Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm môn tài chính tiền tệ lớp đại học – nói NHTM là thủ quỹ potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.35 KB, 24 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm môn tài chính tiền tệ lớp đại học – nói NHTM là thủ
quỹ

TẠI SAO NÓI NHTM LÀ THỦ QUỸ CỦA NỀN KINH TẾ?????????
Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện
các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của
họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM
cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm
chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu,
khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà
các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ,
gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức
nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm
được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này
vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc
độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
1 Phạm trù vật chất và phạm trù ý thức
Lịch sứ của triết học cũng là lịch sử của những cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề
cơ bản của triết học với hai phạm trù lớn: vật chất và ý thức. Song, để đi đến được
những quan niệm, định nghĩa khoa học và tương đối hoàn chỉnh về chúng cũng
phải đến một giai đoạn lịch sử nhất định với sự ra đời và phát triển của chủ nghỉa
duy vật biện chứng.
Vật chất, theo Lênin. “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan,
được đem lại cho con người trong cảm giác,được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại
của mình.Không thể có vật chất không vận động và không có vận động ở ngoài vật
chất.Đồng thời vật chất vận động trong không gian và thời gian.Không gian và
thời gian là hình thức tồn tại của vật chất,là thuộc tính chung vốn có của các dạng


vật chất cụ thể .
Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử – xã hội.Bản chất
của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,là sự phản ánh tích cực,tự
giác,chủ động,sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động
thực tiễn.Chính vì vậy,không thể xem xét hai phạm trù này tách rời,cứng nhác,
càng không thể coi ý thức (bao gồm cảm xúc,ý chí,tri thức,….) là cái có trước ,cái
sinh ra và quyết định sự tồn tại ,phát triển của thế giới vật chất.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
- Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.Vật chất là cái có
trước,nó sinh ra và quyết định ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí
xung quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não ngưòi,tạo thành nguồn
gốc tự nhiên .
Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với
nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và phát triển của ý thức .
Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Vật chất là đối
tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội dung,hình thức,khả năng và quá trình
vận động của ý thức .
-Tác động trở lại của ý thức
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối
của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh
thần,phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si thế
giới vật chất,vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người .
Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục tiêu,phương
hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì vậy,ý thức
tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều
kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát
triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ
làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách quan,do đó:sẽ

kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất
định chứ nó không thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất
được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh
thế giới vật chất .
Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã
hội .
Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,xem xét
các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý

Ý nghĩa phương pháp luận .
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức
cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn
tại xã hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên
nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính
là ở chỗ đó .
Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho
nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố
tinh thần.
Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải
quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời
cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các
nhân tố tinh thần,tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người
đạt hiệu quả cao.
Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ
tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do
tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.
1. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức.

Lê- Nin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện sâu sắc và khoa học về phạm trù vật
chất “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại phản ánh
và được tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Từ định nghĩa của Lê Nin đã khẳng định vật chất là thực tại khách quan vào bộ
não của con người thông qua tri giác và cảm giác. Thật vậy vật chất là nguồn gốc
của ý thức và quyết định nội dung của ý thức.
Thứ nhất, phải có bộ óc của con người phát triển ở trình độ cao thì mới có sự ra
đời của ý thức. Phải có thể giới xung quanh là tự nhiên và xã hội bên ngoài con
người mới tạo ra được ý thức, hay nói cách khác ý thức là sự tương tác giữa bộ
não con người và thế giới khách quan. Ta cứ thử giả dụ, nếu một người nào đó
sinh ra mà bộ não không hoạt động được hay không có bộ não thì không thể có ý
thức được. Cũng như câu chuyện cậu bé sống trong rừng cùng bầy sói không được
tiếp xúc với xã hội loài người thì hành động của cậu ta sau khi trở về xã hội cũng
chỉ giống như những con sói. Tức là hoàn toàn không có ý thức.
Thứ hai, là phải có lao động và ngôn ngữ đây chính là nguồn gốc xã hội của ý
thức. Nhờ có lao động mà các giác quan của con người phát triển phản ánh tinh tế
hơn đối với hiện thực… ngôn ngữ là cần nối để trao đổi kinh nghiệm tình cảm,
hay là phương tiện thể hiện ý thức. Ở đây ta cũng nhận thấy rằng nguồn gốc của
xã hội có ý nghĩa quyết định hơn cho sự ra đời của ý thức.
Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý thức nên khi vật chất thay đổi
thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
VD1: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động của ý
thức cũng bị rối loạn.
VD2. Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 về công nghệ thông tin
là rất yếu kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên giảng
dậy còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề về cơ sở vật chất được đáp ứng thì trình độ công
nghệ thông tin của các em cấp 1, 2, 3 sẽ tốt hơn rất nhiều.
VD2. Đã khẳng định điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức chỉ là như thế đó.

