một phương thức giống
với taungya để trồng chuối đưa ra thị trường bán lấy tiền.
•Trồng dậm dưới tán kiểu quảng canh ( Extensive Enrichment Planting).
Thuật ngữ “trồng dậm dưới tán” bao hàm việc trồng các cây con vào trong
rừng, và trước khi cây con mọc lên vững vàng thì rừng càng ít phải chịu đựng sự
can thiệp càng tốt. Trồng dậm dưới tán kiểu quảng canh được áp dụng nhiều ở các
khu vực nói tiếng Pháp tại Châu Phi. Năm 1949 qua điểm lại các kết quả thu được
trong trồng rừng kiểu quảng canh, Brasnett đã kết luận rằng cách trồng dậm dưới
tán đem lại một phương pháp để tái sinh từng phần, hoặc để tăng tỷ lệ có giá trị loài
cây ở nơi nào mà: 1) sự tái sinh tự nhiên bị thiếu hụt và không thể thúc đẩy được
một cách thích đáng; 2) có ít cây có thể bán được đến mức là chăm sóc những đám
cây tái sinh tự nhiên nằm rải rác thì tổn phí còn đắt hơn là rừng có thể bù đắp được;
3) nơi nào mà không thấy có mặt loài cây có giá trị.
•Trồng dậm dưới tán kiểu thâm canh ( Intensive Enrichment Planting)
Khác hẳn với trồng rừng dưới tán kiểu quảng canh, kiểu trồng dậm dưới tán
kiểu thâm canh yêu cầu phải chăm sóc cho toàn bộ quần thể sau khi trồng. Trồng rừng
dưới tán kiểu thâm canh nhằm thiết lập một quần thể có trữ lượng đầy đủ, nhưng đồng
thời cũng lợi dụng bất kì lớp cây tái sinh hợp yêu cầu nào có thể có mặt trong khoảnh
trồng cây, nói chung là trồng dậm dưới tán được áp dụng ở nơi nào mà lớp cây tái sinh
này thiếu hụt. Kiểu trồng này đã được áp dụng ở nhiều nơi và vào nhiều thời điểm khác
nhau và thường đem lại kết quả rất thoả đáng. Ở New South Wales, phương pháp này
đã được dùng để tạo ra một số các rừng trồng cao tuổi nhất và thành công nhất với loài
Araucaria cunninghamii, phương pháp này đã được dùng ở Xây lan (Holmes. 1956 –
1957 ), Ấn Độ (Krishnaswamy, 1952), Puectô Ricô và Malaysia.
6
•Trồng rừng không tàn che bằng lao động trả công (Open Plantation by
Direct labour). Kiểu tái sinh nhân tạo chủ yếu sau cùng được áp dụng ở các khu
vực rừng mưa là xây dựng những rừng trồng không tàn che bằng lao động trả công,
ngược lại với cách xây dựng các rừng này theo kiểu taungya. Cách làm này là sử
dụng một loạt loài cây khác nhau, dưới những điều kiện biến đổi khác nhau. Người
ta đã lựa chọn rất nhiều loài cây – Pinus radiata ở Tân Tây Lan, Araucaria spp. ở
Queensland và Tân Ghinê, Tectona và Pinus spp. Ở một số nơi tại Indônêxya,
Pinus caribaea ở Xurinam, …Kĩ thuật này đại diện cho hình thức lâm sinh mang
tính chất thâm canh nhất đã được tiến hành và cũng là hình thức tốn nhất nhìn về số
vốn phải bỏ ra, nhưng nó đã chứng tỏ là đem lại lợi nhuận ở mức cao.
Bên cạnh việc vận dụng tái sinh nhân tạo, việc vận dụng tái sinh tự nhiên cũng
diễn ra rất mạnh mẽ ở các khu vực rừng mưa trong việc phục hồi lại hệ sinh thái
rừng. Nó được biểu hiện thông qua các hệ thống kỹ thuật lâm sinh gần với tự nhiên
được áp dụng ở các nước nhiệt đới hay chính là một số phương thức khai thác đảm
bảo tái sinh. Những kỹ thuật này đại diện cho việc phục hồi lại rừng trong điều kiện
còn hoàn cảnh rừng, mục tiêu phục hồi còn gắn chặt với mục tiêu kinh tế từ gỗ của
rừng. Điển hình của một số hệ thống kỹ thuật này là:
Ở Malayxia sau những năm 1940 - 1950 có phương thức rừng đều tuổi (MUS:
Malayan Uniorm System) mà thực chất là một kiểu chặt trắng ở nhiệt đới. MUS là
một kiểu chặt trắng của Malaysia ra đời và thực hiện rộng khắp ở những rừng cây
họ Dầu vùng đất thấp. Phương thức này được dựa trên một tiền đề tái sinh của các
loài cây mong muốn đã có sẵn trên mặt đất rừng chưa khai thác. MUS đòi hỏi
những loài cây tái sinh phải có khả năng thích ứng với sự giải phóng độ tàn che của
tầng cây cao, đặc biệt là sau khi khai quang tầng rừng giữa đồng thời phải giữ được
độ che phủ của tầng lâm hạ để khống chế cỏ dại. Phương thức này được đánh giá là
thành công ở vùng thấp. Tuy nhiên, khi xuất hiện cơ giới hoá trong khai thác, quá
trình này đã làm tăng tổn hại cho những cây còn lại . Đồng thời, do nhu cầu về gỗ
của Malaysia ngày càng cao dẫn đến yêu cầu về khai thác rừng mạnh lên và đơn
điệu hơn. Trong một số năm gần đây, đất rừng vùng thấp được chuyển sang mục
tiêu sử dụng đất khác nêm MUS được mở rộng tới những rừng cây họ Dầu ở trên
7
núi cao hơn (Buschbacher, 1990). Tại những vùng này MUS không thành công vì
một số lý do:
- Địa hình, địa thế khó khăn.
- Thiếu cây tái sinh mọc trên đất rừng trước khai thác.
- Tái sinh hạt sau khai thác không chắc chắn vì thiếu nguồn giống.
- Cây tái sinh bị chèn ép bởi các loài cây thứ yếu họ Cau dừa, tre nứa v.v
Sau thất bại này, ở Malaysia đã xuất hiện một vài biện pháp linh hoạt hơn nhưng
hiện chưa có cơ sở để đánh giá. Ví dụ điển hình như phương thức chặt chọn. Đây là
phương thức "chỉ thu hoạch những cây đã được lựa chọn". Xét về mặt lâm sinh,
phương thức này cố gắng giảm thiểu những tổn hại cho cây tái sinh trong lúc thu hoạch
và xác định chu kỳ khai thác hợp lý. Hiện tại chu kỳ chặt của phương thức này là 25 -
35 năm và lượng chặt tối thiểu là 32 cây/ha cho những cây có D
1.3
≥ 50 cm ở những cây
họ Dầu và D
1.3
≥ 45 cm cho các loài khác, (Thang & Tambong, 1990).
