TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN
BÀI GIẢNG
CÂY THỨC ĂN GIA SÚC
Người biên soạn: PGS.TS Lê Văn An
Huế, 08/2009
0
TS. LÊ VĂN AN
BÀI GIẢNG
CÂY THỨC ĂN GIA SÚC
(Dùng cho lớp Dự án NUFFIC)
NĂM 2008
1
Bài 1: CÁC KHÁI NIỆM VỀ CÂY THỨC ĂN GIA SÚC
I. Những khái niệm về cây thức ăn gia súc
Cây thức ăn gia súc, còn gọi là cây thức ăn xanh là nguồn thức ăn quan trọng nhất
cho nghề chăn nuôi gia súc có sừng, đặc biệt là chăn nuôi trâu bò. Cỏ không những là
nguồn thức ăn cung cấp cho gia súc với chất lượng tốt, rẻ tiền, phù hợp với điều kiện môi
trường sinh thái khác nhau ở nhiều vùng khác nhau, mà cỏ còn có tác dụng khác như bảo
vệ đất, chống xói mòn, làm phân xanh, đồng cỏ còn là nơi cung cấp một số vật liệu thiết
yếu cho con người trong sinh hoạt như tranh lợp nhà, cỏ trồng ở các công viên, sân bóng
đá, một số còn sử dụng để làm thuốc.
Shantz (1954) dự đoán rằng diện tích trồng cỏ trên thế giới khoảng 46 triệu km
2
,
chiếm 24% diện tích thực vật trên trái đất. Hầu hết nằm trong khoảng 55
0
Bắc đến 40
0
Nam, vùng nhiệt đới trong khoảng 28
0
Bắc đến 30
0
Nam (Thomas 1978).
Đồng cỏ nhiệt đới chiếm khoảng 4,5 triệu hec ta là đất dùng để chăn thả (L’t
Mannetje 1978). Với những điều kiện tự nhiên và biện pháp trong sử dụng mà thành phần
thảm thực vật và các cây lớn ở trên đồng cỏ nhiệt đới đang mất dần làm cho tính sa mạc
hóa ngày càng tăng.
Hiện nay chưa có một định nghĩa thỏa đáng cho danh từ đồng cỏ. Tùy theo mỗi
vùng khác nhau với những điều kiện tự nhiên khác nhau mà xác định danh từ đồng cỏ. Ở
một số nước cho rằng đồng cỏ là vùng đất rộng lớn, không dùng cho việc trồng trọt mà
chỉ dùng cho việc sinh trưởng, phát triển của những cây cỏ để làm thức ăn cho gia súc. Ở
một số nước khác đồng cỏ là những vùng đất không có cây to, không dùng để trồng trọt
mà dùng cho việc chăn nuôi gia súc,… Như vậy tùy theo tình hình phát triển trong chăn
nuôi gia súc cũng như tiềm năng về diện tích đất đai mà khái niệm đồng cỏ là một vùng
đất rộng lớn ở đó có những quần thể thực vật sinh sống dùng để làm thức ăn cho gia súc.
Với những vùng diện tích rộng lớn ở vùng núi và ở đồng bằng dùng cho chăn thả
gia súc một cách tự nhiên thì gọi là bãi chăn, những vùng đồng cỏ có sự quan tâm của con
người về mặt chăm sóc, sử dụng gọi là đồng cỏ.
Ở Việt Nam theo Giáo sư Trịnh Văn Thịnh (1974) đề nghị danh từ đồng cỏ để chỉ
những diện tích đồng cỏ có sự tác động của con người vào việc phát triển cây cỏ để làm
thức ăn cho gia súc (vĩnh viễn hay tạm thời); còn những vùng đồng cỏ tự nhiên thì được
gọi là bãi chăn. Đồng cỏ tạm thời là những vùng đông cỏ có thời hạn sử dụng ngắn,
thường từ 2 đến 3 năm sau đó chuyển qua trồng cây khác. Đồng cỏ vĩnh viễn là đồng cỏ
có thời hạn sử dụng dài. Mục đích chính của việc sản xuất ở vùng này là dùng cho việc
cung cấp thức ăn cho gia súc.
II. Phân loại đồng cỏ
2
Căn cứ theo nguồn gốc
Đồng cỏ tự nhiên là nhũng vùng đồng cỏ mà thành phần thảm thực vật ở đó chủ
yếu là cây cỏ được sinh trưởng một cách tự nhiên. Hầu hết diện tích đồng cỏ này được sử
dụng vào mục đích chăn thả gia súc. Thông thường năng suất và giá trị dinh dưỡng của
đồng cỏ thấp do đồng cỏ bị chăn thả không hợp lý và thành phần thảm thực vật không cân
đối, chủ yếu là cỏ hòa thảo và những cây có thể tồn tại được trong những điều kiện khắc
nghiệt của tự nhiên.
Đồng cỏ nhân tạo có thể cung cấp lượng cỏ với số lượng nhiều và chất lượng cao
hơn, nhất là những vùng đồng bằng cỏ nhân tạo được trồng hỗn hợp giữa cỏ hòa thảo và
bộ đậu. Do có sự chăm sóc và quản lý trong chăn thả và thu hoạch, vì vậy đồng cỏ nhân
tạo thường ổn định hơn về năng suất. Vùng nhiệt đới do có sự khác biệt giữa hai mùa nên
thường làm cho sự sinh trưởng của cây cỏ cũng thay đổi. Hiện nay, điều hạn chế nhất cho
việc phát triển các đồng cỏ nhân tạo đó là chi phí ban đầu lớn, nhất là chi phí cho chế độ
tưới tiêu và cải tạo thảm thực vật.