2. Ý thức tác động trở lại vật chất.
Trước hết ta đưa ra định nghĩa của ý thức: ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới
khách quan vào trong bộ não con người thông qua lao động mà ngôn ngữ. Nó là
toàn bộ hoạt động tinh thần của con người như: Tình cảm yêu thương, tâm trạng,
cảm súc, ý trí, tập quán, truyền thống, thói quen quan điểm, tư tưởng, lý luận,
đường lối, chính sách, mục đích, kế hoạch, biện pháp, phương hướng.
Các yếu tố tinh thần trên đều tác động trở lại vật chất cách mạng mẽ. VD. Nếu tâm
trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của một dây
chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của
đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và Mĩ cũng như Lê – Nin đã nói “ Không có lý luận cách mạng thì
cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Như vậy ý thức không hoàn toàn phụ thuộc vào vật chất mà ý thức có tính độc lập
tương đối vì nó có tính năng động cao nên ý thức có thể tác động trở lại. Vật chất
góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con
người.
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thấy đẩy hoạt động thực
tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất. Khi phản ánh đúng
hiện thực khách quan thì chúng ta hiểu bản chất quy luật vận động của các sự vật
hiện tượng trong thế giới quan.
VD1. Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 10000C thì con người tạo
ra các nhà máy gang thép để sản xuất cách loại thép với đủ các kích cỡ chủng loại,
chứ không phải bằng phương pháp thủ công xa xưa.
VD2. Từ nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước. Tư sản đại hội VI,
đảng ta chuyển nền kinh tế từ trị cung, tự cấp quan liêu sang nền kinh tế thị
trường, nhờ đó mà sau gần 20 năm đất mới bộ mặt đất nước ta đã thay đổi hẳn.
Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động thực
tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới quan. VD. Nhà máy sử lý rác
thải của Đồng Tháp là một ví dụ điển hình, từ việc không khảo sát thực tế khách
quan hay đúng hơn nhận thức về việc sử lý rác vô cơ và rác hữu cơ là chưa đầy đủ

vì vậy khi vừa mới khai trương nhà máy này đã không sử lý nổi và cho đến nay nó
chỉ là một đống phế liệu cần được thanh lý.
MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
Mối liên hệ là dùng để chỉ sự ràng buộc, làm tiền đề chỉ ra sự tồn tại giữa các mặt
trong 1 sự vật hay giữa các sự vật với nhau, mối liên hệ trên mang tính phổ biến,
gồm có liên hệ bên trong và bên ngoài; liên hệ gián tiếp và trực tiếp. Vì vậy, khi
xem xét chúng ta có cái nhìn toàn diện. Liên hệ trong không gian xem xét sự vật ở
vị trí khác nhau dẫn đến có mối liên hệ khác nhau. Liên hệ thời gian, xem xét mối
liên hệ khi chúng ở nhiều thời điểm, quá trình khác nhau của sự phát triển. Vì dụ:
Hôm nay, anh ta là người xấu nhưng ngày mai anh ta trở thành người tốt.
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Mọi sự vật hiện tượng tồn tại trong nhiều
mối liên hệ ràng buộc lại với nhau. Mối liên hệ này phải là mối liên hệ phổ biến
khách quan để sự vật và hiện tượng luôn phát triển, không cô lập. Mối liên hệ phổ
biến khách quan chi phối tổng quát mọi sự vận động của sự vật, hịên tượng.
Ý nghĩa thực tiễn: Chúng ta phải chú trọng tất cả các mối liên hệ, đánh giá đúng
vai trò mối liên hệ đang chi phối đối tượng. Qua hoạt động thực tiễn, chúng ta sử
dụng nhiều biện pháp, phương tiện thích hợp để thúc đẩy mối quan hệ đó phát
triển một cách tích cực. Ví dụ: Về không gian, trước đây anh ta là con nhà giàu,
nhưng hiện nay anh ta là người nghèo. Vì vậy trước đây anh ta là người tốt nhưng
hiện nay anh ta trở thành kẻ trộm cắp.
SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SX VÀ LỰC LƯỢNG SX
Phân tích:
Điều đầu tiên bạn cần phải quan tâm đó là quan hệ sản xuất bao gồm những mối
quan hệ nào?đó là quan hệ sở hữu,quan hệ tổ chức quản lý,quan hệ phân phối.Cái
tiếp theo đó là bạn phải xem xem các mối quan hệ đó thể hiện như thế nào,các yếu
tố cấu thành các quan hệ đó,lấy một ví dụ:sự khác biệt giữa sở hữu ruộng đất của
người nông dân và địa chủ đối với ruộng đất có gì khác nhau,đó chính là sự sử
dụng lao động:người nông dân sử dụng lao động của chính mình còn tên địa chủ
thì sử dụng lao động của người khác chính mối quan hệ sở hữu bộc lỗ dưới các
hình thức sử dụng lao động khác nhau đã bao hàm mối quan hệ giữa lực lượng sản