Tại một quốc gia Nam Mỹ là Surinam có một thử nghiệm được tiến hành
trong vòng 17 năm giữa Trường Đại học Nông nghiệp Wagenigen (Hà Lan) và
Trường Đại học Tổng hợp Surinam hợp tác nghiên cứu xây dựng một phương thức
điều chế có tên gọi là "phương thức điều chế Celos" (CMS
*
). Mục tiêu lâm sinh của
CMS là tái sinh những loài cây mục đích, thúc đẩy sinh trưởng của những loài
mong muốn và duy trì cân bằng sinh thái quần thể nhằm giữ ổn định sản lượng bằng
cách duy trì rừng càng giống giai đoạn tự nhiên càng tốt. Một điểm được nhấn
mạnh là mục tiêu xử lý lâm sinh có thể làm mất cân đối tỷ lệ các loài phi mục đích
nhưng không tiêu diệt hẳn chúng. Ưu điểm nổi bật của CMS là bảo toàn được cấu
trúc rừng có hầu hết các cấp tuổi, tạo ra được cách lựa chọn trong điều chế rừng.
Những xáo trộn trong rừng được hạn chế và dự trữ dinh dưỡng khoáng trong sinh
khối chỉ bị vi phạm một phần trong những tác động bắt buộc.
Vẫn còn một số hệ thống biện pháp nữa sử dụng phương pháp lâm sinh để xúc
tiến tái sinh phục hồi lại rừng mà đã được G. Baur [1] tổng kết khá đầy đủ trong tác
phẩm “Cơ sở sinh thái kinh doanh rừng mưa”. Tuy nhiên, các phương pháp này
được xây dựng là do sự nhiệt tình và kinh nghiệm của các nhà lâm sinh nhiệt đới,
*
Celos Managment System
8
chứ không phải được xây dựng trên cơ sở các thí nghiệm có đối chiếu so sánh, cho
nên đã có những bài học thất bại ở một số nước. Do vậy, khi áp dụng những kỹ
thuật này cho một vùng nào đó cần có những thăm dò, thử nghiệm và những điều
chỉnh trước khi đưa vào áp dụng một cách rộng rãi.
1.1.2. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là một khái niệm dùng để chỉ quy luật sắp xếp tổ hợp của các
thành phần cấu tạo nên quần xã thực vật rừng theo không gian và thời gian (Phùng
Ngọc Lan, 1986) Cấu trúc rừng bao gồm cấu trúc sinh thái, cấu trúc hình thái và cấu
trúc tuổi. [7].
- Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng:
Rừng tự nhiên là một hệ sinh thái cực kỳ phức tạp bao gồm nhiều thành phần với
các qui luật sắp xếp khác nhau trong không gian và thời gian. Trong nghiên cứu cấu
trúc rừng người ta chia thành ba dạng cấu trúc là cấu trúc sinh thái, cấu trúc không gian
và cấu trúc thời gian. Cấu trúc của lớp thảm thực vật là kết quả của quá trình chọn lọc
tự nhiên, là sản phẩm của quá trình đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với thực vật và
giữa thực vật với hoàn cảnh sống. Trên quan điểm sinh thái thì cấu trúc rừng chính là
hình thức bên ngoài phản ánh nội dung bên trong của hệ sinh thái rừng.
Các nghiên cứu về cấu trúc sinh thái của rừng mưa nhiệt đới đã được Richards
P.W (1933 - 1934), Baur. G (1962), ODum (1971) tiến hành. Các nghiên cứu này
thường nêu lên quan điểm, khái niệm và mô tả định tính về tổ thành, dạng sống và tầng
phiến của rừng.
Baur G.N. (1962) đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái học nói chung và
về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng, trong đó đã đi sâu nghiên
cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự
nhiên. Từ đó tác giả này đã đưa ra những tổng kết hết sức phong phú về các nguyên lý
tác động xử lý lâm sinh nhằm đem lại rừng cơ bản là đều tuổi, rừng không đều tuổi và
các phương thức xử lý cải thiện rừng mưa [1].
Catinot (1965) đã biểu diễn cấu trúc hình thái rừng bằng các phẫu đồ rừng,
nghiên cứu các nhân tố cấu trúc sinh thái thông qua việc mô tả phân loại theo các khái
niệm dạng sống, tầng phiến [5].
9
Odum E.P (1971) đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ sở thuật ngữ
hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935. Khái niệm hệ sinh thái được làm
sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan điểm s inh thái học [33].
- Về mô tả hình thái cấu trúc rừng:
Richards P.W (1952) [34] đã phân biệt tổ thành thực vật của rừng mưa thành hai
loại rừng mưa hỗn hợp có tổ thành loài cây phức tạp và rừng mưa đơn ưu có tổ thành
loài cây đơn giản, trong những lập địa đặc biệt thì rừng mưa đơn ưu chỉ bao gồm một
vài loài cây. Cũng theo tác giả này thì rừng mưa thường có nhiều tầng (thường có 3
tầng, trừ tầng cây bụi và tầng cây thân cỏ). Trong rừng mưa nhiệt đới, ngoài cây gỗ lớn,
cây bụi và các loài thân cỏ còn có nhiều loài cây leo đủ hình dáng và kích thước, cùng
nhiều thực vật phụ sinh trên thân hoặc cành cây.
Việc phân cấp cây rừng cho rừng hỗn loài nhiệt đới tự nhiên là một vấn đề phức
tạp, cho đến nay vẫn chưa có tác giả nào đưa ra được phương án phân cấp cây rừng cho
rừng nhiệt đới tự nhiên mà được chấp nhận rộng rãi Richards (1952) phân rừng ở
Nigeria thành 6 tầng dựa vào chiều cao cây rừng [34].
Như vậy, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ thường đưa ra những
nhận xét mang tính định tính, việc phân chia tầng thứ theo chiều cao mang tính cơ giới
nên chưa phản ánh được sự phân tầng phức tạp của rừng tự nhiên nhiệt đới.
1.1.3. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái rừng,
biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở những
nơi còn hoàn cảnh rừng: dưới tán rừng, chỗ trống trong rừng, đất rừng sau khai thác,
đất rừng sau nương rẫy. Vai trò lịch sử của lớp cây con này là thay thế thế hệ cây già
cỗi. Vì vậy tái sinh từng hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản
của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được xác định bởi
mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc điểm phân bố. Sự tương
đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm (Mibbre-ad, 1930; Richards, 1933; 1939; Aubreville, 1938; Beard,
1946; Lebrun và Gilbert, 1954; Joné, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969).
10
Do tính chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên trong
thực tiễn, người ta chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít được
nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng mưa thường chỉ
tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng đã ít nhiều bị biến
đổi. Van steenis (1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng mưa
nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các
loài cây ưa sáng [35].
