Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

BÀI GIẢNG CÂY RAU pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.91 MB, 180 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN





BÀI GIẢNG
CÂY RAU













Người biên soạn: TS. Lê Thị Khánh














Huế, 08/2009

1

Bài 1
GIỚI THIỆU VỀ CÂY RAU

1. KHÁI NIỆM, GIÁ TRỊ CÂY RAU TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Khái niệm
Rau là cây hoặc phần có thể ăn được và thường là mọng nước, ngon và bổ được
sử dụng như là món ăn chính hoặc đồ phụ gia để nấu hoặc ăn sống .
Rau rất đa dạng và phong phú, do vậy khi khái niệm về “rau” chỉ có thể dựa
trên công dụng của nó. Rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng
ngày của mỗi người trên khắp hành tinh, đặc biệt khi lương thực và các loại thức ăn
giàu đạm đã được đảm bảo thì nhu cầu về rau xanh lại càng gia tăng, như một nhân tố
tích cực trong cân bằng dinh dưỡng và kéo dài tuổi thọ. Vai trò của cây rau đã được
khẳng định qua câu tục ngữ “cơm không rau như đau không thuốc”. Giá trị của rau
được thể hiện nhiều mặt trong cuộc sống.

1.2. Giá trị dinh dưỡng
- Rau là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể
Theo tính toán của các nhà dinh dưỡng học thì nhu cầu tiêu thụ rau bình quân
hàng ngày của mỗi người trên thế giới cần khoảng 250-300g/ngày/người tức 90-
110kg/người/năm. Rau cung cấp cho cơ thể con người các chất dinh dưỡng quan trọng
như các loại vitamin, muối khoáng, axit hữu cơ, các hợp chất thơm, cũng như protein,

lipit, chất xơ, vv Trong rau xanh hàm lượng nước chiếm 85-95%, chỉ có 5-15% là
chất khô. Trong chất khô lượng cacbon rất cao (cải bắp 60%, dưa chuột 74-75%, cà
chua 75-78%, dưa hấu 92%). Giá trị dinh dưỡng cao nhất ở rau là hàm lượng đường
(chủ yếu đường đơn) chiếm tỷ lệ lớn trong thành phần cacbon. Nhờ khả năng hoà tan
cao, chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu, tăng tính hoạt hoá trong quá
trình ôxy hoá năng lượng của các mô tế bào. Một số loại rau như khoai tây, đậu (nhất là
đậu ăn hạt như đậu Hà Lan, đậu Tây), nấm, tỏi cung cấp 70 - 312 calo/100g nhờ các
chất chứa năng lượng như protit, gluxit.
- Rau là nguồn cung cấp vitamin phong phú và rẻ tiền:
Rau có chứa các loại vitamin A (tiền vitamin A), B1, B2, C, E và PP vv Trong
khẩu phần ăn của nhân dân ta, rau cung cấp khoảng 95 - 99% nguồn vitamin A, 60 -
70% nguồn vitamin B (B1, B2, B6, B12) và gần 100% nguồn vitamin C.
Vitamin có tác dụng làm cho cơ thể phát triển cân đối, điều hòa, các hoạt động
sinh lý của cơ thể tiến hành bình thường. Thiếu một loại vitamin nào đó sẽ làm cho cơ
thể phát triển không bình thường và phát sinh ra bệnh tật. Nếu ăn uống lâu ngày thiếu
rau xanh ta thường thấy xuất hiện các triệu chứng như da khô, mắt mờ, quáng gà do
thiếu vitamin A; bệnh chảy máu chân răng, tay chân mỏi mệt, suy nhược do thiếu
vitamin C; miệng lưỡi lở loét, viêm ngứa chủ yếu do thiếu vitamin PP; tê phù do thiếu
2

vitamin B (chủ yếu là B1) Ngoài ra thiếu vitamin làm giảm sức dẻo dai, hiệu suất làm
việc kém, dễ phát sinh nhiều bệnh tật, khi mắc bệnh chữa cũng lâu lành. Trong lao
động, công tác, học tập sinh hoạt hàng ngày mỗi người đều cần một lượng vitamin nhất
định, nhu cầu vitamin hàng ngày mỗi người cần 100mg C trong đó 90% lấy từ rau quả.
- Rau là nguồn cung cấp chất khoáng cho cơ thể
Rau chứa các chất khoáng chủ yếu như Ca, P, Fe, là thành phần cấu tạo của
xương và máu. Những chất khoáng có tác dụng trung hòa độ chua do dạ dày tiết ra khi
tiêu hóa các loại thức ăn như thịt, các loại ngũ cốc. Hàm lượng Ca rất cao trong các
loại rau cần, rau dền, rau muống, nấm hương, mộc nhĩ (100- 357mg%).
- Rau là nguồn cung cấp các dinh dưỡng khác

Rau cung cấp cho cơ thể các axit hữu cơ, các hợp chất thơm, các vi lượng, các
xellulo (chất xơ) giúp cơ thể tiêu hoá thức ăn dễ dàng, phòng ngừa các bệnh về tim
mạch áp huyết cao. Ngoài ra nhiều loại rau còn chứa các kháng sinh thực vật như
Linunen, Carvon, Pinen ở cần tây, allixin ở tỏi, hành có tác dụng như một dược liệu đối
với cơ thể. Bởi vậy nhu cầu ăn rau ngày càng cao ở tất cả mọi người. Theo tính toán
của các nhà dinh dưỡng học thì mức tiêu dùng rau tối thiểu cho mỗi người cần 90 -110
kg/năm tức 250-300 g/người/ngày.Liên hệ với các nước phát triển có đời sống cao đã
vượt quá xa mức quy định này: Nam Triều Tiên: 141,1 kg; Newzealands: 136,7 kg. Hà
Lan lên tới 202 kg/người/năm. Ở Canada mức tiêu thụ rau bình quân hiện nay là 227
kg/người/năm. Xu hướng các nước phát triển là để cải thiện đời sống nhân dân cần
tăng tỷ lệ thịt, trứng, sữa, rau, quả. Ở nước ta, do đời sống chưa cao, nhu cầu về rau
ngày càng tăng nhưng so với các nước thì sản lượng bình quân trên đầu người vẫn còn
thấp. Tiêu thụ rau nhiều chủ yếu ở các thành phố lớn nhưng năm 2000 trở lại đây mức
tiêu thụ tăng lên xấp xỉ nhu cầu bình quân của thế giới: Năm 2005 cả nước có dân số
88 triệu người, phấn đấu bình quân nhu cầu tiêu thụ 96,3 kg/người/năm, tức khoảng
263,8 g/người/ngày. Phấn đấu đến năm 2010 mức tiêu thụ105,9 kg/người/năm tức
290,1 g/người/ngày với dân số chừng 95,8 triệu người.

1.3. Giá trị kinh tế
- Rau là một mặt hàng xuất khẩu giá trị và có ý nghĩa chiến lược
Rau là cây trồng đem lại nhiều lợi nhuận góp phần phát triển kinh tế quốc dân
đáng kể, ngoài ra rau còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao. Trong những năm gần
đây thị trường xuất khẩu rau được mở rộng, năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam 329.972 ngàn USD.
Các loại rau chính xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là dưa chuột, cà chua, cà
rốt, hành, ngô rau, đậu rau, ớt cay, nấm trong đó dưa chuột và cà chua có nhiều triển
vọng và chúng có thị trường xuất khẩu tương đối ổn định. Thị trường xuất khẩu rau
chủ yếu của Việt Nam là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Australia, Singapore, Hàn
Quốc, Mỹ và các nước châu Âu. Hàng năm lượng rau được xuất khẩu rất nhiều cả
3


dạng rau tươi và qua chế biến như rau đóng hộp, rau gia vị, rau muối trong đó rau tươi
là hơn trên 200.000 tấn/năm.


Bảng 1: Thị trường xuất khẩu rau quả tháng 4 và 4 tháng năm 2005
Thời gian
Thị trường
Tháng 4/2005 (USD) 4 tháng năm 2005 (USD)
Trung Quốc 5.208.971 15.359.231
Nhật Bản 2.905.127 10.741.899
Đài Loan 2.055.040 6.824.588
Nga 1.316.290 4.773.691
Indonesia 1.178.316 4.233.744
Mỹ 998.720 4.112.364
Hàn Quốc 786.192 2.598.249
Hà Lan 656.111 2.170.692
Pháp 500.743 2.048.384
Singapore 489.692 1.785.933
Malaysia 466.616 1.538.967
Đức 308.694 1.426.445
Brazin 245.157 1.331.510
Arập Thống nhất 303.166 1.136.787
(Nguồn: tổng cục Hải Quan Việt Nam 2006)

- Rau là nguyên liệu của ngành công nghiệp thực phẩm
Những loại rau được sử dụng trong công nghiệp chế biến xuất khẩu dưới dạng
tươi, muối, làm tương, sấy khô, xay bột công nghệ đồ hộp (dưa chuột, cà chua, ngô
rau, măng tây, nấm ), công nghiệp bánh kẹo (bí xanh, cà rốt, khoai tây, cà chua ),
công nghiệp sản xuất nước giải khát (cà chua, cà rốt ), công nghiệp chế biến thuốc

dược liệu (tỏi, hành, rau gia vị), làm hương liệu (hạt ngò (hạt mùi), ớt, tiêu ). Đồng
thời cũng là loại rau dự trữ được sử dụng trong nội địa.
- Rau là nguồn thức ăn cho gia súc
Với chăn nuôi gia súc, gia cầm, rau giữ vai trò khá quan trọng: 1 đầu lợn tiêu
thụ 1 ngày 2- 3kg rau, trong đó có 50 - 60% loại rau dùng cho người: rau muống, bắp
cải, su hào, dền, mồng tơi, rau ngót, rau đậu, lang. Trung bình 9kg rau xanh thì cho
1đơn vị thức ăn và 100g đạm tiêu hóa được. Rau thường chiếm 1/3 - 1/2 trong tổng số
đơn vị thức ăn giành cho chăn nuôi, vậy muốn đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chính
phải tính toán vấn đề sản xuất rau và các loại rau có giá trị dinh dưỡng cao.
- Trồng rau sẽ phát huy thế mạnh của vùng, tăng thu nhập hơn so với một số loại
cây trồng khác
4