Theo vùng địa lý
Đồng cỏ được chia làm 2 vùng rõ rệt:
- Vùng nhiệt đới nằm trong khoảng 23
0
27’ Bắc – Nam. Đặc điểm chủ yếu của
vùng đồng cỏ này là phong phú về thành phần thảm thực vật, trong đó chủ yếu là loài cỏ
thuộc họ hòa thảo. Đất đồng cỏ nhiệt đới thường nghèo dinh dưỡng, đất chua. Với đặc
điểm này đã hạn chế sự sinh trưởng và phát triển của vi khuẩn Rhizobium, một loại cộng
sinh ở rễ cây họ đậu. Vùng nhiệt đới còn nhận một lượng năng lượng từ ánh sáng mặt trời
làm cho quá trình bay hơi nước nhanh, đồng cỏ thường thiếu nước trong mùa khô cho cả
cây cỏ và gia súc. Sự biến đổi về điều kiện tự nhiên khác biệt nhau giữa các mùa đã làm
cho năng suất cây cỏ thường không ổn định trong năm.
- Vùng ôn đới nằm trong 23
0
27’ đến 66
0
33’ Bắc – Nam. Đồng cỏ ở vùng này có
năng suất cao và giá trị dinh dưỡng tốt hơn, cây cỏ mềm hơn và gia súc thích ăn hơn so
với ở nhiệt đới. Tuy nhiên đồng cỏ ôn đới cũng gặp nhiều khó khăn đặc biệt là trong
những tháng mùa đông, vào thời gian này hầu hết gia súc được nhốt tại chuồng và cho ăn
thức ăn dự trữ.
Vùng nhiệt đới chiếm 1/4 diện tích đất đai và 2/5 diện tích bề mặt của quả đất.
Vùng nhiệt đới nhận 1/2 lượng mưa và chiếm 1/3 dân số thế giới (Crowder & Chheda,
1982). Khoảng 1/2 diện tích đồng cỏ chăn thả nằm ở vùng nhiệt đới bao gồm nhiều loại
địa hình và điều kiện khí hậu khác nhau. Khoảng 1/3 số lượng đàn gia súc nằm ở vùng
sinh thái nhiệt đới. Khoảng 1/3 sản lượng thịt bò và 1/6 sản lượng sữa trên thế giới được
sản xuất ở vùng này.
Theo năm sử dụng
3
Đồng cỏ thường có hai loại hình đồng cỏ; loại hình đồng cỏ sử dụng lâu dài và loại
hình sử dụng có thời hạn. Những vùng đồng cỏ thời gian sử dụng ngắn thường là những
vùng diện tích đất canh tác không dùng cho việc sản xuất cỏ mà được sử dụng cho mục
đích canh tác khác. Trong thời gian đầu để cải tạo đất người ta thường trồng một số loại
cây thức ăn cho gia súc vừa có tác dụng cải tạo đất vừa dùng để chăn nuôi gia súc, hoặc
một số vùng có thể vừa xen kẽ việc trồng cây ăn quả, cây công nghiệp hay cây lương thực
vừa xen kẽ chăn thả gia súc.
Đồng cỏ sử dụng lâu dài là đồng cỏ được quy hoạch cho việc chăn thả gia súc hay
cho mục đích sản xuất cây thức ăn cho gia súc trong thời gian dài. Tùy theo mức độ thâm
canh trong chăn nuôi mà những vùng đồng cỏ này được thâm canh đầu tư hay dựa vào
điều kiện tự nhiên.
Theo độ dốc
Đồng cỏ có thể chia ra làm nhiều loại. Đồng cỏ bằng phẳng thông thường tập trung
ở những vùng mà độ dốc không vượt quá 8
0
. Thông thường loại hình đồng cỏ này tập
trung ở vùng đồng bằng, ven sông suối. Loại hình đồng cỏ dốc theo kiểu đồi bát úp (độ
dốc trong khoảng 8 – 15
0
). Loại hình đồng cỏ này tập trung chủ yếu ở vùng trung du và
rất phổ biến hiện nay trong các đồng cỏ chăn thả ở Việt Nam và nhiều nước nhiệt đới
khác. Thông thường vùng đất này rất khó khăn trong việc thủy lợi và cung cấp nước cho
cây trồng. Việc trồng trọt không tiến hành được và hầu hết diện tích dùng để cho cỏ mọc
phục vụ cho chăn nuôi. Loại hình đồng cỏ khác tập trung ở núi cao có độ dốc cao hơn 15
0
,
việc chăn nuôi gia súc ở loại hình đồng cỏ này chỉ có thể áp dụng cho chăn nuôi dê, bò
địa phương.
III. Tình hình và lịch sử phát triển đồng cỏ và cây thức ăn gia súc
1. Sơ lược lịch sử khoa học và lĩnh vực nghiên cứu đồng cỏ
Trên thế giới môn khoa học này đã phát triển từ lâu đời. Năm 1613 R. Weston đưa
cây họ đậu vào để cải tiến đồng cỏ, nhưng mãi đến năm 1938 Lawes và Gilbert mới phát
hiện ra tác dụng của việc cải tiến này là nhờ đậu đã tăng N cho đất. Năm 1887 M. Ward
chứng minh nốt sần ở rễ chỉ tạo ra khi có vi khuẩn và một năm sau 1888 Beijerinck phân
lập được vi khuẩn này và đặt tên là Rhizobium.
Tuy từ 1816 Sinclair đã tính năng suất cây thức ăn trên luống nhưng nói chung thì
tài liệu thế kỷ 19 ít cho ý kiến về vấn đề này (Davies, 1959). Fream (1888) và Carruthers
(1890) đã đi sâu và nghiên cứu tính năng suất đồng cỏ.
Sau công trình nghiên cứu của Staphedon (1933) việc nghiên cứu đồng cỏ có bước
tiến rất quan trọng. Davies và cộng sự (1933) đã đưa ra phương pháp phân loại cỏ theo %
trọng lượng, % diện tích và % cây hay khóm cây. Levy và Madden (1933) đề xuất
phương pháp dùng khung vuông ngay tại ruộng để tính thành phần thực vật.