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng (thông
qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi, thảm tươi là
những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng, cho đến nay đã có
nhiều công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. Baur G.N. (1962) [1] cho rằng,
sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây con còn đối với sự nảy mầm
và phát triển của cây mầm, ảnh hưởng này thường không rõ ràng và thảm cỏ, cây
bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây tái sinh. Ở những quần thụ kín tán, thảm
cỏ và cây bụi kém phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn
chung ở rừng nhiệt đới, tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá lớn. Nhưng số
lượng loài cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và được chú ý hơn, còn các
loài cây có giá trị kinh tế thấp thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh
ở các trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy.
Độ khép tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống của cây
con. Trong công trình nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa cây con và quần thụ,
V.G.Karpov (1969) đã chỉ ra đặc điểm phức tạp trong quan hệ cạnh tranh về dinh
dưỡng khoáng của đất, ánh sáng, độ ẩm và tính chất không thuần nhất của quan hệ qua
lại giữa các thực vật tuỳ thuộc đặc tính sinh vật học, tuổi và điều kiện sinh thái của
quần thể thực vật.
1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu về khoanh nuôi và phục hồi rừng
11
Vào những năm 50 - 60 của thế kỷ trước vấn đề phục hồi rừng ở nước tra đã
được đặt ra với thuật ngữ ban đầu của nó “Khoanh núi nuôi rừng”. Tuy nhiên vào các
thập kỷ tiếp theo lâm nghiệp việt nam lại đi theo các hướng trọng tâm khác nhau dẫn
đến việc “khoanh núi nuôi rừng” vẫn chỉ là một khẩu hiệu mặc dù cũng đã được đưa
thành một nội dung trong giáo trình môn lâm học giảng dạy cho sinh viên Lâm nghiệp
khoá đầu tiên, nhưng ngay cả khái niệm phạm vi đặt ra như thế nào? đối tượng là gì và
ở đâu? cũng chưa được định rõ. Mãi đến giữa những năm 80 cái được gọi là “khoanh
núi nuôi rừng” mới được định hình và chuyển hướng theo cụm thuật ngữ mới là: “phục
hồi rừng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh” hay “khoanh nuôi xúc tiến tái sinh phục hồi
rừng”. Sự chuyển hướng đó được chú ý bằng 2 đề tài nghiên cứu thuộc chương trình
cấp Nhà nước đó là:
+ Nghiên cứu phân loại đối tượng và đề xuất biện pháp phục hồi rừng bằng
khoanh nuôi, xúc tiến, tái sinh vùng lưu vực Sông Đà, chương trình lâm nghiệp tổng
hợp, mã số 04.01, giai đoạn 1986-1990.
+ Trần Đình Lý và các cộng sự (1996) [23] Nghiên cứu xác định diện tích và hệ
thống biện pháp kỹ thuật cho việc khoanh nuôi phục hồi rừng. Nghiên cứu đưa ra một
cách nhìn hệ thống và toàn diện về biện pháp kỹ thuật khoanh nuôi phục hồi rừng.
Với việc phân biệt rõ ràng giữa rừng và thảm thực vật, nghiên cứu đưa ra khái niệm
khoanh nuôi phục hồi rừng là “quá trình lợi dụng triệt để quy luật tái sinh và diễn thế
tự nhiên với sự can thiệp hợp lý của con người nhằm thúc đẩy quá trình phục hồi lại
rừng trong một thời gian xác định theo mục đích đặt ra”. Qua cách nhìn nhận đó xác
định được đối tượng cụ thể cho khoanh nuôi phục hồi rừng. Xác định thời gian
khoanh nuôi và tiêu chuẩn cần đạt của rừng khoanh nuôi. Xác định được nội dung
công việc cần tiến hành trong quá trình khoanh nuôi ở các mức độ khác nhau. Nghiên
cứu đã xây dựng được bản quy phạm cho khoanh nuôi phục hồi rừng và xây dựng
được danh lục sơ bộ gồm 155 loài cây bản địa có thể sử dụng cho việc khoanh nuôi
và phục hồi rừng. Đây là công trình đầu tiên ở việt nam đề cập một cách hệ thống từ
cơ sở khoa học đến quy phạm khoanh nuôi phục hồi rừng ở Việt nam. Nghiên cứu
này mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng quy phạm chưa xây dựng được quy trình
khoanh nuôi cụ thể cho từng vùng và từng loại hình rừng cụ thể.
12
Bên cạnh các đề tài đó có đề tài cấp cơ sở điều tra khảo sát hoặc nghiên cứu thí
nghiệm một số vấn đề có liên quan cũng được xúc tiến ở nhiều địa phưong như:
- Nghiên cứu quá trình tái sinh tự nhiên thảm thực vật rừng và ứng dụng phương
thức khoanh nuôi phục hồi rừng ở Quảng Ninh (ĐHLN, 1993).
- Khả năng tái sinh diễn thế, quá trình sinh trưởng và phát triển của thảm thực
vật trên đất rừng thứ sinh sau nương rẫy tại Kon Hà Nừng. (Viện STTNSV, 92)
- Đặc điểm sinh thái Lâm học rừng cây họ Dầu(Dipterocarpaceae) ở Đông Nam
Bộ và một số định hướng bảo vệ khôi phục rừng (Viện ĐTQHR, 1991-1995)
- Một số loài cây bản địa có thể sử dụng trong khoanh nuôi phục hồi rừng ở Việt
Nam (Viện STTNSV, 1994)
- Quy trình kỹ thuật khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên ở vùng Tây Bắc (Trung
tâm KHSXLN Tây Bắc, 1992)
- Phân loại đất trống đồi núi trọc phục vụ trồng rừng và tái sinh rừng (Viện
ĐTQHR, 1998)
Cùng với sức ép ngày một bức bách của yêu cầu và thực tiễn sản xuất các kết quả
của sự chuyển hướng đó là những tiền đề quan trọng cho sự đổi mới của vấn đề tái sinh
phục hồi rừng. Đầu những năm 90, kết quả của sự chuyển hướng đã được pháp lý hoá
thông qua 3 tiêu chuẩn ngành thể hiện sự đổi mới của vấn đề này.
Các tiêu chuẩn đó là :
- Quy phạm các giải pháp kỹ thuật Lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất gỗ và tre
nứa(QPN 14-92), ban hành theo Quyết định số 200/QĐ- KT ngày 31/3/1993 của Bộ
Lâm nghiệp.
- Quy phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ
sung (QPN 21-98), ban hành theo QĐ số 125/QĐ/ BNN/KHCN ngày 04/11/1998 của
Bộ Nông nghiệp và PTNT.
- Quy định tạm thời nghiệm thu khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh
kết hợp trồng bổ sung, trồng rừng và chăm sóc rừng trồng, ban hành theo QĐ số
162/1999/QĐ-BNN-PTLN ngày 10/12/1999 của BNN& PTNT.