Cây rau dễ trồng, lại có thời gian sinh trưởng ngắn nhưng cho năng suất cao, có
thể gieo trồng nhiều vụ trong năm, tận dụng được đất đai, thời tiết khí hậu, công lao
động nông nhàn, quay vòng đồng vốn nhanh, có thể chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mang
lại lợi nhuận cao so với một số cây trồng khác cũng trồng trên chân đất ấy.
Sản xuất rau là ngành mang lại hiệu quả kinh tế cao. Giá trị sản xuất 1 ha rau
gấp 2 - 3lần một ha lúa. Từ 2003 đến nay, ngành nông nghiệp phấn đấu thu nhập 50
triệu/ha/năm, thì cây rau có thể thu được giá trị sản xuất 70-100 triêụ đồng/ha/năm.
Tại vùng chuyên canh rau Hà Nội (2002-2004) theo mô hình trồng rau ngoài đồng 4 vụ
thu nhập bình quân 76-83 triệu đồng/ha/năm, trong nhà lưới 124 -153 triệu là mức có
thu nhập cao so với 26,8 triêụ/ha bình quân của ngành trồng trọt. Nông dân trồng rau
có xu hướng tạo thu nhập cao hơn nông dân trồng cây khác vì năng suất và giá trị của
cây rau cao hơn một cách đáng kể. Vì vậy đây là điều kiện thuận lợi để người nông dân
đầu tư mở rộng diện tích trồng rau.

Thuỷ Châu (Hương Thuỷ - Thừa Thiên Huế) trong vụ Hè - Thu 2006 khi
chuyển đổi cơ cấu cây trồng lúa (đất lúa cưỡng) sang trồng dưa hấu thì 1 sào dưa hấu
(500m

2
) thu hoạch 1 tấn quả thương phẩm, giá bán sỉ 1500đồng/kg, thu được lãi
1.500.000 đồng. Cũng trên chân đất ấy trồng lúa thu được 200kg thóc, giá bán sỉ
3000đồng/kg, thu 600.000đồng/sào (tổng kết công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng của
xã 2006).

Bảng 2: So sánh chi phí sản xuất và tổng thu nhập từ rau và lúa ở Đài Loan

Stt Cây trồng
Chi phí sản xuất
(USD/ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Tổng thu nhập
(USD/ha)
1 Lúa 7.663 5,6 399
2 Cà chua 16.199 60,1 4.860
3 Khoai tây 3.876 23,9 1.104
4 Cải canh 2.426 39,7 1.016
5 Súp lơ 4.411 23,9 1.836
6 Hành 6.421 59,5 4.196
7 Tỏi 6.834 9,5 5.677
(Nguồn: Cẩm nang trồng rau, Nxb Cà Mau, 2002)


1.4. Giá trị làm thuốc
Một số loại rau còn được sử dụng để làm thuốc, được truyền miệng từ đời này
qua đời khác, đặc biệt cây tỏi được xem là dược liệu quý trong nền y học cổ truyền của
nhiều nước như Ai Cập, Trung Quốc, Việt Nam Dùng nhánh tỏi để chữa bệnh huyết
5


áp cao và bệnh thấp khớp. Một số loại rau có tính trừ sâu như xà lách, một số loại rau
lại có giá trị cho giá trị thẩm mỹ như ớt đỏ, dưa leo, cà chua, mướp đắng

1.5. Ý nghĩa về mặt xã hội
Vị trí cây rau trong đời sống - xã hội ngày càng được coi trọng nên diện tích
gieo trồng và sản lượng rau ngày càng tăng. Ngành sản xuất rau phát triển sẽ góp phần
tăng thu nhập, sử dụng lao động hợp lý, mở rộng ngành nghề, giải quyết công ăn việc
làm cho hàng ngàn người lao động ở các vùng nông thôn, ngoại thành và các lĩnh vực
kinh doanh khác như marketting, chế biến và vận chuyển. Ngoài ra ngành sản xuất rau
còn thúc đẩy các ngành khác trong nông nghiệp phát triển như cung cấp thức ăn cho
chăn nuôi, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến

2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN RAU TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
2.1. Trên thế giới
Theo số liệu gần đây nhất, năm 2005 diện tích trồng rau trên thế giới khoảng
17.999.009 ha, năng suất đạt 138,829 tạ/ha, sản lượng đạt 249,879 triệu tấn. Số liệu từ
bảng 3 cho thấy: nước có diện tích trồng rau lớn nhất là Trung Quốc với 8.266.500 ha
Về sản lượng rau thì Trung Quốc vẫn dẫn đầu với 142 triệu tấn chiếm 56,82%
tổng sản lượng rau thế giới. Sau Trung Quốc là Ấn Độ đạt 35 triệu tấn (chiếm 14%).
Như vậy, chỉ riêng 2 nước Trung Quốc và Ấn Độ đã chiếm 70,82% tổng sản lượng rau
toàn thế giới.
Bảng 3.Tình hình sản xuất rau của một số nước trên thế giới năm 2005
Quốc gia
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)

Toàn thế giới 17.999.009 138,829 249,879
Trung Quốc 8.266.500 171,790 142,000
Ấn Độ 3.400.000 102,941 35,000
Việt Nam 525.000 133,500 6,600
Philippin 500.000 88,000 4,400
Liên Bang Nga 207.000 162,802 3,370
Hàn Quốc 195.000 318,966 3,700
Brazil 195.000 115,385 2,250
Bănglađét 150.000 62,800 0,942
Thái Lan 145.000 162,802 1,005
Italy 144.000 180,556 2,600
Nhật Bản 110.000 280,412 2,700
Phần Lan 75.000 200,000 1,500
Hoa Kỳ 11.050 771,801 852,840
(Nguồn: Records Copyright FAO 2006)
6

- Tình hình tiêu thụ rau trên thế giới
Trước nhu cầu rau càng tăng, một số nước trên thế giới đã có những chính sách
nhập khẩu rau khác nhau. Năm 2005, nước nhập khẩu rau nhiều nhất thế giới là Pháp
đạt 145,224 nghìn tấn; sau Pháp là các nước như: Canada (143,332 nghìn tấn); Anh
(140,839 nghìn tấn); Đức (116,866 nghìn tấn). Trong khi đó, 5 nước chi tiêu cho nhập
khẩu rau lớn trên thế giới là: Đức (149.140 nghìn USD); Pháp (132.942 nghìn USD);
Canada (84.496 nghìn USD); Trung Quốc (80.325 nghìn USD); Nhật Bản (75.236
nghìn USD).
Nhiều nước trên thế giới ngày càng có nhiều chủng loại rau, tăng diện tích và
năng suất để đáp ứng nhu cầu về rau xanh ngày một tăng. Theo FAO, dự báo thị trường
rau của thế giới thì thị trường rau quả cung vẫn không đủ cầu. Thời kỳ 2000 - 2010
nhu cầu nhập khẩu rau quả của các nước trên thế giới sẽ tăng do mức tăng tiêu thụ rau
quả bình quân, dự báo nhu cầu tăng 3,6% trong khi mức tăng sản lượng rau quả chỉ đạt

2,8%.

2.2. Ở Việt Nam
- Hiện trạng sản xuất rau:
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, diện tích trồng rau cả năm 2006 là 644,0
nghìn ha, tăng 29,5% so với năm 2000 (452,9 nghìn ha). Năng suất đạt 149,9 tạ/ha; là
năm có năng suất trung bình cao nhất từ trước đến nay. Tổng sản lượng rau cả nước đạt
9,65 triệu tấn, đạt giá trị 144.000 tỷ đồng (tương đương 900 triệu USD), chiếm 9%
GDP của nông nghiệp Việt Nam, trong khi diện tích chỉ chiếm 6%. Với khối lượng
trên, bình quân sản lượng rau sản xuất trên đầu người đạt 115 kg/người/năm, tương
đương mức bình quân toàn thế giới và đạt loại cao trong khu vực, gấp đôi trung bình
của các nước ASEAN (57 kg/người/năm). Kim ngạch xuất khẩu rau, quả và hoa cây
cảnh trong 5 năm (2000 - 2004) đạt 1.222 triệu USD (bình quân mỗi năm đạt 224,4
triệu USD), trong đó khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu rau.
Cả nước trồng hơn 80 loại rau thuộc 25 họ thực vật, trong đó có 25 - 30 loại rau
chủ lực, có diện tích trên 10.000 ha (chiếm 73 - 75% diện tích và xấp xỉ 80% sản
lượng).
Có 2 vùng trồng rau chủ yếu ở nước ta hiện nay:
+ Vùng rau tập trung chuyên canh ven thành phố và khu công nghiệp với
khoảng 40% diện tích, 38% sản lượng. Chủng loại rau rất phong phú (hơn 60 loài). Sản
phẩm chủ yếu phục vụ cho cư dân phi nông nghiệp nên yêu cầu về chất lượng (đa dạng
chủng loại và mức độ an toàn sản phẩm) ngày càng gia tăng.
+ Vùng rau luân canh với 2 vụ lúa (vụ rau đông xuân), chiếm 60% diện tích và
gần 2/3 sản lượng rau cả nước. Đây là vùng rau hàng hoá có năng suất và chất lượng
cao, có tiềm năng lớn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và cho xuất
khẩu, đặc biệt tại đồng bằng sông Hồng và tỉnh Lâm Đồng.
7