4
Fagan và Jones (1924); Woodmam (1928) v.v đã chú ý tới thành phần hóa học và
coi đạm là một chỉ tiêu quan trọng. Sau này Lancaster (1949); Raymond (1954); Mimson
(1959) v.v đánh giá khả năng tiêu hóa để xác định phẩm chất cỏ.
Hướng nghiên cứu chuyển biến lớn khi các nhà khoa học biết đánh giá đồng cỏ
qua sản phẩm gia súc thu được, nói chung trước năm 1950 ít có tài liệu nghiên cứu về
năng suất gia súc nhai lại trên đồng cỏ. Hiện nay chỉ tiêu sữa và thành phần sữa đóng vai
trò quan trọng trong nghiên cứu đồng cỏ.
Lai tạo giống là một trong các chủ đề quan trọng đã được rất nhiều nhà khoa học
nghiên cứu. G. Burton (Mỹ) đã lai tạo thành công các giống cỏ có giá trị như chủng CV.
Coastal (1943), Midland (1950), Suwannee (1962) và đặc biệt là Coastcross (1967).
Việc nghiên cứu sử dụng đồng cỏ đã được chú ý, những khái niệm cơ bản về chế
độ chăn thả gia súc lần lượt đã được ra đời. Chế độ chăn thả luân phiên đã mang lại hiệu
quả lớn trong việc làm tăng năng suất chăn nuôi. Nhà bác học A. Voisin người Pháp đã có
nhiều đóng góp cho ngành khoa học nghiên cứu đồng cỏ. Các hội nghị quốc tế về đồng cỏ
cũng thường được tổ chức theo định kỳ.
Trước đây một phần lớn các công trình nghiên cứu về thức ăn gia súc đề cập tới
khẩu phần thức ăn, nhất là việc sử dụng thức ăn tinh. Trong vòng mấy chục năm lại đây
người ta đã chú ý đến nguồn thức ăn rất phong phú đó là: Đồng cỏ. Lĩnh vực nghiên cứu
của môn khoa học này rất phức tạp và rất rộng, vì nó bao gồm kết hợp cả hai đối tượng
sống đó là cây cỏ và con gia súc, bắt đầu từ sự nảy mầm của hạt đến quá trình đồng hóa
của gia súc để tạo nên sản phẩm cuối cùng, Davies (1959) đã khẳng định việc xác định
thành phần hóa học của cây cỏ chỉ là nghiên cứu cơ học mà thôi, những nghiên cứu này
có giá trị so sánh các loài cỏ với nhau nhưng không giải đáp được thỏa đáng giá trị thức
ăn gia súc của loài cỏ. Những nghiên cứu trên gia súc để đánh giá cây thức ăn qua năng
suất và sản phẩm thu được là rất quan trọng.
Khoa học nghiên cứu đồng cỏ có liên quan mật thiết với nhiều môn khoa học khác
như: Thức ăn và dinh dưỡng gia súc; sinh lý động vật; sinh hóa động vật; ký sinh trùng,…
trong Chăn nuôi thú y; sinh lý thực vật; sinh hóa động vật; sinh thái, nông hóa thổ
nhưỡng; cơ khí công nghiệp, bảo vệ môi trường,…
Hướng nghiên cứu ngày càng đi vào chiều sâu. Một số nghiên cứu gẩn đây cho
rằng đặt chăn nuôi trong một hệ thống hợp lý có tính liên quan đến nhiều chuyên nghành
khoa học khác. Khai thác nguồn tài nguyên sẵn có ở địa phương được chú trọng trong xu
hướng phát triển chăn nuôi bền vững. Phát triển ngày càng gắn liền với bảo vệ tài nguyên
môi trường. Thuốc trừ sâu hóa học và các chất hóa học cũng ngày càng hạn chế trong sử
dụng. Một số nước có nền kinh tế phát triển các sản phẩm phi hóa học đang khuyến khích
sản xuất và bán được giá cả cao.
2. Tình hình phát triển đồng cỏ
5
Để đẩy mạnh chăn nuôi thì một trong những vấn đề cần giải quyết đó là thức ăn.
Có hai hệ thống nuôi dinh dưỡng chính: Dựa vào thức ăn tinh là chính (trên 40% nhu cầu
dinh dưỡng thõa mãn thức ăn tinh); Dựa vào thức ăn thô là chính (trên 60% nhu cầu dinh
dưỡng). Hệ thống dựa vào thức ăn thô là chính tập trung ở những nước có điều kiện phát
triển đồng cỏ. Ở những nước này việc sử dụng đồng cỏ không chỉ để chăn thả mà còn
cung cấp thức ăn xanh và dự trữ cho gia súc trong thời gian gia súc không chăn thả. Ở Úc,
Newzerland sản phẩm chăn nuôi dựa vào đồng cỏ chiếm một vị trí quan trọng.
Sau cuộc “cách mạng về thức ăn gia súc” các nước Tây Âu mà đặc biệt là ở Anh,
Hà Lan đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng được chú ý
và sử dụng đúng với vai trò của nó.
Bảng 1.1. Diện tích đồng cỏ ở một số nước
Diện tích (nghìn ha) Nước
Canh tác (a) Đồng cỏ (b) Tỷ lệ (b/a)
Tác giả
Đan Mạch 2.710 543 20 Điền Văn Hưng
Na Uy 849 476 56 “
Thụy Điển 3.293 1.315 40 “
Phần lan 2.717 1.338 49 “
Pháp - - 36 “
Anh - - 40,7 “
Hà Lan - - 60 Nguyễn Danh Kỷ
Mỹ - - 59 “
Canađa - - 25 “
Úc - - 50 Đào Thế Tuấn
Ở các nước nhiệt đới khả năng phát triển đồng cỏ cũng rất lớn nếu được sử dụng
một cách hợp lý (Mcilroy, 1972). Nếu như ở nước ôn đới đồng cỏ được quan tâm từ lâu
thì ở nhiệt đới nhận thức về vấn đề này còn mới. Người ta ước tính rằng ở nhiệt đới chỉ
cần cải tiến cách chăn thả gia súc trên đồng cỏ là có thể tăng năng suất bò sữa lên 30% và
trâu sữa 15%. Điều trên một phần giải thích tại sao các công trình nghiên cứu đồng cỏ
nhiệt đới chưa hoàn chỉnh, mới chỉ giai đoạn ban đầu. Trong những năm gần đây chăn
nuôi ở các nước nhiệt đới ngày càng phát triển, xu hướng nghiên cứu cải tiến đồng cỏ
6
cũng đã được chú ý đến. Một số nước trong vùng nhiệt đới bước đầu đã mang lại kết quả
trong việc nghiên cứu phát triển đồng cỏ.