Sự đổi mới ấy vừa khẳng định tầm quan trọng và chỗ đứng không thể thiếu được
của việc tái sinh phục hồi rừng trong hệ thống các giải pháp kỹ thuật Lâm sinh, vừa xác
13
lập một số cơ sở kỹ thuật nhằm thúc đẩy sản xuất theo định hướng đó. Nhưng chưa
dừng lại ở những thành quả đó vẫn có nhiều tác giả tiến hành những nghiên cứu
chuyên sâu về lĩnh vực phục hồi rừng.
Trần Xuân Thiệp (1991) [25], nghiên cứu “Vai trò tái sinh phục hồi rừng tự nhiên
ở các vùng miền bắc” đề tài tập trung vào sự biến đổi về lượng, chất lượng của tái sinh
tự nhiên và rừng phục hồi. Qua đó, đánh giá hiệu quả của tái sinh và vị trí phục hồi
trong kết cấu rừng tự nhiên ở các vùng. Công trình đánh giá vai trò phục hồi rừng tự
nhiên đối với diễn biến diện tích rừng hỗn loại cây lá rộng thường xanh ở các vùng
rừng miền Bắc, đưa ra căn cứ khoa học và bổ xung nhận thức về công tác khoanh nuôi
phục hồi rừng nghèo kiệt ở các vùng.
Đỗ Hữu Thư, Trần Đình Lý, Lê Đồng Tấn (1994) [26] dựa vào các trạng thái
thực bì đã được phân chia trên cơ sở bảng phân loại của Loeschau (1966) và Quy
phạm thiết kế kinh doanh rừng của Bộ Lâm Nghiệp và theo phương pháp của Thái
Văn Trừng đã nghiên cứu các trạng thái thực bì kiểu IA, IB, IC, IIA, IIB đưa ra
nhận xét, trong suốt quá trình phục hồi tự nhiên thảm thực vật rừng trước khi đạt tới
giai đoạn thuần thục, thành phần loài và số lượng cây gỗ trên một diện tích nhất
định có xu hướng giảm dần, đơn giản hoá để tái ổn định. Tuy nhiên, trong giai đoạn
đầu của quá trình tự phục hồi thảm thực vật rừng, quy luật này biểu hiện chưa rõ
ràng và có thể có những xáo trộn.
Lê Đồng Tấn (1993 – 1999) [24] nghiên cứu quá trình phục hồi tự nhiên một
số quần xã thực vật sau nương rẫy tại Sơn La theo phương pháp kết hợp điều tra ô
tiêu chuẩn 400m
2
cho các đối tượng là thảm thực vật phục hồi sau nương rẫy và
theo dõi ô định vị 2000m
2
. Tác giả kết luận: mật độ cây tái sinh giảm dần từ chân
đồi lên đỉnh đồi. Tổ hợp loài cây ưu thế trên ba vị trí địa hình và 3 cấp độ dốc là
giống nhau. Sự khác nhau chính là hệ số tổ thành các loài trong tổ hợp đó.
Nguyễn Văn Thông (2001) [27], đưa ra kết quả phục hồi rừng tự nhiên tại trung
tâm nghiên cứu thực nghiệm lâm sinh cầu hai – Phú thọ. Qua đó tác giả đã đưa ra được
ưu nhược điểm của các biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng được áp dụng ở trung tâm từ
những năm 1960 tới nay. Tác giả kết luận có thể sử dụng cả 3 biện pháp: cải tạo rừng,
làm giàu và khoanh nuôi rừng để phục hồi rừng tự nhiên. Biện pháp làm giàu rừng và
14
cải tạo rừng giải quyết được vấn đề về mật độ và tổ thành. Tuy nhiên, nó lại có một số
hạn chế là làm thay đổi khá lớn và lâu phục hồi lại hoàn cảnh rừng cũng như lâu phục
hồi khả phòng hộ và khả năng cải thiện môi trường, đầu tư tốn kém, kỹ thuật gây trồng
phức tạp. Khi thất bại do chọn loài cây, biện pháp gây trồng không hợp lý thì hậu quả
sẽ rất lớn. Biện pháp khoanh nuôi rừng có ưu điểm la chi phí đầu tư thấp, triển vọng
thành rừng cao, nhanh phát huy tác dụng mọi mặt của rừng nhưng có nhược điểm chỉ
thực hiện ở các diện tích rừng có số lượng, chất lượng tái sinh tự nhiên đảm bảo.
Nghiên cứu này đưa ra được các ưu nhược điểm của các biện pháp phục hồi rừng ở cầu
hai nhưng lại chưa đưa ra được phương hướng giải quyết khắc phục các nhược điểm đó
một cách rõ ràng.
Phạm Đình Tam (2001) [22], nghiên cứu khả năng tái sinh phục hồi rừng sau
khai thác tại Kon Hà Nừng. Nghiên cứu tiến hành xác định cường độ khai thác hợp lý
nhằm thúc đẩy lượng tăng trưởng hàng năm của lâm phần, cải thiện chất lượng của
rừng và xúc tiến quá trình tái sinh tự nhiên. Từ đó, xây dựng quy phạm khai thác đảm
bảo tái sinh áp dụng cho rừng lá rộng thường xanh. Khai thác với cường độ 30 – 50%
trữ lượng rừng, số loài cây giảm đi từ 7 – 10 loài; tuy nhiên trong tổ thành vẫn còn
nhiều loài kém giá trị kinh tế cần chặt bỏ. Ở cả hai cường độ khai thác 30 và 50% trữ
lượng đều đảm bảo cho lâm phần tăng trưởng cả về số lượng cây và trữ lượng rừng.
Sau 20 năm, lượng tăng trưởng ở công thức khai thác 50% lơn hơn ở công thức khai
thác 30%. Tình hình tái sinh tự nhiên ở công thức 50% có nhiều triển vọng hơn.
Phạm Xuân Hoàn (2002) [13] tiến hành nghiên cứu phục hồi rừng bằng cây bản
địa. Nghiên cứu đã đưa ra được những cơ sở khoa học và thực tiễn cho kỹ thuật xử lý
lớp cây tạo môi trường ban đầu nhằm hỗ trợ và thúc đẩy sinh trưởng cho lớp cây bản
địa được trồng dưới tán rừng thông và keo. Sử dụng các phương pháp xác định nhu cầu
ánh sáng cho cây bản địa nhằm đảm bảo độ tin cậy khi quyết định các chỉ tiêu kỹ thuật
khi xử lý tầng cây cao. Việc xử lý tầng cây cao chỉ nên tiến hành hai lần bao gồm cả tỉa
thưa và tỉa cành dựa trên những chỉ tiêu cụ thể về nhu cầu ánh sáng theo các giai đoạn
sinh trưởng của cây bản địa ở thời kì tạo rừng và giai đoạn cây bản địa tạo tán. Để tăng
sự đa dạng sinh học, không loại bỏ tầng cây bụi thảm tươi dưới tán rừng khi chúng
không cạnh tranh với cây bản địa và chăm sóc những cây tái sinh của các loài khác
15
xuất hiện. Có thể coi sự có mặt của những cây tái sinh này như một tiêu chuẩn để đánh
giá thành công trong phục hồi rừng bằng cây bản địa.