xuất và quan hệ sản xuất,nếu tiếp tục bạn có thể nói tiếp về tính chất trong sử dụng
lao động và các đặc điểm sở hữu trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.Các mối
quan hệ về quản lý tổ chức và quan hệ phân phối bạn cũng hoàn toàn có thể phân
tích dựa trên các yếu tố này nhưng phải gắn nó với tính chất của hoạt động sản
xuất,sử dụng lao động và tính chất của người lao động và kẻ sử dụng lao động
trong hoạt động sản xuất.cách tôt nhất để có thể trình bày phân tích mối quan hệ
này đó là bạn hãy phải gắn nó với việc phân tích tất cả quá trình phát triển của
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất,nếu bạn sử dụng các bài viết có tình chất lý
luận chung thì chỉ đơn thuần là nhắc lại các quy luật một cách phổ quát và mang
tính giáo điều,chính vì vậy khi đọc giáo trình kinh tế chính trị Max-Lênin nếu
không tự đặt ra các câu hỏi thì bạn khó có thể hiểu được nó nhiều hơn một phép
toán cộng trừ.
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định .Phương
thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn nhất định trong lịch sư tồn tại và phát triển của xã hội loài người
.Phương thưc sản xuất đóng vai trò nhất định đối với tất cả mọi mặt trong đời sống
kinh tế xã hội .Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản
xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong
quá trình sản xuất vật chất .Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con
người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm
người lao động với kỹ năng lao động của họ và các tu liêu lao động truớc hết là
công cụ lao động .Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì yếu tố người lao
động là yếu tố chủ thể (là yếu tố quang trọng nhất) của quá trình lao động vơi sức
mạnh và kỹ năng lao động của mình sử dụng tư liệu lao động. Cùng với quá trinh
lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng hoàn
thiện ,tăng lên dặc biệt là tri thức trí tuệ của con người, hàm lượng trí tuệ trong láo
động ko ngừng gia tăng. Cùng vơi người lao động ,công cụ lao động cũng là yếu
tố cơ bản của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định trong quá trình sản xuất;
và công cụ lao động cũng ko ngường dược phát triển và hoàn thiện hơn chính điều

này đã làm biến đổi tu liệu sãn xuất Trong sự phát triên của lực lượng sản xuất
,khoa học kỹ thuật có vai trò ngày càng quan trọng và đang dần trở thành một lực
lượn sản xuất trực tiếp trong nền sản xuấ thiện đại.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và các đối tượng lao động. Ba yếu tố vật
chất quan trọng nhất của quá trình sản xuất là: lao động, tư liệu lao động và đối
tượng lao động. Ba yếu tố đó trong bất cứ thời đại nào,ở bất cứ xứ sở nào cũng
không thể thiếu để tiến hành.
Những tư liệu lao động như trên cùng với các đối tượng lao động tạo thành cái gọi
là những tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất là gồm hai “yếu tố vật chất” kể trên,
không kể đến người lao động. Khoa học kinh tế xem xét các yêu tố đó dưới một
góc nhìn tổng hợp thì có những khái niệm sau đây: Người lao động và tư liệu sản
xuất tạo thành lực lượng sản xuất của một xã hội. Bất cứ xã hội nào không thể chỉ
có người lao động. Một lực lượng để sản xuất ra của cải phải gồm có người lao
động và tư liệu sản xuất. Do đó hai yếu tố này tạo thành cái gọi là lực lương sản
xuất (Theo William Petty: Đất là mẹ, lao động là cha của mọi của cải xã hôi).
Bản thân con người lao động với những
tri thức, phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm lao động của họ,
ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Lực lượng sản xuất phản ánh mối quan hệ và tác động của con người với tự nhiên.
Nó phản ánh năng lực họat động thưc tiễn của con người trong quá trình sản xuất
ra của cải vật chất. quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học chỉ quan hệ giưa người với người trong quá
trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) .Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ
sử hữu các tư liệu sản xuất chủ yêu, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất vá
quan hệ về phân phối các sản phẩm làm ra Quan hệ sản xuất do con người tạo ra
nhưng nó hình thành và phát triển một cách khách quan ko phụ thuộc vào ý chí
con người.
Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì quan hệ
sản xuất lại là mặt xã hội của sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm có 3 mặt :

+ Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ
yếu (gọi tắt là
quan hệ sở hữu)
+ Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức, quản lý xã hội và trao đổi họat
động cho nhau (gọi tắt là
quan hệ tổ chức, quản lý)
+ Quan hệ giữa người với người trong
phân phối, lưu thông sản phẩm làm ra (gọi tắt là quan hệ phân phối lưu thông)
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sử hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu
là quan hệ cơ bản và đặc trưng cho từng xã hội. Quan hệ về sở hữu quyết định
quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối các sả phẩm làm ra.
Quy luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ của lực lượng sản xuất lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt ,hai phương thức cơ bản của quá
trình sản xuất ra của cải vạt chất ;chúng ko tồn tại độc lập tách rời nhau mà có mối
liện hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thanh quy luật phù hợp
giữa quan hệ sản xuất và trình độ lực lượng sản xuất. Quy luật cơ bản nhất của quá
trình vận động và phát triển xã hội. Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là
không ngừng phát triển ;sự phát triển đó xét cho cùng bắt nguồn tự sự biến đổi và
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh
dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Sự vận động và phát triển của lực lượng
sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một
phương thức sản xuất mới ra dời khi đó quan hệ sản xuát phù hợp với trình độ lực
lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến một trình độ nhất
định làm cho quan hệ sản xuất từ chổ phù họp trở thành lạc hậu kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất yêu cầu khách quan hoặc phát triển của lực lượng sản
xuất tất yếu dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp hơn với trình độ của lực lượng sản xuất, lúc này để thúc đẩy lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng qua hệ sản
xuất mới có nghĩa là sẽ có một phương thức sản xuất khac ra đời thay thế phương
thức sản xuất cũ.

Lực lượng sản xuất thay đổi và quyết định đến quan hệ sản xuất nhưng bản thân
quan hệ sản xuất cũng có sự độc lập tương đối của nó và tác động trở lại qua hệ
sản xuất. Quan hệ sản xuất mới quy định mục đích sản xuất ,tác động đén tháu, tác
động đến con người lao động trong qua trình lao động ,đến tổ chức phân công lao
động xã hội. Quan hệ sản xuất phù hợp vói trình đô lực lượng sản xuất sẽ thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hoăc “tiên
tiến ” hơn trình đọ lực lượng sản xuất 1 cách giả tạo thì sẽ kìm hãm, hạn chế sự
phát triển của lực lượng sản xuất như nước ta từ sau năm 1975 đến năm 1986,
chúng ta đã kéo quá dài cơ chế chính sách kế hoạch hoá tập trung, bao cấp với tư
tưởng nôn nóng muốn đưa nước ta tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn qứôc, trong khi chúng ta vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh, tần dư chế độ
phong kiến còn đang tồn tại và hậu quả chiến tranh còn nặng nề, cơ sở vật chất
còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí còn thấp, khả năng quản lý kinh tế còn
yếu, lực lượng sản xuất thấp kém trong khi đó chúng ta ồ át xây dựng một quan hệ
sản xuất ở trình độ không tương xứng, cụ thế trong nông nghiệp xây dựng HTX
cấp cao, thực hiện duy có hai hình thức sở hữu là tập thể và sở hữu Nhà nước, thực
hiện sở hữu toàn dân…do đó đã làm cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất,
không khuyến khích được người lao động, chưa huy động được nguồn lực trong
xã hội, như ta biết sự phù hợp hay không giữa quan hệ sản xuất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác dộng tới toàn bộ quá trình vận động và
phát triển của xã hội
Những hiện tượng lịch sử xuất hiện trong thượng tầng kiến trúc dưới nhiều hình
thái tư tưởng phức tạp: chính trị, pháp lý, tôn giáo, nghệ thuật, triết lý; nhưng tất
cả những hình thái đó, xét tới cùng, là do phương thức sản xuất đời sống vật chất
quy định. Vậy muốn hiểu rõ sự biến chuyển trong thượng tầng kiến trúc, trước hết
phải nghiên cứu sự biến chuyển vật chất trong điều kiện kinh tế của sự sản xuất,
những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đảng ta đang vận
dụng quy luật sao cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, trên thực tế Đảng và Nhà nước ta đang từng bước điều

chỉnh quan hệ sản xuất cả tầm vĩ mô và vi mô, đồng thời coi trọng việc đẩy mạnh
phát triển lực lượng sản xuất.
Hiện nay Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt trọng trách này,
thì phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó thành phần kinh tế tư
nhân là một thành phần rất năng động, hiệu quả. Có điều kiện này thì Đảng mới có
thể có thêm kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ cụ thể để lãnh đạo thành công mục
tiêu tăng trưởng kinh tế đó chính là làm cho lực lượng sản xuất phát triển
Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta trong suốt
mấy chục năm qua thực tiễn đã cho thấy những mặt được cũng như những những
mặt còn hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế cũng
như quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất vào thực tiễn ở nước ta, với
đặc điểm của nước ta là Nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất
thấp kém, con trâu đi trước cái cày đi sau, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản
xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong
kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm
vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện
phát triển.
Sau khi giành được chính quyền, trước yêu cầu xây dựng CNXH trong điều kiện
nền kinh tế kém phát triển, Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chí trị tư tưởng để xóa
bỏ nhanh chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân
và tập thể, lúc đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã
hội hoá sản xuất cũng như sự thắng lợi của CNXH ở nước ta. Song trong thực tế
cách làm này đã không mang lại kết quả như mong muốn, vì nó trái quy luật
QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, đã để lại hậu quả là:
Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, buôn bán
nhỏ ) thì tư hữu về TLSX là phương thức kết hợp tốt nhất giữa sức lao động và
TLSX. Việc tiến hành tập thể nhanh chóng TLSX dưới hình thức cá nhân bị tập
trung dưới hình thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi TLSX, không
làm chủ được qúa trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo HTX, họ cũng không