Ở Việt Nam đã có nhiều chính sách và đầu tư thích đáng cho việc phát triển chăn
nuôi gia súc nhai lại cũng như nghiên cứu phát triển về đồng cỏ. Từ những năm 1960
chúng ta đã bắt đầu xây dụng các nông trường chăn nuôi bò sữa và xây dựng hệ thống
đồng cỏ. Nhiều giống cỏ trồng đã được nhập nội và trồng ở nhiều nơi trong nước. Với
chương trình nâng cấp giống đàn bò địa phương, với việc đầu tư xây dựng một số trung
tâm sản xuất sữa ở một số tỉnh và Thành phố, với nhu cầu giải quyết nguồn thức ăn hiện
nay trong chăn nuôi đã bước đầu tạo tiền đề cho những hoạt động nghiên cứu phát triển
đồng cỏ.
IV. Giá trị nông nghiệp của cây thức ăn gia súc
1. Làm thức ăn gia súc.
Gia súc có khả năng sử dụng cỏ làm thức ăn.
Sử dụng cỏ làm thức ăn cho các loài nhai lại là tận dụng một cách hợp lý khả năng
tiêu hóa của chúng. Ngay cả lợn và gia cầm trong khẩu phần ăn cũng cần đến một lượng
cỏ nhất định giúp cho việc tiêu hóa được tốt hơn. Gia súc và gia cầm cũng có khả năng
tiêu hóa xơ.
Bảng 1.2. Tỷ lệ tiêu hóa xơ ở một số loài gia súc (Alberta và cộng sự, 1972)
Loài Nơi tiêu hóa % tiêu hóa của xơ
Nhai lại
Ngựa
Lợn
Thỏ
Chuột
Chó
Gia cầm
Dạ dày
Đại tràng
“
“
“
“
“
50 – 90
13 – 40
3 – 25
65 – 78
34 – 46
10 – 30
20 – 30
Khả năng phát triển đồng cỏ ở các nước nhiệt đới:
Ở các nước nhiệt đới khí hậu tạo điều kiện cho cây cỏ phát triển. Nếu như ở ôn đới
ẩm mỗi năm thu hoạch được 11,000kg vật chất khô/ha thì ở nhiệt đới lượng vật chất khô
thu được 2 lần: 22,400kg/ha (Mcilroy, 1972). Những thảm cỏ tự nhiên nếu được cải tạo
và chăm sóc thích hợp có thể sử dụng tốt để giải quyết thức ăn xanh cho trâu bò.
Ở nước ta bãi cỏ tự nhiên phân bố hầu khắp các vùng, đặc biệt là vùng trung du và
miền núi, diện tích đồng cỏ có khả năng khai thác còn nhiều. Tuy nhiên cần hiểu rằng với
7
điều kiện nhiệt đới và sự khác biệt giữa 2 mùa làm cho cây cỏ tự nhiên có giá trị dinh
dưỡng cao và gia súc thích ăn thường bị giảm dần. Xu hướng cây cỏ dại và cây quán mộc
phát triển ngày càng nhiều. Một số diện tích đồng cỏ hiện nay ở một số nơi bị thu hẹp lại
do việc trồng rừng. Với những rừng bạch đàn làm cho đất đai trở nên khô và thành phần
thảm thực vật trở nên nghèo hơn.
Hiện nay ở các nước nhiệt đới vấn đề quản lý đồng cỏ trong chăn thả và sử dụng sẽ
mang lại hiệu quả trong việc khai thác đồng cỏ.
Đồng cỏ là nguồn thức ăn rẻ tiền.
Đồng cỏ là nơi sản xuất thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm giá thành trong sản
xuất. Năng suất cỏ cao và chi phí ít hơn so với việc sản xuất các loại thức ăn khác.
Bảng 1.3. Chi phí và sản phẩm thu được của cỏ so với các cây thức ăn gia súc khác
Loại cây Năng suất (tạ/ha) Đơn vị thức ăn
(tạ/ha)
Chi phí công/1
đơn vị thức ăn
Cây hạt cốc
Khoai tây
Củ cải đường
Cây Ngô
Cỏ trồng
30
250
300
500
600
35.0
71.1
97.7
90.0
100.0
0.9
2.4
3.9
0.6
0.2
Theo Mcolroy (1972) cỏ chăn thả là nguồn thức ăn rẻ tiền nhất. Đặc biệt cỏ khi
được phơi khô hay ủ xanh thì giá trị làm thức ăn lớn hơn nhiều so với những cây khác.
Cỏ trồng có giá trị dinh dưỡng cao và toàn diện
Cỏ trồng có giá trị dinh dưỡng cao đảm bảo nhu cầu phần lớn protein,
cacbonhydrat, khoáng, mỡ, carotene, vi lượng,… nếu được chăm sóc và sử dụng đúng.