Phạm Ngọc Thường (2003), [28] đề xuất một số giải pháp kĩ thuật lâm sinh
phục hồi rừng sau nương rẫy ở hai tỉnh Thái nguyên – Bắc cạn trên một số mô hình.
Mô hình khoanh nuôi tái sinh tự nhiên, mô hình này có thời gian phục hồi 7 – 8
năm cho biết được mật độ cây tái sinh và số lượng cây tái sinh có triển vọng/ha.
Nhưng công trình này không đưa ra số liệu về kích thước cây tái sinh và không có
mô hình đối chứng nên chưa đánh giá được hiệu quả của khoanh nuôi tái sinh tự
nhiên đến mức nào?. Mô hình khoanh nuôi xúc tiến tái sinh trồng bổ xung cho biết
cây trồng bổ xung có tỷ lệ sống cao, sinh trưởng tốt nhưng lại không đề cập tới tình
hình tái sinh như thế nào thông qua biện pháp kỹ thuật lâm sinh do vậy nó vẫn chưa
minh chứng được hiệu quả của mô hình.
Phạm Quốc Hùng (2005) [15] tiến hành đề tài “Đánh giá khả năng tái sinh
phục hồi rừng vùng đông bắc việt nam”. Nghiên cứu tập trung vào đối tượng rừng
phục hồi ở độ cao < 700m trong đất liền. Đề tài đưa ra được đặc điểm lâm học và
đặc điểm tái sinh dưới tán rừng của các trạng thái rừng phục hồi. Tuy nhiên, trong
vấn đề nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc của rừng phục hồi đề tài chưa đưa ra được
hàm số phù hợp để mô tả tương quan chiều cao và đường kính của rừng phục hồi.
Những nghiên cứu về phục hồi rừng ở trong nước cũng đã được tiến hành khá
bài bản từ những nghiên cứu cơ bản cho đến những nghiên cứu ứng dụng theo trào
lưu phát triển KTLS trên thế giới nhưng có sự điều chỉnh áp dụng vào kết quả của
nó là những quy trình kỹ thuật đã được ban hành.
1.2.2. Nghiên cứu cấu trúc rừng
Trần Ngũ Phương (1970) đã chỉ ra những đặc điểm cấu trúc của các thảm thực
vật rừng miền Bắc Việt Nam trên cơ sở kết quả điều tra tổng quát về tình hình rừng
miền Bắc Việt Nam từ 1961 đến 1965. Nhân tố cấu trúc đầu tiên được nghiên cứu là tổ
thành và thông qua đó một số quy luật phát triển của các hệ sinh thái rừng được phát
hiện và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất [19].
1.2.3. Nghiên cứu về tái sinh rừng
16
Trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều tra - Quy hoạch rừng đã
điều tra tái sinh tự nhiên theo các "loại hình thực vật ưu thế" rừng thứ sinh ở Yên Bái
(1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn (1969). Đáng chú ý là kết
quả điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu (1962-1964) bằng phương pháp đo đếm
điển hình. Từ kết quả điều tra tái sinh, dựa vào mật độ cây tái sinh, Vũ Đình Huề
(1969) đã phân chia khả năng tái sinh rừng thành 5 cấp, rất tốt, tốt, trung bình, xấu và
rất xấu. Nhìn chung nghiên cứu này mới chỉ chú trọng đến số lượng mà chưa đề cập
đến chất lượng cây tái sinh. [14].
1.2.4 Một số nghiên cứu khác về rừng phục hồi sau nương rẫy ở Việt Nam
Viện khoa học Lâm nghiệp (2001) xây dựng chuyên đề về canh tác nương rẫy.
Chuyên đề đã giới thiệu các công trình nghiên cứu về đánh giá hiện trạng canh tác
nương rẫy ở Tây Nguyên (1998-1999) (Đỗ Đình Sâm và cộng sự), canh tác nương
rẫy của một số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên (Võ Đại Hải, Trần Văn Con, Nguyễn
Xuân Quát và cộng sự), kết quả nghiên cứu xây dựng mô hình canh tác nương rẫy
theo hướng sử dụng đất bền vững ở Tây Bắc (Ngô Đình Quế và cộng sự). Các tác
giả đã phân tích khá sâu sắc về tập quán canh tác nương rẫy ở Tây Nguyên và các
chính sách, giải pháp sử dụng hợp lý đất rừng. Giới thiệu kết quả bước đầu khảo
nghiệm 4 mô hình sử dụng cây họ đậu để làm tăng độ che phủ, phục hồi nhanh độ
phì đất bỏ hoá và làm tăng năng suất cây trồng nông nghiệp [30].
Lê Đồng Tấn (1993-1999) nghiên cứu quá trình phục hồi tự nhiên một số quần
xã thực vật sau nương rẫy tại Sơn La theo phương pháp kết hợp điều tra ô tiêu
chuẩn 400m2 cho các đối tượng là thảm thực vật phục hồi sau nương rẫy và theo
dõi ô định vị 2000m2. Tác giả kết luận: mật độ cây tái sinh giảm dần từ chân đồi lên
đỉnh đồi. Tổ hợp loài cây ưu thế trên ba vị trí địa hình và 3 cấp độ dốc là giống
nhau. Sự khác nhau chính là hệ số tổ thành các loài trong tổ hợp đó [24].
Đặng Kim Vui (2002) khi nghiên cứu cấu trúc rừng phục hồi sau nương rẫy ở
huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn với đối tượng là rừng phục hồi tự nhiên ở các giai
đoạn tuổi khác nhau, đã nghiên cứu về cấu trúc tổ thành loài, cấu trúc dạng sống,
cấu trúc hình thái, mật độ, độ phủ, của các trạng thái rừng và kết luận: Tổng số
loài cây của hệ sinh thái rừng phục hồi giảm dần khi giai đoạn tuổi tăng lên, đồng
17
thời số loài cây gỗ tăng dần, số loài cây cỏ, cây bụi giảm nhanh. Theo quá trình
phục hồi, trạng thái rừng có sự thay đổi về tầng thứ và thành phần thực vật ở các
tầng, ở giai đoạn cuối của quá trình phục hồi (từ 10 - 15 tuổi) rừng có cấu trúc 5
tầng rõ rệt. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả phục
hồi rừng sau nương rẫy [32]
Tóm lại, trong quá trình phát triển ngành lâm nghiệp trong thời gian qua đã có
nhiều tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc và tái sinh
rừng tự nhiên. Những công trình đã được đề cập ở trên là những tiền đề, định
hướng quan trọng cho việc giải quyết các vấn đề nghiên cứu của đề tài. Cho đến
nay, vấn đề nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi sau nương rẫy vẫn còn ít và
chưa thuyết phục, đặc biệt ở thị trấn Phong Hải – Huyện Bảo Thắng một trong
những khu vực miền núi có nhiều nương rẫy song chưa có đề tài nào nghiên cứu một
cách có hệ thống về cấu trúc rừng phục hồi sau nương rẫy. Trên cơ sở chắt lọ, lựa chọn
và vận dụng những kết quả của các tác giả đi trước, đề tài tiếp tục nghiên cứu một số
đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi tự nhiên sau nương rẫy tại thị trấn Phong Hải – Huyện
Bảo Thắng , qua đó đề tài đề xuất một số giải pháp, biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù
hợp với mục đích phát triển chung của ngành lâm nghiệp hiện nay.