phải là chủ thể sở hữu thực sự dấn đến TLSX trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho
tập thể.
Thư hai: Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý
TLSX cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu
chi phối, định đoạt TLSX & sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ
là người làm công ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng
số lượng & chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Do đó chế độ công
hữu về TLSX cùng với ông chủ của nó trở thành hình thức, vô chủ, chính quyền
(bộ, ngành chủ quản) là đại diện của chủ sở hữu là người có quyền chi phối, đơn vị
kinh tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh
kém hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế giàng buộc
trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình.
Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có
quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng
chính: lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh,
thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh (thường
gọi là dân doanh, thuộc kinh tế tư nhân).
Ông bà ta thường nói: muốn biết bơi phải nhảy xuống nước. Còn Lênin, trong tác
phẩm “Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các Ban giáo dục chính
trị”, đã viết: “Hoặc là tất cả những thành tựu về mặt chính trị của chính quyền Xô
viết sẽ tiêu tan, hoặc là phải làm cho những thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở
kinh tế. Cơ sở này hiện nay chưa có. Đấy chính là công việc mà chúng ta cần bắt
tay vào làm” đúng theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Con người không thể tự ý lựa chọn quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu
nói riêng một cách chủ quan duy ý chí. Sở hữu vừa là kết quả vừa là điều kiện cho
sự phát triển của lực lượng sản xuất, là hình thức xã hội có tác dụng thúc đẩy hoặc
kìm hãm lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, mỗi loại hình, hình thức sở hữu chưa
thể mất đi khi chúng còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và

cũng không thể tùy tiện dựng lên, hay thủ tiêu chúng khi lực lượng sản xuất không
đòi hỏi. Do vậy, khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải tính đến sự biến đổi phức tạp
từ quan hệ sản xuất, trong đó trực tiếp là chế độ sở hữu.
Quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, cũng như quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của giới
nghiên cứu lý luận, song ở đây, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.
Chúng ta đều biết, khi nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát
hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá
của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là cơ
sở sâu xa làm nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động phát triển của
xã hội tư bản. Từ đó, các ông đi đến dự báo về sự thay thế chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ công hữu. Việc thay thế chế độ tư hữu bằng
chế độ công hữu, theo quan điểm của các ông, không thể tiến hành ngay một lúc,
mà phải là một quá trình lâu dài. Tuy nhiên, vào giai đoạn lịch sứ đó, các ông chưa
chỉ ra mô hình cụ thể về chế độ công hữu.
Kiểu quan hệ sản xuất – quan hệ sở hữu này hay kiểu quan hệ sản xuất – quan hệ
sở hữu khác tuỳ thuộc vào tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Ở nước ta hiện
nay trình độ lực lượng sản xuất còn thấp lại không đồng đều giữa các ngành, các
vùng. Có những vùng, miền mà người dân vẫn dùng cái cuốc, con trâu để lao động
nhưng cũng có nơi lao động trong phòng thí nghiệm, trong khu công nghệ cao.
Do vậy, tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất, nên chưa thể đặt vấn đề xoá ngay mọi hình thức bóc lột. Chỉ đến
khi trình độ xã hội hóa sản xuất phát triển cao mâu thuẫn với chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, thì khi ấy mới có điều kiện chín muồi thực hiện cuộc
cách mạng xây dựng xã hội không còn bóc lột. Chúng ta không thể thủ tiêu chế độ
sở hữu ngay lập tức được mà chỉ có thể thực hiện dần dần, và chỉ khi nào đã tạo
được một lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hóa cao độ với năng suất lao động rất
cao thì khi đó mới xoá bỏ được chế độ tư hữu.
Đất nước chúng ta đang thực hiện nhất quán nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Do vậy, mục đích là phải sản xuất ra thêm nhiều giá trị thặng dư.