Bảng 1.4. Giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ (%)
Loài cỏ Nước Protein Mỡ Cacbon
-hydrat
Xơ Tro
Bermuda 50 ngày
Coastcross 40 ngày
Pangola 45 ngày
Lông Para 45 ngày
61,06
75,33
74,75
61,50
2,92
12,85
2,25
2,66
0,57
2,80
0,56
0,74
19,08
-
11,72
20,35
14,54
25,50
8,93
14,77
1,83
9,00
1,80
2,98
8
Guine 45 ngày
Ngô non
Cỏ Mộc châu
Guatemala
Sudan
Voi
Kudzu nhiệt đới
Stylo
Glycin
Cỏ tự nhiên
66,27
79,30
62,00
80,95
72,40
78,10
69,40
89,33
78,75
74,90
1,89
1,80
0,95
1,75
3,30
1,40
5,50
13,60
16-18,0
3,80
0,65
0,50
0,68
2,40
0,60
0,30
1,00
1,90
2,00
0,80
15,63
12,20
-
-
11,20
8,90
13,60
33,78
33,00
11,50
12,12
5,00
3,40
4,50
5,60
9,00
8,30
26,13
-
6,50
3,44
1,20
-
-
1,90
2,60
2,20
7,39
1,50
2,50
Cỏ hòa thảo quan trọng không những vì nó phân bố rộng rãi chiếm một tỉ lệ lớn
trong đồng cỏ mà còn có giá trị dinh dưỡng cao, đặc biệt là cung cấp nguồn cacbonhydrat.
Cây họ đậu tuy chiếm một tỉ lệ ít hơn so với cỏ hòa thảo nhưng có vai trò quan trọng vì
giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng protein và các khoáng thích hợp. Ở bãi cỏ tự nhiên
với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì 1kg cỏ tươi cung cấp được 16g protein, 32g lipit, 8kg cỏ
tươi ở loại này tương đương với 1 đơn vị thức ăn (Trịnh Văn Thịnh, 1974).
Những hạn chế của cỏ nhiệt đới:
1) Về thành phần hóa học
- Tỷ lệ nước của cỏ ôn đới cao hơn cỏ nhiệt đới, cỏ nhiệt đới khô và cứng
- Lượng protein thô: protein là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng của cỏ. Lượng
protein của cỏ nhiệt đới thấp hơn cỏ ôn đới (Franck, 1957); Moir, 1965 và Mcilroy,
1972). Ở cỏ nhiệt đới trong khoảng 14-16% sau đó giảm nhanh xuống chỉ còn 3%
(McDowell, 1972) trong khi đó cỏ ôn đới 22% và thay đổi trong khoảng 16-28%.
- Xơ: Tỷ lệ xơ ở cỏ nhiệt đới cao hơn nhiều so với cỏ ôn đới. Theo Mcillroy lượng xơ
trung bình của cỏ ôn đới là 17% biến động trong khoảng 14-19%, trong khi đó cỏ nhiệt
đới 31% và biến động trong khoảng 22-40%. Xơ gồm 3 thành phần là: Xelluloz,
hemixelluloz và lignin, trong đó hemixelluloz có độ tiêu hóa cao hơn cả rồi đến xelluloz,
còn lignin hầu như không tiêu hóa. Ở cỏ nhiệt đới khi nhiệt độ môi trường càng tăng thì
quá trình lignin hóa xẩy ra càng nhanh, làm giảm lượng hydratcacbon.
- Khoáng: Ở nhiệt đới nếu gia súc chỉ gặm cỏ trên đồng cỏ thì sẽ có hiện tượng thiếu
khoáng. Đất nhiệt đới nghèo phốt pho và chỉ đáp ứng được nhu cầu của gia súc 1/7-1/10.
Mặt khác Ca ở đất nhiệt đới cũng thiếu. Ngoài ra một số nguyên tố khoáng khác rất cần
thiết cho gia súc thường thiếu và không cân đối ở cỏ nhiệt đới.
9
- Vitamin: Sự thiếu vitamin nói chung ít thể hiện. Đối với gia súc nhai lại trưởng thành
nhờ khả năng tổng hợp một số vitamin nên chỉ cần chú ý đến vitamin A, D và E. Theo
McDowell chỉ có vitamin A là thiếu còn vitamin D, E thì không thiếu.
2) Lượng cỏ ăn tự do:
- Lượng cỏ ăn tự do là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng thức ăn. Nói chung thức ăn tiêu
hóa càng nhanh thì khả năng ăn được càng nhiều. Cỏ ôn đới lượng ăn được của gia súc
nhiều hơn cỏ nhiệt đới. Giữa các loài cỏ khác nhau thì lượng ăn được của gia súc cũng
khác nhau.
- Lượng ăn tự do có thể bị ảnh hưởng bởi lượng nước cùng sử dụng. Chế độ bón phân
cũng ảnh hưởng đến lượng ăn của gia súc, đặc biệt là sự thiếu các nguyên tố khoáng.
3) Tỷ lệ tiêu hóa
Cỏ nhiệt đới non có tỷ lệ tiêu hoá tương đương với cỏ ôn đới (>60%). Theo Mclead
(1970) cho biết cỏ hòa thảo nhiệt đới có tỷ lệ tiêu hóa thấp hơn cỏ ôn đới khoảng 12,5%.
Các cây họ đậu không thể hiện sự khác nhau này (Mcilroy, 1972). Độ tiêu hóa của cỏ
giảm theo lứa tuổi. Cỏ hòa thảo giảm nhanh độ tiêu hóa hơn cỏ đậu. Chế độ chăm sóc và
phân bón cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêu hóa của cỏ.
2. Những giá trị nông nghiệp khác
Cỏ trồng ngoài tác dụng làm thức ăn cho gia súc còn có thể sử dụng vào nhiều mục đích
khác:
- Giữ đất, chống xói mòn: Một trong những nguy cơ cho việc canh tác trên những vùng
đất dốc ở nhiệt đới đó là sự xói mòn. Sự xói mòn dẫn đến đất đai nghèo dinh dưỡng và
thậm chí không thể tiếp tục canh tác được. Một số cây cỏ có thể trồng che phủ đất chống
xói mòn. Một số cây khác có thể sử dụng trồng trên các đường đồng mức. Do có tốc độ
sinh trưởng nhanh và bộ rễ ăn sâu và lan tỏa nên cỏ có thể trồng trên các vành đai chống
xói mòn rất tốt, đồng thời cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Một số cây đậu được thu
cắt dùng che phủ đất.