Bảng 4. Diện tích, năng suất và sản lượng một số loại rau chủ lực năm 2004
Loại rau Diện tích

(ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(tấn)
Cà chua 20.648 17,34 357.210
Dưa chuột 19.874 16,88 33.537
Dưa hấu 18.140 17,82 322.890
Đậu rau 7.681 6,87 52.760
Cải các loại 26.184 22,64 592.805
Hành tỏi 14.678 15,84 232.500
- Kim ngạch xuất khẩu rau: Theo số liệu thống kê chính thức của tổng cục Hải quan
2006: Năm 2004 tổng kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả của Việt Nam 186,778 triệu
USD trong đó rau là 115,32 triệu USD, tỷ trọng rau/rau hoa quả chiếm 62,00%, trong
đó rau tươi chiếm 70-80% còn lại là rau chế biến
Kim ngạch xuất khẩu rau quả trong tháng 4/2005 đạt trên 24 triệu USD, tăng
63.88% so với tháng 4/2004. Trong đó, xuất khẩu sang hầu hết các thị trường đều tăng
khá cao. Đặc biệt xuất khẩu sang Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Hàn Quốc,
Singapore tăng rất mạnh, với mức tăng trên 3 con số. Tuy vậy, xuất khẩu sang một số
thị trường thuộc EU như Đức, Italia và sang Canada có xu hướng giảm. Tính chung 4
tháng đầu năm 2005, kim ngạch xuất khẩu rau đạt 80,4 triệu USD, tăng 64.28% so với
cùng kỳ năm 2004. Trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc đạt cao nhất và tăng rất mạnh
so với cùng kỳ năm 2004, đạt gần 15,36 triệu USD, chiếm 19% tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng rau quả của cả nước và tăng tới 236.42% so với cùng kỳ năm 2004. Tiếp
đến là Nhật Bản, đạt trên 10.47 triệu USD, tăng 82.65% . Việc xuất khẩu sang Nhật
Bản tăng mạnh, một thị trường khó tính nhưng ổn định là một tín hiệu đáng mừng đối
với xuất khẩu hàng rau quả của nước ta.
Bảng 5 : Kim ngạch xuất khẩu rau quả năm 2004 và 04 tháng đầu năm 2005

Tháng

Kim ngạch xuất
khẩu (triệu USD)
Tháng
Kim ngạch xuất khẩu
(triệu USD)
1/2004 10,7 9/2004 14,8
2/2004 8,6 10/2004 13,4
3/2004 14,9 11/2004 15,4
4/2004 14,7 12/2004 26,8
5/2004 17,8 1/2005 1,5
6/2004 14,2 2/2005 21,6
7/2004 12,2 3/2005 24,1
8/2004 15,2 4/2005 24,0
(Nguồn: Vietnam net : 01/06/2005)
8

Theo FAO 2006, thị truờng nhập khẩu một số mặt hàng nông sản chủ lực của
Việt Nam trên thế giới vào năm 2005 : rau hoa quả 102.900.226.000USD, xuất khẩu
của Việt Nam là 186.778.000 USD chiếm 0,2% tổng thị phần của thế giới.
(FAO,
- Các nước nhập khẩu chính rau quả của Việt Nam: Trung Quốc, Đài Loan, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Nga, Hồng Kông, Mỹ, Lào, Singapore, Pháp, Australia, Malaysia,
Anh, Đức, Inđônêxia trong đó Trung Quốc chiếm 36,74% thị trường xuất khẩu của
nước ta.
Tuy có nhiều loại rau xuất khẩu dưới dạng tươi khá phong phú nhưng nhìn
chung, các loại rau xuất khẩu còn mang tính đơn điệu, nhỏ lẻ, số lượng ít, thiếu tính
cạnh tranh. Phản ánh tình trạng sản xuất còn manh mún, mặt hàng chế biến rau cho
xuất khấu còn ít, đây là những điểm yếu cơ bản của xuất khẩu rau của Việt Nam hiện
nay.
Đặc điểm của rau là có thời gian sinh trưởng ngắn nên trong một năm có thể bố

trí nhiều lần trồng. Do đó trồng rau có tác dụng làm tăng hệ số sử dụng đất, tận dụng
tốt đất vườn, đất ruộng mạ. Mặt khác, sản xuất rau phù hợp với sản xuất kinh tế hộ gia
đình, tạo cơ hội việc làm cho vùng nông thôn, đặc biệt là lao động ven thành thị; tăng
thêm thu nhập trên mỗi đơn vị sử dụng đất, tăng hiệu quả kinh tế, góp phần thúc đẩy
kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển. Theo kết quả của một số nghiên cứu gần
đây cho thấy nếu bình quân 1 ha rau cho năng suất là 15 tấn thì giá trị kinh tế của rau
lớn hơn 2,8 lần so với trồng lúa hoặc 1,8 lần so với trồng đay ở miền Bắc.

2.3. TÌNH HÌNH PHÂN BỐ RAU Ở NƯỚC TA
Các vùng trồng rau lớn của cả nước bao gồm các tỉnh phía Bắc thuộc vùng đồng
bằng sông Hồng. Phía Nam, các huyện ngoại thành TP. Hồ Chí Minh, đồng bằng sông
Cữu Long như Tân Hiệp - Tiền Giang, Châu Thành - Cần Thơ, Vĩnh Châu - Sóc Trăng.
Miền trung và tây Nguyên gồm vùng rau truyền thống như Đà Lạt, Đơn Dương, Đức
Trọng (Lâm Đồng), các tỉnh duyên hải miền Trung .
Cả nước trồng hơn 80 loại rau thuộc 25 họ thực vật, trong đó có 25 - 30 loại rau
chủ lực, có diện tích trên 10.000 ha (chiếm 73 - 75% diện tích và xấp xỉ 80% sản
lượng).
Có 2 vùng trồng rau chủ yếu ở nước ta hiện nay:
- Vùng rau tập trung chuyên canh ven thành phố và khu công nghiệp với khoảng
40% diện tích, 38% sản lượng. Chủng loại rau rất phong phú (hơn 60 loạiư). Sản phẩm
chủ yếu phục vụ cho cư dân phi nông nghiệp nên yêu cầu về chất lượng (đa dạng
chủng loại và mức độ an toàn sản phẩm) ngày càng gia tăng.
- Vùng rau luân canh với 2 vụ lúa (vụ rau đông xuân), chiếm 60% diện tích và
gần 2/3 sản lượng rau cả nước. Đây là vùng rau hàng hoá có năng suất và chất lượng
9

cao, có tiềm năng lớn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và cho xuất
khẩu, đặc biệt tại đồng bằng sông Hồng và tỉnh Lâm Đồng.
Phía Bắc diện tích trồng rau chiếm trên 50% tổng diện tích trồng rau của cả
nước. Tuy nhiên, năng suất rau trồng ở các tỉnh phía Bắc thấp hơn các tỉnh phía Nam,

do các tỉnh này trồng nhiều loại rau ăn lá có năng suất cao hơn.
Do điều kiện sinh thái thích hợp với cây rau và nhu cầu tiêu dùng của xã hội nên
rau nước ta thường được sản xuất tập trung chủ yếu là hai vùng có sản lượng lớn.
- Vùng rau luân canh trên đất 2 vụ lúa và các cây trồng khác
Diện tích khoảng 241.000ha - chiếm 65,3% diện tích, sản lượng 3,05 triệu tấn -
chiếm 63% tổng sản lượng của cả nước. Vùng rau này chia thành hai vùng theo mục
đích xuất khẩu và tiêu dùng tại chỗ.
+ Vùng rau hàng hoá lớn: thuộc Trung Du và đồng bằng Bắc Bộ
Ưu thế của vùng này là sản xuất rau trên đất 2 vụ lúa. Tỷ trọng rau ở khu vực này
khá lớn, chiếm 43,6% về diện tích và 46,2% về sản lượng rau của cả nước.
+ Vùng rau phục vụ cho nhu cầu tại chỗ gồm miền núi phía Bắc và Khu 4 cũ,
vùng Duyên hải miền Trung và một số tỉnh Tây Nguyên
Cây rau ở đây được luân canh trên đất màu, cây lương thực, cây công nghiệp (ngô,
lạc, đậu tương), chủ yếu là rau Đông Xuân.
Ngoài 2 vùng trên, còn có gần 12 triệu hộ ở nông thôn, bình quân mỗi hộ có từ 35-
40 m
2
, diện tích gieo trồng ở vùng này tới 4000 ha, sản lượng có khoảng 400-500 ngàn
tấn.
- Vùng rau chuyên canh tập trung (Đà Lạt và TP Hồ Chí Minh)
Diện tích: 130.000 ha, sản lượng 1,78 triệu tấn. Diện tích gieo trồng chiếm
34,7% và sản lượng chiếm 37% tổng sản lượng rau cả nước. Sản xuất rau chủ yếu là
phục vụ nội vùng, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
- Phân bố vùng trồng rau hàng hoá và rau chuyên canh ở nước ta bao gồm:
+ Vùng trung du và Đồng bằng Bắc Bộ
Ở đây trồng được nhiều chủng loại rau có nguồn gốc ở vùng ôn đới như cải bắp,
su hào, hành tây, tỏi tây, xà lách, su hào, là vùng có điều kiện sản xuất rau trên diện
tích lớn và tập trung. Sản lượng rau hàng hoá chiếm tỷ trọng cao trong cả nước. Khả
năng xuất khẩu rau của vùng Đồng bằng sông Hồng là rất lớn, ngoài năng lực thoả mãn
nhu cầu nội tỉnh còn lưu thông rau hàng hoá ra nội vùng.

