Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.75 KB, 3 trang )
Bể tự hoại là công trình xử lý nước thải bậc một (xử lý sơ bộ) đồng thời thực
hiện ba chức năng: lắng nước thải, lên men cặn lắng và lọc nước thải sau lắng.
Bể tự hoại sau khi xây dựng có thể được đưa vào sử dụng ngay sau khi xây
dựng. Bể tự hoại không cần một yêu cầu đặc biệt nào trước khi đưa vào vận hành.
Tuy nhiên sự lên men cặn phải bắt đầu vài ngày sau khi đưa vào hoạt động. Bùn cặn
lên men được hút sau từ 1-3 năm bể hoạt động. Tại thời điểm hút, phần bùn cặn
chưa lên men nằm phía trên vì vậy ống hút của máy bơm phải đặt sâu xuống đáy bể.
Thông thường khi hút phải chừa lại khoảng 20% lượng bùn cặn để gây men cho bùn
cặn tươi đợt sau. Khi hút bùn cặn ra khỏi bể, hỗn hợp bùn cặn thường có BOD
5
khoảng 6000mg/l, tổng các chất rắn lơ lửng (TSS) khoảng 15000mg/l.
Bùn cặn đã lên men được sử dụng vào nhiều mục đích khác như: ủ làm phân
vi sinh hoặc bón trực tiếp cho các cây công nghiệp,…
Bể tự hoại 3 ngăn có cấu tạo đơn giản, dễ vận hành quản lý và thường được
sử dụng để xử lý nước tại chỗ cho các khu dân cư, các khu tập thể, cụm dân cư dưới
500 người và lưu lượng nước thải dưới 30 m
3
/ ngày.
Phần tính toán dưới đây dùng cho lưu lượng trung bình ngày đêm là: Q
tb.ng.đ
=
16m
3
.
Thể tích tính toán của bể tự hoại lấy không nhỏ hơn lưu lượng nước thải trung
bình trong 1-2 ngày đêm (điều 7.3.2 TCXD-51-84). Ta chọn 2 ngày đêm để tính
toán.
Tính toán bể tự hoại ba ngăn:
Thể tích phần lắng:
Wi= (a*N*T)/1000 = (100*160*1)/1000 = 16(m
3