1.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu
1.3.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
1.3.1.1. Vị trí địa lý
Bảo Thắng là huyện vùng thấp của tỉnh Lào Cai, có tổng diện tích đất tự nhiên
là 68.219,3 ha. Trung tâm huyện lỵ cách trung tâm Thành phố Lào Cai 25 km về
phía Tây Bắc. Khu vực nghiên cứu là thị trấn Phong Hải nằm ở phía Đông Bắc của
huyện Bảo Thắng có tổng diện tích tự nhiên 9161ha trong đó rừng tự nhiên có 3802 ha
(có 3015 ha rừng phòng hộ đầu nguồn, chiếm 79% diện tích rừng tự nhiên), rừng trồng
có 1066 ha (có 44 ha rừng phòng hộ đầu nguồn, chiếm 4,12% diện tích rừng trồng).
Địa giới hành chính của thị trấn Phong Hải như sau:
- Phía Bắc giáp huyện Mường Khương,
- Phía Đông + Đông Nam giáp huyện Bắc Hà, và xã Phong Niên
- Phía Tây + Tây Nam giáp xã Thái Niên,
18
- Phía Tây Bắc giáp xã Bản Phiệt và xã Bản Cầm.
1.3.1.2. Điều kiện địa hình
a) Về đồi núi:
Bao gồm các dải núi đá và đồi thấp chạy dài 13,5 km dọc 2 bên Quốc lộ 70,
địa hình phức tạp, với các dãy núi đá với có độ cao trung bình từ 500 đến trên 1000
m, đồi thấp có độ cao từ 200 - 500 m.
Địa hình chia làm hai vùng: vùng Bắc - Tây Bắc và Nam - Đông Nam.
Vùng Bắc - Tây Bắc địa hình phân cách mạnh bởi nhiều khối núi cao, xen kẽ là
núi đá, độ cao địa hình từ 300 - 900m phần lớn là diện tích núi đá không có cây rừng.
Rừng tự nhiên và đất nông nghiệp ít, mật độ dân cư thấp.
Vùng Nam - Đông Nam chiếm phần lớn diện tích của thị trấn. Địa hình là các đồi
bát úp thấp, xen kẽ là các thung lũng tương đối bằng phẳng. Đất đai ở đây tương đối
thuận lợi cho sự phát triển nông lâm nghiệp, dân cư tập trung chủ yếu ở vùng này.
b) Sông ngòi thuỷ văn:
Hệ thống suối, ngòi bắt nguồn từ núi cao chảy xuống (Suối Ải Dõng; suối Vi
Mã Trên ) là nguồn cung cấp nước phục vụ cho sinh hoạt của người dân cũng như
phục vụ cho việc tưới tiêu trong sản xuất nông - lâm nghiệp và nuôi thuỷ sản
1.3.1.3. Điều kiện khí hậu thời tiết
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, chịu ảnh
hưởng trực tiếp khí hậu gió mùa, một năm có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 4 đến
tháng 9, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau:
- Mùa mưa: Thời tiết nóng ẩm, lượng mưa lớn chiếm 80% lượng mưa cả năm,
trong đó tháng 6,7 và 8 có lượng mưa lớn nhất (trên 300 mm/tháng).
- Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, có nhiệt độ trung bình từ
20 - 25
0
C; tháng nóng nhất là tháng 7, nhiệt độ trung bình 30 - 35
0
C. Tháng lạnh
nhất là tháng 1 âm lịch có nhiệt độ trung bình từ 10 -15
0
C.
- Độ ẩm không khí trung bình năm: 80%.
- Hướng gió thịnh hành là hướng Đông Nam. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng
của luồng gió khô và nóng xuất hiện vào các tháng 5, 6, 7.
19
Nhìn chung điều kiện khí hậu của thị trấn tương đối thuận lợi cho phát triển
nông lâm nghiệp. Mùa đông với khí hậu khô, lạnh làm cho vụ đông trở thành vụ
chính có thể trồng được nhiều loại cây rau, màu ngắn ngày có giá trị kinh tế.
1.3.1.4. Về đất đai thổ nhưỡng
Tổng diện tích đất tự nhiên của thị trấn là 9161 ha, với nền vật chất chủ yếu là
các loại đá mẹ, có nguồn gốc từ đá trầm tích và đá biến chất có kết cấu hạt mịn, đá
hỗn hợp và các loại đá vôi Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, thì trên phạm vi thị
trấn có hai loại đất chính là đất phù sa được bồi đắp bởi các suối và đất đỏ vàng trên
đá sét và biến chất.
- Đất phù sa bồi đắp từ suối: Đây là loại đất chủ yếu được bồi đắp bởi phù sa
các suối lớn, nhỏ có nguồn gốc từ sông Hồng, sông Chảy nhưng lượng phù sa ít nên
đất kém màu mỡ, kết cấu không bền chặt, diện tích không lớn thích hợp cho trồng
lúa, màu.
- Đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất: Loại đất này có thành phần cơ giới
nặng, phân tầng phát sinh rõ rệt, khá tơi xốp nhưng hơi chua, kết cấu viên nhỏ thích
hợp trồng cây công nghiệp như chè và cây ăn quả nhiệt đới: chè, dứa, nhãn và các
cây nguyên liệu như mỡ, keo, bồ đề
Ngoài ra trên địa bàn thị trấn còn có đất mùn đỏ nâu và đất dốc tụ trên núi đá
biến đổi do trồng lúa.
+ Đất mùn đỏ nâu: các loại đất này nằm trên địa hình dốc chia cắt mạnh,
thành phần cơ giới trung bình và nhẹ. Đất mùn dày, chua, độ phì nhiêu cao, giàu
đạm kali nhưng nghèo lân nên thích hợp với trồng cây lâm nghiệp.
+ Đất dốc tụ biến đổi do trồng lúa: Hơi ẩm, mùn khá, thịt trung bình, tơi xốp,
thích hợp trồng lúa và cây màu.