+ Vùng rau Lâm Đồng:
Vùng sản xuất rau hàng hoá tập trung chủ yếu ở Đà Lạt diện tích: 11.500 ha, sản
lượng: 240,5 ngàn tấn chiếm 3,1% diện tích và gần 5% sản lượng rau của cả nước.
Nhiệt độ bình quân hàng năm 18
0
C, rất thích hợp cho các loại rau ôn đới phát triển. Đà
Lạt còn là vùng sản xuất hạt giống rau tốt.
+ Vùng rau thành phố Hồ Chí Minh và phụ cận
10

Diện tích: 12.000ha, hàng năm thành phố xuất khẩu khoảng từ 500 -1000 tấn rau
sang thị trường Hồng Kông, Thái Lan, Hàn Quốc.
+ Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Diện tích : 71.000 ha, sản lượng 958,8 ngàn tấn. Ở vùng nay một số tỉnh có diện
tích và sản lượng rau lớn và có rau xuất khẩu ra nước ngoài như: An Giang, Tiền
Giang, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng với diện tích lên tới 521.000ha, sản lượng
719.400 tấn chiếm gần 73% về diện tích và 75% sản lượng rau của cả vùng.
Điều kiện thời tiết của vùng Đồng bằng sông Cửu Long thích nghi cho nhiều loại
rau sinh trưởng và phát triển, một năm có thể trồng tới 5 - 6 vụ. Đặc sản của vùng này
là dưa hấu, dưa chuột (dưa leo), ngô rau, cải bắp, cà chua là những loại rau cho hiệu
quả kinh tế cao. Ngoài ra ở đây còn có những vùng chuyên sản xuất hạt giống rau
muống, hạt giống rau xà lách để xuất khẩu sang Hồng Kông, Singapo, Nhật Bản,
Philippin với sản lượng khá cao.
- Một số chủng loại rau phân bố thành vùng trồng thích nghi theo vùng sinh thái
Vùng trồng cải bắp: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên.
Vùng trồng hành tây: Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Phan Rang.
Vùng trồng tỏi ta: Hải Dương, Bắc Giang, huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi).
Vùng trồng khoai tây: Hà Nội, Hưng Yên, Hà Tây, Nam Định, Thái Bình, Bắc
Ninh, Bắc Giang.
Vùng trồng dưa hấu: Kiên Giang, Tiền Giang, An Giang, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc

Trăng, Bình Định, Quảng Nam và Hưng Yên.
Vùng trồng cà chua: Hà Nội, Hải Hưng, Hải Phòng, Hà Tây.
Vùng trồng ớt: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng,
Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang.
Vùng trồng tiêu: Quảng Bình, Quảng Trị, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Phú
Quốc.
Vùng sản xuất hạt giống rau: Đồng Văn, Mèo Vạc, Sapa, Đà Lạt.
- Ở miền Trung và Thừa Thiên Huế
Trong quá trình phát triển các tỉnh miền Trung, Thừa Thiên Huế đã xuất hiện nhiều
vùng trồng rau chuyên canh mới, không ngừng đổi mới về tiến bộ kỹ thuật, giống
mới , vì vậy năng suất, sản lượng không ngừng tăng lên. Mỗi tỉnh đều có vùng rau
chuyên canh, rau an toàn tập trung quanh thành phố, thị xã, thị trấn, khu công nghiệp
và khu du lịch cũng như sản xuất hàng hóa trao đổi buôn bán sang các tỉnh bạn và các
quốc gia khác.
- Thanh Hóa: Sản xuất rau chủ yếu ở các huyện Nga Sơn, Hoàng Hóa, Quảng Xương,
Thọ Xuân, TP. Thanh Hóa
- Nghệ An: TP. Vinh, Hưng Nguyên, Diễn Châu
Hà Tĩnh: Thạch Hà, Đức Thọ, Nghi Xuân, Cẩm Xuyên
11

Quảng Bình: Đồng Phú - Đồng Hới, Cửa Phú, Võ Ninh, Gia Ninh, Hà Thôn (Quảng
Ninh), Hồng Thủy, Sen Thủy - Lệ Thủy
Quảng Tri: Có vùng rau chuyên canh tập trung như An lạc - thị xã Đông Hà, Nại
Cửu, Liên Giang - Triệu Phong, Hải Thọ - Hải Lăng
Đà Nẵng: các vùng rau lớn thuộc huyện Hòa Vang (diện tích 25ha, tập trung Hòa
Thọ, Hòa Phong, Hòa Phát, Hòa Phước, Hòa Tiến); quận Sơn Trà (diện tích khoảng
23ha, tập trung ở phường Phước Mỹ, Thọ Quang); Quận Ngũ Hoành Sơn (diện tích
24ha, tập trung ở phường Bắc Mỹ An, Hòa hải, Hòa Quý)
Quảng Nam: Vùng rau tập trung ở thị xã Hội An, Tam Kỳ, Thăng Bình
Quảng Ngãi: Vùng rau lớn nhất là thị Xã Quảng Ngãi, Mộ Dức, Đức Phổ, Bình Sơn,

Sơn Tịnh, Tư Nghĩa.
Thừa Thiên Huế:
+ Vùng rau truyền thống tại một số phường, xã thuộc thành phố Huế: Phường
Tây Linh, Thuận Lộc, Tây Lộc, Kim Long, Hương long, Hương An, Quảng Vinh
+ Vùng sản xuất rau phụ cận thành phố Huế: có diện tích trung bình 30 - 45 ha
(Xã Hương Xuân, Hương An, Hương Chữ (Hương Trà), xã Điền Lộc, Điền Môn,
Điền Hoà, Điền Hải (Phong Điền), Xã Quảng Thành, Quảng Thọ, Quảng An, Quảng
Lợi ( Quảng Điền).

3. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH SẢN XUẤT RAU NƯỚC TA
3.1. Sản xuất rau là một ngành sản xuất sản phẩm có tính chất hàng hóa cao
Rau luôn luôn đòi hỏi non, ngon, tuơi, không sâu bệnh, thẩm mỹ hàng hóa cao.
Vì vậy các khâu sản xuất từ thời vụ đến chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và thu hoạch,
vận chuyển phải kịp thời, liên quan nhiều đến các ngành khác: giá cả, thu mua, kế
hoạch, phân phối

3.2. Rau yêu cầu công lao động cao, kỹ thuật cao và tỷ mỉ
Đặc điểm của cây rau là bộ rễ nhỏ yếu, thân lá non, mềm, khả năng chống chịu
điều kiện ngoại cảnh yếu, nên phải chăm sóc tỉ mỉ, thường xuyên. Hệ số quay vòng cao
(trung bình 3 - 5 vụ/năm) nên cần nhiều công lao động/đơn vị diện tích. Thời vụ trồng
khẩn trương, đòi hỏi phân bón nhiều, cần nhiều thiết bị như nhà lưới, phòng điều hòa
nhiệt độ, thiết bị tưới tự động, định giờ, PE, làm giàn, thiết bị che chắn nắng, mưa,
sương muối.

3.3. Rau có thể luân canh, xen canh, gieo lẫn
Rau trồng có nhiều loại: cao cây, thấp cây, rễ ngắn, rễ dài, loại ưa sáng mạnh,
loại ưa sáng yếu, thời gian sinh trưởng dài ngắn khác nhau và yêu cầu khác nhau về
dinh dưỡng. Trồng như vậy để tận dụng không gian và thời gian, tăng sản lượng/đơn vị
diện tích, tăng hiệu quả kinh tế đồng thời cải tạo đất, hạn chế sâu bệnh.
12



3.4. Rau thường được thông qua thời kỳ vườn ươm
Bộ rễ của cây rau có khả năng tái sinh tốt (trừ các loại đậu và rau ăn rễ củ), hạt
nhỏ, cây con nhỏ, yếu ớt, rễ ăn nông nên cần tập trung gieo trên một diện tích nhỏ để
có điều kiện bồi dục, chăm sóc cho bộ rễ khỏe, thân lá phát triển tốt, cứng cáp, đảm
bảo tỷ lệ sống cao, sau này dễ thích nghi với ruộng đại trà. Đồng thời tranh thủ không
gian và thời gian cho sản xuất.

3.5. Rau thường bị nhiều loại sâu bệnh gây hại.
Ruộng rau là môi trường cho sâu bệnh phát triển tốt: trồng với mật độ dày, thâm
canh cao, ruộng luôn luôn ẩm, thân lá rậm rạp. Bản chất cây rau do vách tế bào mỏng,
hàm lượng chất dinh dưỡng cao, hàm lượng nước cao, trồng nhiều chủng loại liên tục,
luân canh không triệt để, khả năng chống thuốc hóa học kém, đặc biệt có những bệnh
lây lan hiểm nghèo (xoăn lá, thối nhũn).

3.6. Rau yêu cầu thời vụ nghiêm ngặt
Rau là cây rất mẫn cảm với điều kiện ngoại cảnh, nhất là điều kiện thời tiết khí
hậu, yêu cầu bố trí thời vụ thích hợp, thu đúng thời vụ, thời điểm tiêu thụ: Ví dụ bắp
cải trồng muộn không cuốn, su hào bị xơ, đậu cô ve trồng vụ Hè không ra hoa.