Vấn đề bóc lột hay không bóc lột thể hiện trong quan hệ phân phối. Bình đẳng
trong phân phối được thực hiện dưới những hình thức cụ thể như thế nào là tùy
thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp với xu
thế của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, chúng ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, nên phải trải qua nhiều khâu trung gian (thời kỳ quá độ).
Điểm nổi lên là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu … vì vậy khâu
trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội.
Đồng thời phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần (nhiều hình thức sở hữu
đan xen nhau) là phù hợp với yêu cầu phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất của
nước ta hiện nay.
Đồng thời không ngừng đổi mới chính trị, củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đời sống văn
hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và
đào tạo. Thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” .
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
(xây dựng lực lượng sản xuất)
- Đây là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ.
- Phải đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học.
- Từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.
- Coi giáo dục đào tạo là nhiệm vụ hàng đầu.
. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội (củng cố đổi mới kiến trúc thượng tầng):
- Đổi mới hệ thống chính trị.
- Nâng cao sức chiến đấu của Đảng.

- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Rút ra ý nghĩa:
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định .Phương
thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn nhất định trong lịch sư tồn tại và phát triển của xã hội loài người
.Phương thưc sản xuất đóng vai trò nhất định đối với tất cả mọi mặt trong đời sống
kinh tế xã hội .Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản
xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong
quá trình sản xuất vật chất .Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con
người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm
người lao động với kỹ năng lao động của họ và các tu liêu lao động truớc hết là
công cụ lao động .Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì yếu tố người lao
động là yếu tố chủ thể (là yếu tố quang trọng nhất) của quá trình lao động vơi sức
mạnh và kỹ năng lao động của mình sử dụng tư liệu lao động. Cùng với quá trinh
lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng hoàn
thiện ,tăng lên dặc biệt là tri thức trí tuệ của con người, hàm lượng trí tuệ trong láo
động ko ngừng gia tăng. Cùng vơi người lao động ,công cụ lao động cũng là yếu
tố cơ bản của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định trong quá trình sản xuất;
và công cụ lao động cũng ko ngường dược phát triển và hoàn thiện hơn chính điều
này đã làm biến đổi tu liệu sãn xuất Trong sự phát triên của lực lượng sản xuất
,khoa học kỹ thuật có vai trò ngày càng quan trọng và đang dần trở thành một lực
lượn sản xuất trực tiếp trong nền sản xuấ thiện đại.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và các đối tượng lao động. Ba yếu tố vật
chất quan trọng nhất của quá trình sản xuất là: lao động, tư liệu lao động và đối
tượng lao động. Ba yếu tố đó trong bất cứ thời đại nào,ở bất cứ xứ sở nào cũng
không thể thiếu để tiến hành.
Những tư liệu lao động như trên cùng với các đối tượng lao động tạo thành cái gọi
là những tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất là gồm hai “yếu tố vật chất” kể trên,

không kể đến người lao động. Khoa học kinh tế xem xét các yêu tố đó dưới một
góc nhìn tổng hợp thì có những khái niệm sau đây: Người lao động và tư liệu sản
xuất tạo thành lực lượng sản xuất của một xã hội. Bất cứ xã hội nào không thể chỉ
có người lao động. Một lực lượng để sản xuất ra của cải phải gồm có người lao
động và tư liệu sản xuất. Do đó hai yếu tố này tạo thành cái gọi là lực lương sản
xuất (Theo William Petty: Đất là mẹ, lao động là cha của mọi của cải xã hôi).
Bản thân con người lao động với những
tri thức, phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm lao động của họ,
ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Lực lượng sản xuất phản ánh mối quan hệ và tác động của con người với tự nhiên.
Nó phản ánh năng lực họat động thưc tiễn của con người trong quá trình sản xuất
ra của cải vật chất. quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học chỉ quan hệ giưa người với người trong quá
trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) .Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ
sử hữu các tư liệu sản xuất chủ yêu, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất vá
quan hệ về phân phối các sản phẩm làm ra Quan hệ sản xuất do con người tạo ra
nhưng nó hình thành và phát triển một cách khách quan ko phụ thuộc vào ý chí
con người.
Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì quan hệ
sản xuất lại là mặt xã hội của sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm có 3 mặt :
+ Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ
yếu (gọi tắt là
quan hệ sở hữu)
+ Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức, quản lý xã hội và trao đổi họat
động cho nhau (gọi tắt là
quan hệ tổ chức, quản lý)
+ Quan hệ giữa người với người trong
phân phối, lưu thông sản phẩm làm ra (gọi tắt là quan hệ phân phối lưu thông)
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sử hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu

là quan hệ cơ bản và đặc trưng cho từng xã hội. Quan hệ về sở hữu quyết định
quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối các sả phẩm làm ra.
Quy luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ của lực lượng sản xuất lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt ,hai phương thức cơ bản của quá
trình sản xuất ra của cải vạt chất ;chúng ko tồn tại độc lập tách rời nhau mà có mối
liện hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thanh quy luật phù hợp
giữa quan hệ sản xuất và trình độ lực lượng sản xuất. Quy luật cơ bản nhất của quá
trình vận động và phát triển xã hội. Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là
không ngừng phát triển ;sự phát triển đó xét cho cùng bắt nguồn tự sự biến đổi và
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh
dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Sự vận động và phát triển của lực lượng
sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một
phương thức sản xuất mới ra dời khi đó quan hệ sản xuát phù hợp với trình độ lực
lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến một trình độ nhất
định làm cho quan hệ sản xuất từ chổ phù họp trở thành lạc hậu kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất yêu cầu khách quan hoặc phát triển của lực lượng sản
xuất tất yếu dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp hơn với trình độ của lực lượng sản xuất, lúc này để thúc đẩy lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng qua hệ sản
xuất mới có nghĩa là sẽ có một phương thức sản xuất khac ra đời thay thế phương
thức sản xuất cũ.
Lực lượng sản xuất thay đổi và quyết định đến quan hệ sản xuất nhưng bản thân
quan hệ sản xuất cũng có sự độc lập tương đối của nó và tác động trở lại qua hệ
sản xuất. Quan hệ sản xuất mới quy định mục đích sản xuất ,tác động đén tháu, tác
động đến con người lao động trong qua trình lao động ,đến tổ chức phân công lao
động xã hội. Quan hệ sản xuất phù hợp vói trình đô lực lượng sản xuất sẽ thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hoăc “tiên
tiến ” hơn trình đọ lực lượng sản xuất 1 cách giả tạo thì sẽ kìm hãm, hạn chế sự
phát triển của lực lượng sản xuất như nước ta từ sau năm 1975 đến năm 1986,
chúng ta đã kéo quá dài cơ chế chính sách kế hoạch hoá tập trung, bao cấp với tư

tưởng nôn nóng muốn đưa nước ta tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn qứôc, trong khi chúng ta vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh, tần dư chế độ
phong kiến còn đang tồn tại và hậu quả chiến tranh còn nặng nề, cơ sở vật chất
còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí còn thấp, khả năng quản lý kinh tế còn
yếu, lực lượng sản xuất thấp kém trong khi đó chúng ta ồ át xây dựng một quan hệ
sản xuất ở trình độ không tương xứng, cụ thế trong nông nghiệp xây dựng HTX
cấp cao, thực hiện duy có hai hình thức sở hữu là tập thể và sở hữu Nhà nước, thực
hiện sở hữu toàn dân…do đó đã làm cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất,
không khuyến khích được người lao động, chưa huy động được nguồn lực trong
xã hội, như ta biết sự phù hợp hay không giữa quan hệ sản xuất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác dộng tới toàn bộ quá trình vận động và
phát triển của xã hội
Những hiện tượng lịch sử xuất hiện trong thượng tầng kiến trúc dưới nhiều hình
thái tư tưởng phức tạp: chính trị, pháp lý, tôn giáo, nghệ thuật, triết lý; nhưng tất
cả những hình thái đó, xét tới cùng, là do phương thức sản xuất đời sống vật chất
quy định. Vậy muốn hiểu rõ sự biến chuyển trong thượng tầng kiến trúc, trước hết
phải nghiên cứu sự biến chuyển vật chất trong điều kiện kinh tế của sự sản xuất,
những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đảng ta đang vận
dụng quy luật sao cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, trên thực tế Đảng và Nhà nước ta đang từng bước điều
chỉnh quan hệ sản xuất cả tầm vĩ mô và vi mô, đồng thời coi trọng việc đẩy mạnh
phát triển lực lượng sản xuất.
Hiện nay Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt trọng trách này,
thì phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó thành phần kinh tế tư
nhân là một thành phần rất năng động, hiệu quả. Có điều kiện này thì Đảng mới có
thể có thêm kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ cụ thể để lãnh đạo thành công mục
tiêu tăng trưởng kinh tế đó chính là làm cho lực lượng sản xuất phát triển
Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta trong suốt

mấy chục năm qua thực tiễn đã cho thấy những mặt được cũng như những những
mặt còn hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế cũng
như quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất vào thực tiễn ở nước ta, với
đặc điểm của nước ta là Nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất
thấp kém, con trâu đi trước cái cày đi sau, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản
xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong
kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm
vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện
phát triển.
Sau khi giành được chính quyền, trước yêu cầu xây dựng CNXH trong điều kiện
nền kinh tế kém phát triển, Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chí trị tư tưởng để xóa
bỏ nhanh chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân
và tập thể, lúc đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã
hội hoá sản xuất cũng như sự thắng lợi của CNXH ở nước ta. Song trong thực tế
cách làm này đã không mang lại kết quả như mong muốn, vì nó trái quy luật
QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, đã để lại hậu quả là:
Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, buôn bán
nhỏ ) thì tư hữu về TLSX là phương thức kết hợp tốt nhất giữa sức lao động và
TLSX. Việc tiến hành tập thể nhanh chóng TLSX dưới hình thức cá nhân bị tập
trung dưới hình thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi TLSX, không
làm chủ được qúa trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo HTX, họ cũng không
phải là chủ thể sở hữu thực sự dấn đến TLSX trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho
tập thể.
Thư hai: Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý
TLSX cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu
chi phối, định đoạt TLSX & sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ
là người làm công ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng
số lượng & chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Do đó chế độ công
hữu về TLSX cùng với ông chủ của nó trở thành hình thức, vô chủ, chính quyền
(bộ, ngành chủ quản) là đại diện của chủ sở hữu là người có quyền chi phối, đơn vị