Nhìn chung đất đai của thị trấn khá đa dạng thích hợp trồng nhiều loại cây nông,
lâm nghiệp khác nhau. Những loại đất này đều là đối tượng sản xuất chính và đều được
khai thác trong sản xuất nông - lâm nghiệp. Tuy nhiên, cần tăng cường công tác quản
lý và bảo vệ ở những nơi đất còn rừng thuộc vùng núi cao, ở những nơi không còn
rừng cần khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên cũng như xúc tiến trồng rừng ở những nơi
điều kiện cho phép. Riêng ở những vùng đất thuộc vùng núi thấp cần hoạch định rõ
20
ranh giới đất nông - lâm nghiệp và các loại đất khác tạo điều kiện khai thác triệt để
những ưu thế từng loại đất và phân bổ vào các mục đích sử dụng đất thích hợp.
1.3.1.5. Tài nguyên - khoáng sản
a) Tài nguyên rừng: Diện tích đất lâm nghiệp là 4.890,5hha, trong diện tích
rừng hiện có của xã là 4.782,3 ha chiếm 52,2% tổng diện tích tự nhiên, trong đó:
1717,8 ha là rừng sản xuất; 3064,5 ha là rừng phòng hộ.
Cây trồng lâm nghiệp khá đa dạng, bao gồm nhiều loài cây phát triển tốt trên
địa bàn như: Bồ đề, Mỡ, Quế Ngoài ra một số diện tích rừng được kết hợp trồng
cây lấy gỗ và cây ăn quả theo mô hình Nông - Lâm kết hợp.
Tài nguyên rừng đóng vai trò rất quan trọng về an ninh quốc phòng và môi
trường sinh thái. Rừng có tác dụng điều hoà khí hậu, chống sói mòn và lũ quét Vì
vậy trong những năm tới cần phủ xanh diện tích đất được quy hoạch trồng rừng,
đồng thời khoanh nuôi, chăm sóc và bảo vệ diện tích rừng hiện có.
b) Tài nguyên khoáng sản: Trên địa bàn thị trấn không có nhiều khoáng sản,
hiện nay trên địa bàn chỉ có một số mỏ đá đang thực hiện khai thác như: Tòng Gìa,
Ải Dõng. Đây là nguồn tài nguyên mà thiên nhiên đã dành cho thị trấn, tạo điều
kiện thuận lợi cho thị trấn phát triển việc xây dựng các công trình giao thông và nhà
ở là động lực để phát triển kinh tế - xã hội.
1.3.1.6. Về du lịch
Trên địa bàn thị trấn vẫn đang bảo vệ được khu rừng tự nhiên nhìn rất đẹp
mắt, đặc biệt hơn khu vực rừng tự nhiên xuất hiện một con suôi có nguồn gốc từ
rừng nùi đá chảy xuống rất mát, hấp dẫn nhiều khách thăm quan người nước ngoài
có sở thích leo rừng khám phá du lịch sinh thái. Đây cũng là đầu mối để thị trấn
Phong Hải quan tâm đầu tư trong tương lai.
1.3.1.7. Tài nguyên nhân văn
Lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất và con người Phong Hải cũng
như các vùng khác trong huyện Bảo Thắng nói riêng và tỉnh Lào Cai nói chung, đã
có lịch sử từ lâu đời. Tuy nhiên do đây là vùng núi có 9 dân tộc cùng sinh sống nên
có sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc. Các dân tộc cư trú ở đây có lịch sử hình
21
thành và thời gian cư trú khác nhau nhưng các dân tộc đã cùng nhau đoàn kết đấu
tranh anh dũng, quật cường trong quá trình dựng nước và giữ nước.
1.3.2. Điều kiện dân sinh, kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu
1.3.2.1. Điều kiện dân sinh, kinh tế
Toàn thị trấn có 9176 nhân khẩu với 2303 hộ, quy mô hộ là 3,98 người/hộ; Có
9 dân tộc cùng chung sống: Dân tộc Kinh là 1293 hộ chiếm 56,12% tổng số hộ trên
địa bàn; Dân tộc H'Mông là 497 hộ chiếm 21,58% tổng số hộ trên địa bàn; Dân tộc
Dao là 292 hộ chiếm 12,7%; Dân tộc Nùng là 140 hộ chiếm 6,08% tổng số hộ trên
địa bàn; Dân tộc Gíay là 33 hộ chiếm 1,43% tổng số hộ trên địa bàn; Dân tộc Phù
Lá là 26 hộ chiếm 1,13% tổng số hộ trên địa bàn; Dân tộc Tày là 12 hộ chiếm
0,52% tổng số hộ trên địa bàn; Dân tộc Hoa là 8 hộ chiếm 0,35% tổng số hộ trên địa
bàn; Dân tộc Mường là 2 hộ chiếm 0,09% tổng số hộ trên địa bàn. Mặc dù có nhiều
dân tộc sinh sống nhưng nhân dân Thị trấn Nông Trường Phong Hải với tinh thần
cần cù lao động, có ý chí tự lập, tự cường khắc phục khó khăn đã cùng nhân dân cả
nước giữ vững vùng biên cương của Tổ quốc.
Với bề dày truyền thống, ngày nay trong quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại
hóa đất nước nhân dân thị trấn đã đoàn kết một lòng hăng hái lao động xây dựng
quê hương giàu, đẹp và vững mạnh về Quốc phòng - An ninh.
Thị trấn Nông Trường Phong Hải là một trong 15 xã, thị trấn miền núi khó
khăn của huyện Bảo Thắng, do đó dân cư sống không tập chung, cuộc sống của
người dân còn gặp nhiều khó khăn, nguồn sống chủ yếu là thu từ nông nghiệp và
chăn nuôi. Trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán còn lạc hậu, đặc biệt là tệ nạn
rượu chè, ma chay, cưới xin còn nhiều tốn kém và nặng nề.
Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số cao, có nhiều thôn đặc biệt khó khăn, nhiều thôn
vùng sâu, vùng xa, vùng cao neenanhr hưởng không nhỏ đến đời sống và điều kiện
sinh hoạt của người dân.
1.3.2.2 Kinh tế - xã hội
+ Hoạt động sản xuất nông nghiệp: Tổng diện tích đất nông nghiệp của thị
trấn là 1250,89 ha chiếm 13,65% tổng diện tích đất tự nhiên của thị trấn, chủ yếu là
trồng lúa, ngô, khoai, sắn.
22
Thực tế người dân thị trấn còn gặp nhiều khó khăn, ruộng cấy hai vụ lúa có
luân canh xen vụ. Nhưng do người dân còn nhiều tập quán lạc hậu, sự am hiểu về
khoa học kỹ thuật công nghệ còn hạn chế, trong nông nghiệp chủ yếu là trồng lúa
nước, về chăn nuôi chủ yếu là chăn nuôi trâu, bò, lợn và gia cầm.
+ Sản xuất lâm nghiệp: Tổng diện tích đất lâm nghiệp là 4782,3 ha chiếm 52,2
% so với tổng diện tích tự nhiên.