3.7. Rau có thể trồng trong điều kiện nhân tạo
Rau có nhiều loại, nhiều biến chủng khác nhau, khối lượng thân lá, rễ nhỏ,
chiếm chỗ không gian hẹp, thời gian sinh trưởng ngắn, có thể trồng trong điều kiện
nhân tạo: rau sạch, rau trái vụ hay rau trong nhà kính, nhà ấm, hoặc dùng PE che phủ
những nơi điều kiện thời tiết bất lợi như băng tuyết, quá lạnh cây không thể sinh trưởng
được

4. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC CỦA NGÀNH SẢN XUẤT RAU
4.1. Những thuận lợi tiềm năng

- Là một ngành sản xuất truyền thống của nông nghiệp Việt Nam. Nông dân có kinh
nghiệm, cần cù và sáng tạo. Nhân dân ta đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong việc
chăm sóc, huấn luyện cây con, chống nóng, chống rét, trồng rau rải vụ, trái vụ
- So với các ngành trồng trọt khác, đây là lĩnh vực sản xuất có hiệu quả cao, nông dân
trồng rau có thu nhập cao hơn hẳn trồng lúa và các cây lương thực khác.
- Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, vị trí địa lý, lại có những nét độc đáo về khí hậu, địa
hình phức tạp, chạy dài trên 15 vĩ độ, có sự chênh lệch về độ cao so với mặt biển. Do
khí hậu đa dạng nên cũng đa dạng và phong phú các chủng loại rau. Rau trồng được
quanh năm mà không qua nhân tạo, cho năng suất cao, phẩm chất tốt, giá thành hạ.
Việt Nam có thể trồng được hầu hết các loại rau có trên thế giới, rau vụ đông xuân ở
13

các tỉnh phía Bắc có lợi thế so sánh rõ rệt so với các nước sản xuất và xuất khẩu rau lớn
của Châu Á và thế giới như Trung Quốc và Thái Lan.
- Thị trường tiêu thụ rau xanh trong nước và thế giới ổn định và ngày càng tăng là cơ
hội để ngành rau phát triển.
- Lực lượng lao động dồi dào, tiếp thu nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật
tiên tiến trên thế giới
- Nhiều chính sách mới đã được ban hành và tiếp tục hoàn thiện trong thực tiễn, tạo
hành lang pháp lý ngày càng thuận lợi cho hoạt động, sản xuất kinh doanh rau phát
triển
- Việt Nam đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO), kinh tế đối ngoại có
nhiều cơ hội phát triển. Quan hệ giữa Việt Nam và nhiều nước trên thế giới được thiết
lập. Thị trường xuất khẩu rau và các sản phẩm chế biến từ rau ngày càng được mở rộng
- Có đội ngũ cán bộ khoa học nghiên cứu về rau có trình độ, năng lực và nhiệt tình
- Những kỹ thuật mới đang phát triển trong quá trình sản xuất rau:
Trước hết là giống, nông dân đã có cơ hội sử dụng nhiều giống mới. Những
giống chịu nhiệt, chịu mưa đã tạo nên những mùa vụ mới mà trước đây chưa từng có.
Ví dụ nhờ có giống bắp cải, sup lơ chịu mưa, chịu nhiệt mà các loại rau này không còn
là những loại rau độc tôn của vùng Đà Lạt nữa. Chúng đã được sản xuất ở vùng đồng

bằng, nhiệt độ cao từ Quảng Nam, Đà Nẵng vào đến Cà Mau. Gần đây, các giống dưa
hấu chịu mưa, cùng với các giống dưa hấu vụ truyền thống (vụ đông xuân) đã đem đến
cho thị trường vị ngọt quanh năm. Các giống mới còn góp phần nâng cao năng suất,
ước tính hơn giống cũ 15 - 20 %.
Chủng loại rau mới: Những năm gần đây người tiêu dùng dần dần được thưởng
thức sup lơ xanh, đậu cô ve xanh, bắp rau (ngô bao tử/baby corn) và một số loại rau
đặc biệt khác như cà chua sơry (cherry) quả nhỏ, dùng ăn sống, bắp cải tím. Đa số các
loại rau này được trồng tại vùng mát Lâm Đồng.
Các tiến bộ kỹ thuật đáng chú ý là việc sử dụng nilon phủ luống, dùng nilon phủ
luống là 1 biện pháp kỹ thuật mang lại nhiều lợi ích tổng hợp rất thiết thực. Các tỉnh áp
dụng nhiều biện pháp này có Khánh Hoà, Tiền Giang, Đồng Tháp, Lâm Đồng, TP Hồ
Chí Minh.
Việc sử dụng các loại phân bón, thuốc trừ sâu sinh học cũng là những nét mới
góp phần làm tăng năng suất, sản lượng rau.
Các biện pháp dùng nhà lưới để trồng rau sạch, rau an toàn, dùng vỉ để gieo
ươm cây con cũng đã bắt đầu được sử dụng. Các tỉnh tiêu biểu áp dụng biện pháp này
gồm Lâm Đồng, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Long.
Bắt đầu hình thành mô hình sản xuất gắn với chế biến xuất khẩu. Ví dụ một số
địa phương như An Giang, Tiền Giang, Nông trường Sông Hậu, TP Hồ Chí Minh đã và
đang từng bước sản xuất và chế biến ớt, bắp nhỏ, đậu nành rang. Trong tương lai gần,
một nhà máy chế biến cà chua tại Lâm Đồng cũng sẽ được xây dựng.
14

Các vùng sản xuất rau an toàn đang dần dần được hình thành, nhất là ven các thị
xã, thành phố lớn. Tình hình nhiễm độc do rau đã giảm đáng kể.
Trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long, rau được coi là một trong những cây có vai trò quan trọng được chú ý phát triển
để thay thế cây lúa ở những vùng đất ven đô thị.
Một điểm đặc biệt là việc hình thành và phát triển các công ty sản xuất giống
của Việt Nam hoặc của nước ngoài trên lãnh thổ phía Nam nước ta đã góp phần rất lớn

trong việc cung cấp nhiều giống tốt cho ngành trồng rau nước ta. Đáng kể có công ty
giống Cây trồng miền Nam, Công ty Đông Tây (hai mũi tên đỏ), công ty Known You,
Công ty Xanh (Tropical)

4.2. Những tồn tại, yếu kém của ngành sản xuất rau
- Nền sản xuất nhỏ, manh mún, diện tích nhỏ khó đầu tư và áp dụng những tiến
bộ mới. Sản xuất rau từ xưa đến nay mang tính tự cung tự cấp cho thị trường nội địa,
năng suất và đặc biệt chất lượng rau chưa cao. Vì vậy có rau mà không xuất khẩu được.
Sản xuất rau hiện nay hoàn toàn tự do, trôi nổi theo thị trường, thiếu hẳn vai trò tổ chức
và quản lý nhà nước. Vì thế thường có tình trạng sản xuất dư thừa, thị trường tiêu thụ
không hết, nông dân phải bán rẻ, thậm chí có người bỏ mặc trên nuộng không muốn
thu hoạch.
- Năng suất rau còn thấp, chỉ bằng 87% so với trung bình toàn thế giới, tỷ lệ hao
hụt sau thu hoạch khá cao (20 - 30%). Sản lượng rau phân bố không đều. Nhiều khu
vực còn thiếu về lượng, đơn điệu về chủng loại như các tỉnh miền núi, duyên hải Trung
bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Mức độ an toàn rau sản xuất ven thành phố và khu
công nghiệp có chiều hướng suy giảm.
- Tỷ trọng giống nước ngoài sử dụng trong sản xuất rất cao (trên 50%). Công tác
nghiên cứu chọn tạo giống rau trong nước chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất.
- Chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế so sánh về khí hậu và lao động để sản xuất rau
cho xuất khẩu tại các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng và tại Lâm Đồng.
- Hệ thống cơ sở vật chất cho sản xuất, chế biến và bảo quản rau còn lạc hậu, thiếu
đồng bộ, hiệu quả chưa cao.
- Sự phát triển nghề trồng rau chủ yếu tập trung vào các thành phố và khu công nghiệp,
nên có sự chênh lệch về trình độ sản xuất, tiêu thụ giữa các vùng trong nước.
- Rau không an toàn: Mặc dù tình hình ngộ độc do rau không còn nghiêm trọng như 3-
4 năm trước đây nhưng mối đe doạ sức khoẻ cộng đồng vẫn còn nặng nề. Việc sử dụng
nhiều hoá chất độc hại, không có thời gian cách ly an toàn. Thậm chí nhiều nơi đã
dùng cả dầu nhớt thải (chứa chì và các chất độc hại khác) để trừ sâu cho rau muống.
Việc trồng rau trên vùng đất, nước nhiễm bẩn, nhất là rau muống trên kênh rạch bẩn

còn khá phổ biến.
15

- Việc chuyển giao công nghệ trong sản xuất rau chưa được chú trọng và hiệu quả còn
thấp. Các tiến bộ kỹ thuật thích hợp chậm được đánh giá, kết luận và nhân rộng. Công
nghệ sau thu hoạch chưa được phát triển mạnh. Sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau vẫn
chưa được chú ý đúng mức, nhất là việc tìm kiếm các thị trường xuất khẩu, công tác
tiếp thị, thị trường còn hạn chế.
- Xây dựng các vùng rau xuất khẩu là cả một chiến lược cho ngành trồng rau đầy tiềm
năng của Việt Nam, nhưng vệc phát triển các giống có ưu thế lai trong sản xuất còn
hạn chế, do vậy giá thành sản phẩm cao, từ đó kéo theo sự hạn chế trong sản xuất rau
xuất khẩu.
- Chưa chú trọng công tác quản lý nghề trồng rau và chất lượng sản phẩm, chưa cạnh
tranh được trên thị trường trong khu vực và thế giới.
- Công tác nghiên cứu về rau chưa được chú ý đầu tư đúng mức, có chiến lược, nhất là
việc sản xuất rau hàng hoá xuất khẩu.