- Làm phân xanh: Một số cây cỏ, đặc biệt là cỏ bộ đậu có thể sử dụng làm phân xanh. Do
đặc tính sinh trưởng nhanh và năng suất sinh học cao nên cỏ tạo ra nguồn phân xanh cung
cấp cho việc canh tác đất rất tốt.
- Trồng luân canh cải tạo đất: Cỏ còn có tác dụng cải tạo đất , những vùng đất mới khai
phá ban đầu thường đem sử dụng trồng cỏ đặc biệt là cây bộ đậu để cải tạo đất. Trong kỹ
thuật canh tác cỏ còn tham gia vào luân canh cây trồng để vừa tận dụng đất sản xuất thức
ăn vừa làm cân đối chất dinh dưỡng trong đất.
Bài 2. ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG CỦA CÂY THỨC ĂN GIA SÚC
10
Trong nghiên cứu đồng cỏ cây cỏ phải là vấn đề đầu tiên được đề cập tới, trong đó
đặc điểm sinh trưởng của chúng là một vấn đề quan trọng giúp ta hiểu về đồng cỏ và biết
sử dụng thích hợp vào mục đích chính là làm thức ăn cho gia súc.
I. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của cây cỏ
1. Sinh trưởng, phát triển và mối quan hệ
Sinh trưởng và phát triển không phải là một chức năng sinh lý riêng biệt mà là kết
quả hoạt động của nhiều chức năng trong quá trình sống của cây.
Sinh trưởng là qúa trình tạo mới các yếu tố cấu trúc của cây như thành phần mới
của tế bào, tế bào mới, cơ quan mới… và thường dẫn đến sự tăng về kích thước và sinh
chất của cây. Chúng ta không nên quan niệm rằng sinh trưởng là sự biến đổi về lượng một
cách đơn thuần, vì không phải bao giờ sinh trưởng cũng đều dẫn đến biến đổi về kích
thước và trọng lượng.
Phát triển ở cây cỏ là tiến trình làm thay đổi giai đoạn sinh trưởng này sang giai
đoạn sinh trưởng khác. Phát triển là quá trình của những biến đổi về chất cần thiết xẩy ra
trong tế bào và quá trình hình thành cơ quan mà cây phải trải qua kể từ khi tế bào trứng
thụ tinh xong cho đến khi hình thành lại một hay nhiều lần tế bào sinh sản mới. Cho nên
ta cũng không nên quan niệm sự phát triển chỉ là quá trình dẫn đến ra hoa và kết quả đơn
thuần.
Mối quan hệ giữa sinh trưởng và phát triển: Giữa sinh trưởng và phát triển của
thực vật có mối quan hệ rất mật thiết, đây là hai mặt của một quá trình biến đổi phức tạp
trong cơ thể, nó có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau và không thể tách rời nhau được. Sinh
trưởng là tạo mới các yếu tố cấu trúc, là tiền đề cho sự phát triển vì có sinh trưởng mới
phát triển.
Ngược lại, phát triển là sự biến đổi về chất quá trình tạo mới đó nó thúc đẩy sự
sinh trưởng. Tuy vậy, giữa sinh trưởng và phát triển không phải là đồng nhất, các điều
kiện ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển không phải lúc nào cũng giống nhau. Thông
thường chúng ta gặp những trường hợp sau:
- Khi cây sinh trưởng nhanh thì quá trình phát triển nhanh: cây lớn nhanh và chóng ra hoa
kết quả
- Khi cây sinh trưởng chậm thì phát triển cũng chậm: cây chậm lớn, chậm ra hoa kết quả
- Cây sinh trưởng nhanh nhưng phát triển chậm: Cây lớn nhanh nhưng chậm ra hoa kết
quả
- Cây sinh trưởng chậm nhưng phát triển nhanh: cây chậm lớn nhưng chóng ra hoa kết
quả
11
Căn cứ vào các đặc tính trên mà trong nghiên cứu đồng cỏ chúng ta có thể tạo ra
những điều kiện môi trường khác nhau để tác động vào từng giai đoạn sinh trưởng của
cây và tạo ra hướng sử dụng cho phù hợp. Để thu hoạch thức ăn xanh cho gia súc cần tác
động cho quá trình sinh trưởng của cây nhanh và kéo dài, làm cho cây lâu già, lâu xơ hóa,
nhưng trong công tác giống thì phải tạo ra sự sinh trưởng và phát triển hài hòa để hạt
giống thu được mang đầy đủ những nét ưu điểm của giống .
Sinh trưởng của cây cỏ thể hiện trên nhiều hình thức. Sau đây chúng ta chỉ xét đến
một số hình thức sinh trưởng chính liên quan đến việc làm thức ăn cho gia súc.
(*) Tham khảo: Theo L.V. Crơder & H.R. Chheda (1982) cỏ có 5 giai đoạn sinh
trưởng được xác định như sau:
1- Giai đoạn hình thành cây non: từ khi nảy mầm cho đến khi ra chồi hay nhánh.
2- Giai đoạn thiết lập: là giai đoạn chuyển tiếp từ khi hình thành mầm cho đến khi
hình thành lá và rễ thứ cấp
3- Giai đoạn sinh trưởng thân lá
4- Giai đoạn làm đòng: chuẩn bị ra hoa
5- Giai đoạn ra hoa và kết hạt
2. Động thái sinh trưởng thân lá
a) Động thái sinh trưởng thân lá
Đồ thị sinh trưởng thân lá
Bonner và Galson (1952) đã mô tả đồ thị sinh trưởng của cây ngô (Đồ thị 2.1).