+ Chăn nuôi: Giữ vững và phát triển đàn đại gia súc, gia cầm tại địa phương.
Đặc biệt là đàn trâu phục vụ cho cày kéo, kết hợp nuôi trâu sinh sản, hàng hóa. Đàn
trâu của thị trấn hiện có là 1559, đàn bò là 4 con, đàn lợn 11.500 con, đàn gia cầm là
97.950 con, diện tích ao hồ nuôi cá là 92 ha.
+ Hoạt động tiểu thủ công nghiệp.trên địa bàn thị trấn trong thời gian gần đây
có sự phát triển đáng kể, hiện có một số nhà máy đang được xây dựng như: Bóc gỗ,
sấy ván, xay đá, chế biến nông sản.
1.3.2.3.Cơ sở hạ tầng
Thực hiện phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, dân làm nhà nước
hỗ trợ vốn. Trong xây dựng cơ bản lãnh đạo thị trấn đã chỉ đạo sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn của nhà nước, kết hợp với nguồn lực của địa phương để xây dựng cơ sở
hạ tầng kỹ thuật, tập trung đầu tư có trọng tâm, ưu tiên xây dựng các công trình
trọng điểm phục vụ thiết thực cho sản xuất và đời sống của cán bộ và nhân dân trên
địa bàn thị trấn.
+ Trụ sở Đảng ủy - HĐND - UBND thị trấn: Nằm ở km 28 trên trục đường
Quốc Lộ 70 hướng Lào Cai - Hà Nội có diện tích là 4500m
2
, được xây dựng gồm
một nhà cấp II với 15 phòng làm việc, 1 hội trường, 1 Nhà công vụ, 1 bếp.
+ Cơ sở y tế: Thị trấn có 1 Trạm y tế, 1 Phòng khám đa khoa khu vực được
xây dựng tại khu vực trung tâm. Nhìn chung công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân
dân được đảm bảo, thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia và y tế dự phòng.
Tổ chức tốt công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân,
công tác tuyên truyền vận động kế hoạch hoá gia đình thu được những kết quả tốt,
vận động nhân dân thực hiện các chương trình như: Tiêm chủng mở rộng, chăm sóc
sức khoẻ bà mẹ và trẻ sơ sinh, sơ cấp cứu ban đầu, ngăn ngừa và đẩy lùi dịch bệnh
23
+ Giáo dục và đào tạo: Thị trấn Phong Hải có 2 trường Mầm Non, 3 trường
Tiểu Học, 1 trường THCS, 1 trường THPT. Nhìn chung hệ thống giáo dục của thị
trấn tương đối hoàn chỉnh, cơ sở vật chất cơ bản đã được xây dựng kiên cố, đảm
bảo tốt cho việc nâng cao chất lượng giáo dục. Hàng năm 100% số trẻ em trong độ
tuổi được đến trường, tỷ lệ học sinh lên lớp đạt trên 98%.
+ Thủy lợi: Hệ thống thủy lợi của thị trấn gồm các đập, hồ phai ngăn nước.
Các hệ thống kênh mương tưới tiêu nội đồng rất phong phú đa dạng, kênh mương
đã được bê tông hóa 12,7 km, chưa kiên cố hóa 25,4 km về cơ bản đã đáp ứng được
nhu cầu tưới tiêu trên địa bàn.
+ Giao thông: Hiện trạng hệ thống giao thông của thị trấn gồm: Có hệ thống
đường giao thông Quốc Lộ, Tỉnh Lộ, Huyện Lộ, liên xã, trục nội thị, đường trục
thôn, đường ngõ xóm và đường trục chính nội đồng với tổng chiều dài 280,6 km.
Trong đó có 15,9 km đường liên xã; đường liên thôn, nội thôn 154; 13,5 km đường
Quốc lộ, còn lại là đường ngõ xóm. Cơ bản các tuyến đường liên thôn chưa được
kiên cố hóa, mặt đường gồ ghề còn nhiều chỗ hẹp, đi lại khó khăn nhất là mùa mưa.
Trong năm 2012 và 2013 thị trấn đã xây dựng phương án bê tông hóa 15 km đường
liên thôn theo Quyết định: 61/2011/QĐ-UBND của UBND tỉnh Lào Cai về hỗ trợ
kiên cố hóa đường giao thông nông thôn theo chương trình Nông thôn mới.
+ Đường điện: Hiện thị trấn có 5 trạm hạ thế với tổng dung lượng khoảng 500
KVA, nhìn chung hệ thống điện thắp sáng đã đáp ứng nhu cầu sinh hoạt điện của
80% số hộ (Hiện thị trấn còn 6 thôn chưa có đường điện đến Trung tâm là: Cửa Cải,
Vi Mã Trên, Sảng Pả, Ải Nam 1, Ải Nam 2, Khởi Khe).
24
Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP GHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và động thái tầng cây gỗ của rừng phục hồi
trạng thái IIB ở các giai đoạn tuổi khác nhau ở thị trấn Phong Hải.
- Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên ở trạng thái rừng phục hồi IIB.
- Đề xuất giải pháp quản lý rừng bền vững cho các trạng thái rừng phục hồi IIb.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Quan điểm nghiên cứu
Vận dụng quan điểm về “sinh thái phát sinh quần thể” trong thảm thực vật rừng
nhiệt đới của Thái Văn Trừng (1978) [29] để nghiên cứu quá trình tái sinh tự nhiên
phục hồi rừng sau nương rẫy, tức là sự hình thành những kiểu thảm thực vật, những xã
hợp thực vật dưới tác động của những nhóm nhân tố sinh thái trong hoàn cảnh bên
ngoài quần thể.
Cấu trúc rừng là qui luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo nên quần xã
thực vật rừng theo không gian và thời gian. Cấu trúc là một trong những nội dung
nghiên cứu quan trọng về hình thái quần thể thực vật. Tuy nhiên, khái niệm về cấu trúc
không chỉ bao gồm những nhân tố cấu trúc về hình thái mà cả những nhân tố cấu trúc
về sinh thái. Giữa cấu trúc và sinh thái rừng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cấu
trúc rừng bao gồm cấu trúc sinh thái, cấu trúc hình thái và cấu trúc tuổi.
Cấu trúc của lớp thảm thực vật là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên, là sản
phẩm của quá trình đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với thực vật và giữa thực vật với
hoàn cảnh sống. Do đó, cấu trúc rừng phản ánh mối quan hệ giữa sinh vật với nhau và
giữa sinh vật với môi trường, ở đây là mối quan hệ giữa cây rừng với cây rừng và giữa
cây rừng với hoàn cảnh rừng. Trên quan điểm sinh thái thì cấu trúc rừng chính là hình
thức bên ngoài phản ánh nội dung bên trong của hệ sinh thái rừng. Trên quan điểm sản
lượng thì cấu trúc rừng phản ánh sức sản xuất của rừng theo điều kiện lập địa.
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái rừng,
biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở những
25