4.3. Một số trở ngại lớn trong việc phát triển rau có tính đặc thù ở miền Trung
- Thời tiết khí hậu:
Nền nhiệt biến động lớn và lượng mưa lớn, phân bố không đều, thường xảy ra
nhiều thiên tai, bão lụt, gây nhiều rũi ro cho sản xuất rau. Ví dụ Thừa Thiên Huế là
Tỉnh có tổng nhiệt độ năm đạt từ 8.500 - 9000
0
C. Lượng mưa trung bình năm đạt
khoảng 2.800mm. Nhiệt độ và lượng mưa phân bố không đều trong năm. Mùa khô (vụ
Hè - Thu) nhiệt độ trung bình tháng khoảng 25
o
C, có tháng nhiệt độ lên đến 28-29
o
C

với thời gian kéo dài và đây cũng là những tháng ít mưa nhất trong năm nên đã gây ra
tình trạng hạn hán kéo dài làm ảnh hưởng đến sản xuất rau xanh. Mùa mưa (vụ Đông -
Xuân) có lượng mưa lớn (chiếm khoảng 66 -75% lượng mưa/năm) kết hợp với nhiệt độ
và số giờ nắng thấp, gây ra tình trạng ngập úng, làm ảnh hưởng đến mùa vụ và sinh
trưởng của các loại rau. Do đó trong sản xuất cần có biện pháp chống hạn, chống nóng
cho rau trong mùa khô và chống úng, chống mưa to trong mùa mưa.
- Đất đai:
Đất đai phong phú về chủng loại có thể phát triển các loại rau xanh, nhưng
nhìn chung các loại đất có độ phì thấp, nghèo dinh dưỡng, diện tích đất chua phèn,
ngập mặn lớn, độ dốc lớn nên khả năng rửa trôi trong mùa mưa cao. Đặc điểm đất đai
và địa hình cho thấy tuy diện tích đất nông nghiệp của các tỉnh lớn nhưng trong đó
diện tích có thể phát triển cây rau chiếm tỉ trọng nhỏ, ngoài ra do địa hình dốc nên mùa
mưa dễ bị rửa trôi ngập úng, mùa khô khả năng giữ nước kém, hạn hán nên trồng rau
phải đầu tư cao dẫn đến lãi thấp.
- Chủng loại:
Các loại rau trồng chưa đa dạng, chủ yếu nhóm rau ăn lá, những loại rau cao cấp
có giá trị kinh tế cao còn hạn chế như: cà chua, ngô rau, dưa chuột, cải bắp, su hào các
loại rau gia vị. Chưa có những giống rau thích ứng cho mỗi vùng, mỗi vụ cụ thể.
16

- Sản xuất rau vùng ngoại ô:
Dù có diện tích lớn hơn thành phố, tuy nhiên vùng này gặp một số khăn như
sản xuất tự cung tự cấp, diện tích nhỏ, manh mún nên khó áp dụng các tiến bộ kỹ thuật
cũng như khó hình thành vùng sản xuất tập trung, sản xuất hàng hoá. Thiếu kỹ thuật
thâm canh cũng như công nghệ chế biến bảo quản một số loại rau cao cấp. Cơ sở vật
chất đang còn nghèo nàn lạc hậu chưa tương xứng với tiềm năng của từng địa phương.
Thiếu vốn đầu tư sản xuất. Đây là vấn đề cần có sự quan tâm đầu tư của các cấp chính
quyền giúp người sản xuất mở rộng diện tích cũng như quy mô sản xuất.
- Tiêu thụ rau: Thị trường tiêu thụ rau nhỏ lẻ, hạn chế đối với một số loại rau như rau
cải, xà lách, đậu cô ve, bí xanh do đó đòi hỏi người sản xuất phải vận chuyển đi xa, làm

ảnh hưởng đến tỉ lệ hao hụt cũng như về mặt thẩm mỹ của sản phẩm. Ngoài ra chất
lượng và giá cả các loại rau vẫn chưa cao nên cũng ảnh hưởng đến sức mua và quy mô
sản xuất.
- Tập quán trồng: Người dân Miền Trung có tập quán trồng lúa lâu đời, do đó khi
thay đổi cơ cấu chủng loại cây trồng ít có kinh nghiệm trong sản xuất, để giống, bảo
quản giống. Quy mô sản xuất rau nhỏ nên hiệu quả kinh tế chưa cao. Điều này đòi hỏi
cần có những mô hình sản xuất đem lại hiệu quả thiết thực, từ đó có sự chuyển giao
khoa học kĩ thuật cũng như quy trình sản xuất đến tận người dân.
- Giống rau: có thể nói một trong những nguyên nhân lớn khiến năng suất suất rau
của chúng ta chưa cao là do giống. Tỷ trọng giống tốt (gồm cả giống lai và giống
thuần) chưa nhiều, có một số vấn đề khác như nhà nước không quản lý được việc đánh
giá, công nhận và phổ biến giống. Việc giới thiệu, phổ biến giống tốt gần như tuỳ thuộc
vào các công ty sở hữu giống. Nông dân có nơi bị nhiễu, có nơi bị thiếu thông tin,
không biết giống nào tốt và thích hợp với vùng mình.
- Biện pháp canh tác:
Sử dụng giống mới trên nền kỹ thuật cũ hay nói cách khác là sự không đồng bộ
cũng là một nguyên nhân làm năng suất rau không cao. Ví dụ, các giống lai, bản thân
chúng có tiềm năng 30 - 40 tấn/ha nhưng bị đặt trong một điều kiện giống địa phương,
gieo ươm cây con không cẩn thận, cây giống xấu, cỏ dại nhiều, không quản lý được sâu
bệnh, bón phân không cân đối, hợp lý, mật độ không hợp lý, dàn leo hay choái cắm
không chắc chắn v.v thì năng suất không thể cao được. Trong biện pháp canh tác có
vấn đề về sử dụng phân bón. Nói chung việc sử dụng phân bón hiện nay dựa vào kinh
nghiệm là chính với xu hướng coi trọng phân hoá học và lạm dụng phân đạm, phân kali
ít được chú ý.
- Sâu bệnh và vấn đề rau không an toàn: Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, rau bị nhiều
sâu bệnh không những về số lượng mà còn nhiều về chủng loại. Việc sử dụng thuốc trừ
sâu bừa bãi gây hiện tượng quen thuốc do đó sâu bệnh phát triển ngày càng mạnh hơn.
Đây là 1 trong những vấn đề lớn của sản xuất rau Việt Nam. Do ở vào vùng nhiệt đới
17


nóng ẩm, thích hợp cho sâu bệnh phát triển quanh năm nên trong sản xuất rau chúng ta
gặp tất cả những loại sâu bệnh nguy hiểm đặc trưng của các vùng nhiệt đới.
Đối mặt với sự tấn công của sâu bệnh, nông dân đã phải sự dụng nhiều loại
thuốc hoá học, hoá chất ngày càng tăng và không ít trường hợp đã sử dụng thuốc cấm
(như Methylparathion Methamidophos). Cùng với việc sử dụng thuốc có độ độc cao,
liều lượng cao, nông dân còn sử dụng nhiều lần trong một vụ (trung bình từ 11-15
lần/vụ rau, không theo đúng quy trình hướng dẫn đến sâu bệnh “quen thuốc”. Tình
trạng trên đã dẫn đến hậu quả là rau không an toàn. Trước hết với người tiêu dùng
trong nước, hậu quả trước mắt và lâu dài là rất lớn. Sau nữa, rau như vậy không bao
giờ xuất khẩu được.
- Vấn đề sản xuất rau trái vụ:
Trồng rau ở các tỉnh miền Trung chịu ảnh hưởng của hai mùa khí hậu: mùa mưa
và mùa khô. Ví dụ ở miền Trung trong mùa khô, nhất là những tháng trong vụ Hè Thu
(tháng 5-8) thời tiết nắng nóng, hạn hán. Ngược lại mùa mưa, nhất là những tháng
trong vụ Đông Xuân (tháng 10 -12) thời tiết không thuận lợi, khó trồng. Đây là vụ trái
(không thuận lợi) nên cần được đầu tư cao hơn chính vụ, áp dụng một số biện pháp kỹ
thuật tiên tiến để giúp cây rau sinh trưởng, phát triển tốt, đảm bảo năng suất cao, chất
lượng khá, cung cấp rau quanh năm cho thị trường (biện pháp chọn giống chịu nóng,
chịu mưa, chịu sâu bệnh, làm mái che, nhà lưới, che lưới, phủ luống nilon 2 màu, kết
hợp đồng bộ giữa tưới nước, bón phân và phòng trừ sâu bệnh)
- Đặc điểm mùa vụ và sản lượng rau cung cấp cho thị trường:
Mùa mưa: Nhiệt độ thấp hơn, có thể nói hầu hết các loại rau ôn đới và một số ít
các loại rau nhiệt đới có thể trồng tốt, cho năng suất cao trong vụ Đông Xuân. Một số
loại rau khác có thể trồng được nhưng cần phải có giống thích hợp như cà chua, cải
xanh, hành, ngò. Đa số từng được trồng với giống địa phương, năng suất không cao.
Mùa khô: Gần như không trồng được hoặc có trồng được thì năng suất thấp,
chất lượng kém đối với rau ôn đới, hầu hết trồng rau nhiệt đới như mướp đắng, dưa leo,
ớt, dưa, bầu bí. Một số loại rau ôn đới trồng được nhưng giá thành cao. Vì vậy, thường
có hiện tượng mùa mưa rau dồi dào, mùa khô thì rau thiếu cả về số lượng lẫn chủng
loại.

5. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN RAU
5.1. Công tác giống
- Chọn lọc và cải thiện nâng cao độ thuần của giống địa phương.
- Chọn lọc và lai tạo giống rau có chất lượng cao, chống chịu khô hạn, chịu
nóng, có thể trồng được ở các loại đất thấp trũng và đất cao vùng đồi.
- Nhập nội những hạt giống ở Miền Trung không sản xuất được do điều kiện
thời tiết không phù hợp (bắp cải, su hào, cà rốt) và các giống lai F1 như dưa chuột, dưa
hấu.
18

- Từng bước tiến hành nghiên cứu, xây dựng các xí nghiệp chuyên sản xuất
cung cấp giống, cây con sạch bệnh cho dân.
5.2. Tập trung sản xuất rau an toàn.
Tổng kết công tác nghiên cứu phát triển rau an toàn, rau sạch vừa qua. Mở rộng
mô hình đã có kết quả, đa dạng các hình thức sản xuất rau an toàn, rau sạch từ quy mô
nhỏ đến quy mô lớn, từ đơn giản đến hiện đại (kể cả nhà lưới, thuỷ canh )
5.3. Tăng cường sản xuất rau trái vụ:
Rau mùa mưa, mùa khô những tháng khó khăn do thời tiết gây ra, cần được chú
ý và phát triển để đảm bảo rau xanh ổn định cho thị trường.
5.4. Nâng cao chất lượng kỹ thuật của các biện pháp canh tác
- Nghiên cứu ứng dụng rộng rãi phủ nilon, rau có thiết bị che chắn, giàn che và
các biện pháp tưới tiêu hiện đại.
- Nghiên cứu bón phân cân đối, hợp lý, có hiệu quả cho các loại đất chính trồng
rau ở các vùng: Đất cát ven biển miền Trung, đất xám Củ Chi, đất đỏ miền Đông Nam
Bộ, đất đen đồng bằng sông Cửu Long.
5.5. Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật, xây dựng và phát triển mô hình sau thu
hoạch: Để giảm tổn thất, tăng chất lượng rau tươi, đa dạng hoá các sản phẩm rau
chế biến.
5.6. Xây dựng dây chuyền sản xuất - chế biến - tiêu thụ
Cần có sự phối hợp với các ngành, các cấp xây dựng những mô hình sản xuất,

chế biến và tiêu thụ hợp thành mạng lưới sản xuất rau trong cả nước. (Ví dụ: gần đây
công ty của Nhật đã thu mua và sơ chế để bán cho các siêu thị tại TP Hồ Chí Minh
hoặc hiện nay sản xuất bắp rau cung cấp cho nhà máy chế biến xuất khẩu ở An Giang).
5.7. Đẩy mạnh sản xuất rau xuất khẩu
Thời gian gần đây từ phía Nhà nước đã có những chuyển biến trong việc xác
định rau là mặt hàng xuất khẩu quan trọng phải từng bước được đầu tư. Ví dụ mới có
nhà máy chế biến cà chua xuất khẩu ở Hải phòng, dưa leo xuất khẩu Hải Dương, chế
biến bắp và các loại rau khác ở An Giang và sắp tới là nhà máy chế biến cà chua ở Lâm
Đồng. Công tác nghiên cứu khoa học về rau cũng được chú ý hơn. Đã có Viện Nghiên
cứu Rau Quả ở Hà Nội, viện KHKTNN miền Nam, các trường đại học Nông Nghiệp.
Miền Trung cũng rất cần một Viện nghiên cứu rau mới đáp ứng được đòi hỏi và tiềm
năng mang sắc thái riêng của vùng.
Câu hỏi bài 1:
1. Vai trò và giá trị của cây rau trong cuộc sống?
2. Tình hình sản xuất trên thế giới và Việt Nam như thế nào?
3. Những đặc điểm chính của nghề trồng rau, những thuận lợi, khó
khăn và giải pháp nhằm phát triển rau ở Việt Nam?


19


Bài 2
PHÂN LOẠI RAU

Phân loại rau thành hệ thống nhằm tạo điều kiện tốt cho công tác giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, chọn giống, nhập nội giống và sử dụng giống trong sản xuất
được thuận lợi. Có nhiều phương pháp phân loại, nhưng sau đây là 3 phương pháp
chính của P. Mudappa và ctv 1996 và trung tâm nghiên cứu và phát triển rau châu Á
(AVRDC)


1. DỰA VÀO PHƯƠNG PHÁP PHÂN LOẠI THỰC VẬT HỌC
Phương pháp này dựa vào các đặc điểm thực vật học của rễ, thân, lá, hoa, quả,
hạt và quan hệ họ hàng giữa chúng mà phân loại thành bộ, họ, chi, loài, giống vv có
tên gọi thống nhất bằng tiếng Latin. Đây là phương pháp phân loại được sử dụng rộng
rãi trên thế giới. Tiêu chuẩn chính để xác định mối quan hệ trong phân loại thực vật là
dựa vào mối quan hệ giống nhau và khác nhau về cấu trúc hoa. Bộ Nông nghiệp Mỹ
(Terrell et al. 1986) đã phân loại thực vật theo họ, chi và loài và tuân theo các quy luật
quốc tế về thuật ngữ khoa học. Sự kết hợp của các chi hoặc loài lập thành danh sách
tên khoa học của các loại rau được chấp nhận trên thế giới.Ưu điểm của phương pháp
phân loại này là có thể tìm hiểu quan hệ về hình thái, họ hàng và có tên gọi thống nhất
bằng tiếng Latin. Sự hiểu biết mối quan hệ này là cơ sở khoa học cho công tác chọn tạo
và nhập nội giống.

Bảng 6:
Danh sách một số loại rau có mặt trong đời sống và trên thị trường Việt Nam
Tên Việt Nam Tên khoa học
1. Thực vật bậc thấp (thực vật hạ đẳng)
1- Họ nấm tán Agricaceae
Nấm rơm Volvaria volvacea Fr. (V. esculenta )
Nấm mỡ Psalliota bisporus (P. campestri Fr.)
Nấm hương Coritellus shiitake P. Hen
2 - Họ mộc nhĩ Auriculoria
Nấm mộc nhĩ (nấm mèo) A. judae Shroter ( A.fidae Shroter)
Nấm sò Pleurotus sajor- caju
Thực vật bậc cao (thực vật thượng đẳng)
Nhóm cây một lá mầm (đơn tử diệp)
1- Họ hòa thảo Poaceae/Gramineae
Ngô rau (ngô bao tử) Zea mays L. var. saccharata Koern
Ngô đường Zea mays L. subsp. mays

20

Măng tre (bamboo) Phyllostachys sp.
Măng mai Dendrrocalamus latifolius Munro.
Sả (lemon grass) Cymbopogon citratus.
2- Họ hành tỏi Liliaceae
Hành tây (onion): Allium cepa L.
Hành ta/hành củ nhỏ (shallot) Allium ascalonicum L.
Tỏi củ ta (garlic): A.sativum L
Tỏi tây (leek): Allium porum L
Tỏi củ ta (garlic): A.sativum L
Hành tăm (ném) Allium cepa L. var. cepa
Hành lá
(bunching onion)
Allium cepa var. aggregatum
Hẹ (flower garlic): Allium schoenoprasum (Allium odorum L.)
Kiệu (scallion) Allium bakeri Regel.
Hành hoa (hành pirô -spring
Onion)
A.fistulosum L.
Măng tây (asparagus) Asparagus officinalis L.
3- Họ ráy Araceae
Khoai môn/khoai sọ (taro) Colocasia antiquorum (L.) Schott.
Bạc hà/môn ngọt (dasheen) Alocasia odora Kocn.
4- Họ khoai (củ) Dioscoreaceae :
Khoai ngọt (yam - củ tía) Dioscorea alata L.
Khoai từ (lesser yam) Diocorea esculenta Burt.
5- Họ gừng Zingiberaceae
Gừng (ginger) Zingiber offcinale Rosc
Nghệ (turmeric) Curcuma domestica Val.

Nhóm cây 2 lá mầm (song tử diệp)
1- Họ thập tự Cruciferae juss (Brassicaceae
Burn)
Cải bắp (cabbage) Brassica oleracea L. var. capitata L.
Cải bắp nhánh (cải bixen, cải bắp
chùm)
Brassica oleracea var. gemmifera DC.
Cải xoăn B. oleracea var. acephala DC.
Cải thìa Brassica napus L. var. chinensis L.
Cải bẹ trắng B. chinensis (L.)
Cải bao (cải bẹ cuốn - chinese
cabbage)
B. pekinensis (Lour.) Rupr.
Cải canh/cải xanh B. juncea L. Czenrnj. và cosson var. juncea
Su lơ (cauliflower) Brassica oleracea var. botrytis L.
Súp lơ xanh B. oleracea var. italica Plenck
21

Cải xoong (xà lách xong -
watercress)
Nasturtium officinale (L.)
Cải củ tròn (turnip) Brassica campestris var. rapa
Cải củ (Radish) Raphanus sativus L.
Cải canh B. juncea
Su hào (kohrabis) Brassica oleracea var. caulorapa DC.
Cải ngọt (pakchoi) B. integrifolia (O. B. Schultz)
Cải làn B. oleracea var. Alboglabra
2- Họ cà Solanaceae
Cà chua (tomato) Lycopersicon esculentum Mill
Cà tím, cà trắng(eggplant) Solanum melongena L.