Dạng hình chữ “S” của đồ thị sinh trưởng cây ngô nói riêng, thực vật và sinh vật sống nói
chung là đặc trưng. Đồ thị “S” của sự sinh trưởng của một cơ thể là kết quả của nhiều đồ
thí “S” của từng cơ quan thành phần. Trong tất cả các trường hợp ta có thể phân biệt được
ba trạng thái riêng biệt của sinh trưởng của cơ thể sống:
Giai đoạn sinh trưởng chậm
Giai đoạn sinh trưởng nhanh
Giai đoạn sinh trưởng chậm
12
Đồ thị 2.1: Đồ thị đặc trưng của sinh trưởng (Bonner và Galson, 1952)
Theo dõi quá trinh sinh trưởng của thực vật, Bonner và Galston (1952) thấy rằng
sau khi nảy mầm trọng lượng vật chất khô (VCK) sẽ giảm do chất dự trữ ở hạt được sử
dụng trong quá trình nảy mầm. Sinh trưởng lúc này xảy ra chậm. Cho tới khi những lá
xanh đầu tiên xuất hiện, cây non bắt đầu hoạt động quang hợp, sự sinh trưởng tăng dần tới
mức đáng kể. Đến gần giai đoạn trưởng thành thì sinh trưởng giảm dần và ngừng hẳn,
cũng có khi ở giai đoạn này trọng lượng VCK của cây bị giảm đi.
Nhân tố ảnh hưởng tới sinh trưởng của thân lá:
+ Sức nảy mầm của giống:
Sự sinh trưởng của cỏ phụ thuộc trực tiếp vào sự nảy mầm của hạt, nếu hạt có sức
nảy mầm cao sẽ tạo điều kiện cho sinh trưởng mạnh sau này. Nhiều loại cỏ có sức nảy
mầm cao như cỏ Mộc châu, nhưng một số khác có sức nảy mầm kém và cần được xử lý
bằng các phương pháp như xát vỏ, xử lý quang học, xử lý hóa học… như Guinê, Stylo.
Cũng có loài mất sức nảy mầm như Pangoda phải tìm cách nhân giống khác. Phẩm chất
của hạt thể hiện qua độ thuần và % nảy mầm (Bogdan, 1977). Theo tác giả này thì có chỉ
tiêu sau:
% PGS: % hạt thuần nảy mầm
% PVS: % hạt thuần bị biến
% PLS: % hạt thuần sống
Trước khi gieo hạt cần xác định tỷ lệ nảy mầm (trực tiếp gieo trên đất, cát ẩm hay
bông thấm nước) và giá trị nông nghiệp của hạt.
VA= (%G x %P)/100 (%)
Trong đó: VA: Giá trị nông nghiệp
G: Độ nẩy mầm
VCK
Th
ờ
i gian
13
P: Độ thuần của hạt
Sức nẩy mầm của giống không những phụ thuộc vào bản thân hạt mà còn phụ
thuộc vào sự chuẩn bị giống và điều kiện khí hậu đất đai. Ví dụ cỏ Bermuda có thể để sau
1 tuần kể từ khi cắt mà vẫn giữ được tỉ lệ nẩy mầm, còn Pagola chỉ sang ngày thứ 2 tỉ lệ
nẩy mầm đã giảm tới 1/2.
+ Nhiệt độ:
Nhiệt độ là nhân tố sinh thái có ảnh hưởng rất lớn đối với sinh vật nói chung và
thực vật nói riêng. Nhiệt độ ảnh hưởng tới sinh trưởng của cây. Nhiệt độ tăng thì sinh
trưởng cũng tăng và nhiệt độ giảm thì sinh trưởng cũng chậm lại. Nói chung trong khoảng
từ 0 đến 30-35oC ảnh hưởng của nhiệt độ tới cây trồng theo quy luật Vant- Hoff. Mặt
khác tăng nhiệt độ tới giới hạn nhất định có tác dụng thúc đẩy quá trình hấp thu chất
khoáng của rễ (Trịnh Xuân Vũ và cộng sự 1976). Sự hô hấp tối thích ở nhiệt độ 35
o
C.
Theo Boggdan (1977) nhiệt độ thấp để cỏ nhiệt đới nẩy mầm là 15-20
o
C, tối ưu là 25-
35
o
C. Nhiệt độ tối ưu cho quang hợp ở cỏ ôn đới là 15-20
o
C và cỏ nhiệt đới là 30-40
o
C.
Sự hình thành diệp lục bắt đầu khi nhiệt độ >10-15
o
C. Ở nhiệt độ dưới 10
o
C cây cỏ nhiệt
đới có hiện tượng úa vàng, sau đó chết do chất diệp lục bị phá hủy.
Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của
cây, ban ngày nhiệt độ cao thuận tiện cho cây quang hợp và tích lũy, ban đêm nhiệt độ
thấp hạn chế sự tiêu phí hữu cơ nên sinh trưởng của cây nhanh hơn.
+ Ẩm độ:
Ẩm độ là một nhân tố cần thiết cho sự sinh trưởng của cây. Cây sinh trưởng mạnh
nhất khi tế bào bão hòa nước. Giảm mức độ bão hòa thì sinh trưởng chậm lại. Đối với các
tế bào đầu rễ vì không có mô che chở như các bộ phận trên mặt đất nên phải đủ ẩm rễ mới
sinh trưởng được. Về mùa xuân nước trong đất nhiều, ẩm độ không khí đủ cây ít mất
nước và nguyên sinh chất được bão hòa nên sinh trưởng mạnh.
Vance và Darrell (1974) cho rằng ẩm độ là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới
sản lượng cỏ. Sự thay đổi theo mùa của sinh trưởng do nhiều yếu tố gây ra, nhưng ẩm độ
đóng một vai trò rất quan trọng.
Ẩm độ không khí có ảnh hưởng trực tiếp tới sinh trưởng của cỏ vì ẩm độ giảm thì
cường độ thoát hơi nước tăng và ngược lại. Nước trong đất cần thiết cho cây trong toàn bộ
thời kỳ sinh trưởng vì nhờ nước mà cây có thể hút được chất dinh dưỡng, nhưng nếu thừa
nước thì cây có thể bị úng thối vì thiếu ôxy. Vì vậy chế độ tưới tiêu là nhân tố quan trọng
ảnh hưởng tới sinh trưởng của cây.