kinh tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh
kém hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế giàng buộc
trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình.
Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có
quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng
chính: lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh,
thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh (thường
gọi là dân doanh, thuộc kinh tế tư nhân).
Ông bà ta thường nói: muốn biết bơi phải nhảy xuống nước. Còn Lênin, trong tác
phẩm “Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các Ban giáo dục chính
trị”, đã viết: “Hoặc là tất cả những thành tựu về mặt chính trị của chính quyền Xô
viết sẽ tiêu tan, hoặc là phải làm cho những thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở
kinh tế. Cơ sở này hiện nay chưa có. Đấy chính là công việc mà chúng ta cần bắt
tay vào làm” đúng theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Con người không thể tự ý lựa chọn quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu
nói riêng một cách chủ quan duy ý chí. Sở hữu vừa là kết quả vừa là điều kiện cho
sự phát triển của lực lượng sản xuất, là hình thức xã hội có tác dụng thúc đẩy hoặc
kìm hãm lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, mỗi loại hình, hình thức sở hữu chưa
thể mất đi khi chúng còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và
cũng không thể tùy tiện dựng lên, hay thủ tiêu chúng khi lực lượng sản xuất không
đòi hỏi. Do vậy, khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải tính đến sự biến đổi phức tạp
từ quan hệ sản xuất, trong đó trực tiếp là chế độ sở hữu.
Quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, cũng như quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của giới
nghiên cứu lý luận, song ở đây, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.
Chúng ta đều biết, khi nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát
hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá
của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là cơ

sở sâu xa làm nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động phát triển của
xã hội tư bản. Từ đó, các ông đi đến dự báo về sự thay thế chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ công hữu. Việc thay thế chế độ tư hữu bằng
chế độ công hữu, theo quan điểm của các ông, không thể tiến hành ngay một lúc,
mà phải là một quá trình lâu dài. Tuy nhiên, vào giai đoạn lịch sứ đó, các ông chưa
chỉ ra mô hình cụ thể về chế độ công hữu.
Kiểu quan hệ sản xuất – quan hệ sở hữu này hay kiểu quan hệ sản xuất – quan hệ
sở hữu khác tuỳ thuộc vào tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Ở nước ta hiện
nay trình độ lực lượng sản xuất còn thấp lại không đồng đều giữa các ngành, các
vùng. Có những vùng, miền mà người dân vẫn dùng cái cuốc, con trâu để lao động
nhưng cũng có nơi lao động trong phòng thí nghiệm, trong khu công nghệ cao.
Do vậy, tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất, nên chưa thể đặt vấn đề xoá ngay mọi hình thức bóc lột. Chỉ đến
khi trình độ xã hội hóa sản xuất phát triển cao mâu thuẫn với chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, thì khi ấy mới có điều kiện chín muồi thực hiện cuộc
cách mạng xây dựng xã hội không còn bóc lột. Chúng ta không thể thủ tiêu chế độ
sở hữu ngay lập tức được mà chỉ có thể thực hiện dần dần, và chỉ khi nào đã tạo
được một lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hóa cao độ với năng suất lao động rất
cao thì khi đó mới xoá bỏ được chế độ tư hữu.
Đất nước chúng ta đang thực hiện nhất quán nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Do vậy, mục đích là phải sản xuất ra thêm nhiều giá trị thặng dư.
Vấn đề bóc lột hay không bóc lột thể hiện trong quan hệ phân phối. Bình đẳng
trong phân phối được thực hiện dưới những hình thức cụ thể như thế nào là tùy
thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp với xu
thế của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, chúng ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, nên phải trải qua nhiều khâu trung gian (thời kỳ quá độ).
Điểm nổi lên là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu … vì vậy khâu
trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội.
Đồng thời phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần (nhiều hình thức sở hữu
đan xen nhau) là phù hợp với yêu cầu phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất của
nước ta hiện nay.
Đồng thời không ngừng đổi mới chính trị, củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đời sống văn
hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và
đào tạo. Thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” .
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
(xây dựng lực lượng sản xuất)
- Đây là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ.
- Phải đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học.
- Từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.
- Coi giáo dục đào tạo là nhiệm vụ hàng đầu.
. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội (củng cố đổi mới kiến trúc thượng tầng):
- Đổi mới hệ thống chính trị.
- Nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

×