Cà pháo Solanum melongena L. var. Depressum Bailey
Cà bát Solanum melongena L. var. Esculentum Ness
Ớt cay (hot pepper) Capsicum annuum L. var. annuum
Ớt ngọt (sweet peper) C. frutescense L.
Khoai tây (potato) Solanum tuberosum L.
Ớt sừng trâu (quả to) C. baccatum var. Pendutum
3- Họ bầu bí Cucurbiraceae
Dưa chuột (cucumber) Cucumis sativus L.
Dưa hấu (water melon) Citrullus lanatus (Thunb) Matsum
Dưa lê (sweet melon) Cucumis melo L. var. modorus.
Dưa thơm/dưa hương/dưa lê Cucumis melo L.
Bí đỏ/bí ngô (pumkin) Cucurbita pepo L. hoặc Cucurbita moschata
(Duchesne) ex. Poiret
Bí đao (bí xanh quả dài -wax
gourd)
Benincasa hispida (Thunb.) Cogn
Bí đao (quả tròn) Benincasa hispida Coqn
Dưa gang (melon) Cucumis melo var. conomon
Bí ngồi Cucurbita maxima Duchesne var. maxima
Dưa bở Cucumis melo L. var. reticulatus Naud
Bầu (bottle gourd) Lagenaria siceraria (Molina) Stanley
Mướp (Luffa) Luffa acutangula (L.) Roxb.
Mướp đắng (khổ qua - bitter
gourd)
Momordica charantia L.
Mướp hương (long luffa) Luffa aegyptiaca Miller (syn.: Luffa cylindrica
Roem)
Mướp khía (angled luffa) Luffa acutangula (L.) Roxb.
Su su (Chayote) Sechium adule (Jacq) Sw.
4- Họ đậu Fabaceae (Leguminosae)

22

Đậu co ve leo (snapbean-
frenbean)
Phaseolus vulgaris L.
Đậu co ve lùn P. vulgaris var. humilis Alef
Đậu trạch (hạt trắng) Phaseolus liensis
Đậu Hà Lan (garden sugar pea) Pisum sativum L. subsp. sativum
Đậu đũa (yarlong bean) Vigna unguiculata subsp. sesquipedalis (L.)
Verdc.
Củ đậu (yam bean) Pachyrrhizus erosus (L.) Urban
Đậu tương rau (Soybean
vegetable)
Glycine max. (L.) Merr. (Phaseolus max. L.)
Đậu ván (hyacinth bean) Lablab purpureus (L.) Sweet
Đậu ngự (đậu vằn) Phaseolus lunatus L.
Đậu rồng (winged bean) Psophocarpus tetragonolubus L.
Đậu xanh (green bean) Vigna radiata (L.) R. Wilczek var. radiata
Đậu đen Vigna unguiculata (L.) Walp. Subsp.
unguiculata
Đậu triều Cajanus cajan (L.) Huth
5- Họ họ hoa tán Apiaceae(Umbeliferae)
Cần tây (celery) Apium graveolens L.
Cần ta /cần nước(water celery) Oenanthe stolonifera
Ngò thơm/mùi(coriander) Coriandrum sativum L
Mùi tây/ngò tây Petroselinum crispum (Miller)
Cà rốt (carrot) Daucus carota L.
Thìa là/thì là (dill) Anethum graveolen L. Dulce Mill D.C
6- Họ họ cúc Asteraceae/Compositae
Xà lách xoăn (curly lettuce) Cichorium endivia L.

Xà lách (lettuce) Lactuca sativa L.
Xà lách cuốn Lactuca sativa var. capitata
Diếp Lactuca sativa secalina Alef
Cải cúc/cúc tần ô (pyrethrum) Chrysanthemum cinerariaefolium
Atisô (Artichaud - artichoke) Helianthus tuberosus L./Cynara scholymus L.
7- Họ bìm bìm Convulvulaceae
Rau muống (water spinach) Ipomoea aquatica Forsskal
Khoai lang(sweet potato) Ipomoea bataceae (L.) Lam
Rau ngỗ lepidium sativum (Forsk)
8- Họ rau muối Chenopodiacea
Cải chân vịt (rau cơm xôi) Spinacia oleraceae L.
Củ cải đường Beta vulgaris L. subsp. vulgaris
Củ cải ăn lá Beta vulgaris subsp. cicla (L.) Koch
23

Củ cải ra đi Beta vulgaris
9- Họ rau dền Amaranthaceae
Rau giền cơm Amaranthus viridis L.
Rau giền gai A.spinosus L.
10- Họ mồng tơi Basellaceae
Mồng tơi tím (climbing spinach) Basella rubra L.
Mồng tơi xanh (malabar spinach)

Basella alba L.
11- Họ hoa môi Labiaceae
Húng quế (basil) Ocium basilicum L.
Húng cay (mint) Metha arvensis.
Húng lủi (japanese mint) Metha arvensis var. piperaseens.
Tía tô Perilla frutescens var. Cripa
Kinh giới Elsholtzia erislata (Willd)

12- Họ bông Malvaceae
Đậu bắp (okra) Hibiscus esculentus L.
13- Họ đay Tiliaceae
Rau đay Corchrus olitorius L.
14- Họ nghễ Polygonaceae
Rau răm Polygonum odoratum (Lour)

2. PHÂN LOẠI DỰA VÀO BỘ PHẬN SỬ DỤNG (PHẦN ĂN ĐƯỢC)
Phương pháp này là căn cứ vào những cây rau có bộ phận sử dụng làm thực
phẩm giống nhau thì được xếp cùng một loại. Các loại rau thông thường được xếp
thành 6 loại (nhóm) chính:
- Rau ăn lá (leaf vegetable): cải bắp, cải bao, cải bách khẩu, cải bixen, rau dền,
cơm xôi, xà lách, diếp
- Rau ăn quả: Cà chua, cà, dưa chuột, bí đỏ, bí xanh, bầu, mướp, đậu cô ve, đậu
trạch, đậu rồng, đậu Hà Lan, su su, đậu cô bơ, dưa hấu, dưa bở, dưa gang, dưa lê, đu
đủ
- Rau ăn củ:
+ Rau cho rễ củ (root crops): cà rốt, củ cải trắng, củ dền, củ đậu.
+ Rau cho thân củ (tuber, bulb, shoot): su hào, hành, tỏi, khoai tây, măng
tây.
- Rau ăn nụ, hoa: súp lơ, atisô, hoa thiên lý
- Rau gia vị: ớt, hành, tỏi, mùi (ngò), nghệ, gừng, hành tây
- Nấm (mushroom): nấm rơm, nấm mộc nhĩ (mèo), nấm sò, nấm hương
Qua các bộ phận có thể thấy rõ về mối quan hệ hình thái giữa chúng. Những cây có bộ
phận sử dụng giống nhau thì thường có kỹ thuật trồng giống nhau, có giá trị cho mục
đích trồng trọt, nhưng trong thực tiễn phân loại này chưa nói lên được yêu cầu dinh
24

dưỡng, phương pháp gieo trồng, mùa vụ và các đặc điểm nông sinh học khác nhau
của các loại rau.


3. PHÂN LOẠI DỰA VÀO PHƯƠNG THỨC CANH TÁC VÀ ĐẶC TÍNH SINH
VẬT HỌC CÂY RAU
Phương pháp phân loại này là dựa vào đặc tính sinh vật học của cây rau và
điều kiện
trồng trọt để phân loại. Các cây trồng cùng một nhóm có phương thức canh tác nói
chung là giống nhau và bị ảnh hưởng bởi những loaị sâu và bệnh hại tương tự . Vì vậy
nhà nông học Xô Viết V.I. Edelstein đề nghị hệ thống phân loại tổng hợp như sau:
1- Rau ăn rễ củ (root crops): cà rốt, củ cải trắng, củ dền.
2- Rau ăn thân củ (tuber crops): khoai tây, khoai lang.
3- Rau ăn lá ngắn ngày (salad crops): xà lách, cơm xôi, dền, thì là, cải ngọt, cải
xanh, cải cúc, cần tây.
4- Rau họ cải (cole crops): cải bắp, cải bông, cải bixen, su hào.
5- Rau họ hành tỏi (bulb crops): tỏi, hành tây, hành pirô.
6- Rau họ đậu (pulses): đậu đũa, đậu cô ve, đậu Hà Lan, đậu ván, đậu rồng.
7- Rau họ cà (Solanaceous crops): cà tím, ớt, cà chua.
8- Rau bầu bí (Cucurbits): bầu, bí, dưa leo, dưa hấu, dưa gang.
9- Rau lâu năm (perennial crops): măng tây, măng tre, atisô.
10- Rau thuỷ sinh: Củ ấu, ngó sen, rau muống.
11- Nấm (mushroom): nấm rơm, nấm mộc nhĩ (nấm mèo), nấm sò.
Phương pháp phân loại này hoàn thiện hơn cả, đáp ứng được yêu cầu sản xuất, thể hiện
ưu điểm là vừa hiểu được đặc điểm sinh vật học và biện pháp kỹ thuật canh tác thích
hợp với tùng loại rau.

4. PHÂN LOẠI DỰA VÀO NGUỒN GỐC
4.1. Nguồn gốc nhiệt đới
Rau có nguồn gốc nhiệt đới là những loại rau có đặc điểm chung là ưa khí hậu
ấm áp, khô ráo, ánh sáng đầy đủ, hoặc ưa nóng ẩm, không chịu được rét (thuộc khí hậu
lục địa và nhiệt đới biển). Những loại rau này chủ yếu có nguồn gốc ở châu Mỹ (vùng
Nam Mỹ, Trung Mỹ và nam Mêhicô), Ấn Độ (Nam châu Á), miền trung châu Phi,

quần đảo Indonesia.
Nhóm này gọi là nhóm rau mùa nóng gồm các loại rau sống trong trong điều
kiện mùa Hè ở nước ta như các loại rau trong họ bầu bí, cà, đậu đũa, dưa hấu, dưa bở,
mướp, bầu, rau muống, mồng tơi, rau ngót, đậu bắp



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×