+ Ánh sáng:
14
Ánh sáng cũng là một yếu tố quan trọng. Ánh sáng là nguồn cung cấp năng lượng
cho cây tiến hành quang hợp, thoát hơi nước, hình thành chất diệp lục mà lục lạp chứa
diệp lục là nơi duy nhất tích lũy năng lượng mặt trời thành dưới dạng các chất hữu cơ.
Ánh sáng ảnh hưởng tới sinh trưởng dưới hai hình thức khác nhau là cường độ ánh
sáng và quang chu kỳ. Ở những cường độ ánh sáng yếu (500-1000 lux) thì cường độ
quang hợp tăng nhanh cùng cường độ ánh sáng. Đối với nhiều loại cỏ nhiệt đới cường độ
quang hợp tiếp tục tăng, tuy không lớn lắm cho đến khi đạt được 60,000 lux. Theo
Boggdan (1977) thì cường độ thích hợp cho cỏ nhiệt đới là 50,00 lux, và ở cỏ ôn đới là
15,000- 20,000 lux.
Quang chu kỳ ảnh hưởng đến sinh trưởng ít hơn. Quang chu kỳ ảnh hưởng đến tốc
độ ra lá. Trong những ngày hè dài, lá và thân sinh trưởng thẳng hơn, giảm sự hình thành
các mầm nách. Còn trong những ngày ngắn và mát cây phát tán rộng hơn và cây có nhiều
chồi hơn.
+ Dinh dưỡng trong đất:
Điều kiện thổ nhưỡng có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng của cây, trong đó các
chất dinh dưỡng trong đất đóng vai trò quan trọng kể cả nguyên tố vi lượng. Đối với cỏ
hòa thảo đặc biệt nhạy cảm với sự thay đổi của liều lượng phân đạm. Nhìn chung năng
suất của cỏ hòa thảo tỷ lệ thuận với lượng phân đạm bón cho đồng cỏ.
Độ pH trong đất quyết định trạng thái dễ tiêu hay không dễ tiêu của các nguyên tố.
Cỏ hòa thảo ưa đất trung tính, cỏ bộ đậu ưa đất hơi kiềm vì chúng cần nhiều can xi hơn.
b) Động thái sinh trưởng của cỏ tái sinh
* Khái niệm về tái sinh:
Ví dụ 1: Sau khi chúng ta cắt bỏ đi một phần hay một bộ phận trong cây cỏ, sau một thời
gian bộ phận bị cắt đó hình thành trở lại như ban đầu
Ví dụ 2: Lấy một phần thân, củ, cành của cây dâm vào đất, cung cấp đầy đủ các điều kiện
về môi trường cho cây sinh trưởng, sau một thời gian từ một bộ phận đó sẽ trở thành một
cây mới.
Các hiện tượng nêu trên gọi là tái sinh. Một cây cỏ tái sinh thì cho phép chúng ta
thu hoạch được nhiều lần.
Tuy chưa có một định nghĩa thống nhất nhưng theo Voisin (1963) cỏ có khả năng
thu hoạch nhiều lần là cỏ có khả năng dự trữ ở rễ hay phần thân còn lại một lượng dinh
dưỡng cần thiết cho phép cây cỏ tái sinh sau mỗi lần thu hoạch. Nói rõ hơn để tái sinh
được sau mỗi lần thu hoạch cần có đủ chất dinh dưỡng dự trũ cho phép để hình thành
những lá xanh đầu tiên, những lá này bằng quang hợp sẽ giúp cho cây sinh trưởng bình
thường. Nếu chúng ta cắt cỏ trước lúc các chất dinh dưỡng dự trũ được thì khả năng tái
15
sinh của chúng hạn chế và có thể không có. Tuy nhiên tái sinh còn phụ thuộc nhiều yếu
tố.
*Đồ thị tái sinh thân lá của cây cỏ
Đồ thị tái sinh trưởng thân lá của cây cỏ cũng có dạng chữ “S” như đã mô tả ở
trên. Ban đầu cỏ chỉ có các chất dinh dưỡng dự trữ trong cây nên sinh trưởng thân lá rất
chậm. Sau khi tạo nên các tế bào quang hợp chúng mới cho phép tạo nhanh ra các tế bào
khác. Sau đó đến giai đoạn sinh trưởng nhanh của cây. Đến cuối giai đoạn này cỏ bắt đầu
sinh trưởng chậm lại để tích lũy dinh dưỡng cho quá trình ra hoa và kết hạt.
*Nhân tố ảnh hưởng tới tái sinh trưởng
Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng cũng ảnh hưởng đến tái sinh. Ngoài ra tái
sinh trưởng của cây cỏ còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:
- Tuổi thiết lập:
Là tuổi từ khi trồng cỏ cho đến khi cỏ thiết lập và có thể đi vào sử dụng lần đầu
tiên. Lứa tuổi này rất quan trọng vì tạo điều kiện cho các bộ phận dưới đất (rễ, thân
ngầm…) phát triển làm cơ sở cho việc dự trữ dinh dưỡng đầy đủ để cho phép tái sinh trở
lại.
- Tuổi thu hoạch:
Kể từ lứa cắt thứ nhất trở đi, thời gian giữa các lần thu hoạch gọi là tuổi thu hoạch.
Dĩ nhiên lứa tuổi này nhỏ hơn tuổi thiết lập vì lúc này các bộ phận dưới đất đã thiết lập và
phát triển.
Độ cao thu hoạch:
Độ cao thu hoạch cũng quyết định lượng dự trữ của cỏ trong quá trình tái sinh. Đối
với mỗi loại cỏ khác nhau độ cao thu hoạch thích hợp cũng khác nhau. Cỏ voi do có cơ
quan thân ngầm ở dưới đất nên khi thu hoạch sát đất không ảnh hưởng đến khả năng tái
sinh. Ngược lại, cỏ Guatemala cần thu hoạch ở độ cao 25- 30cm mới kích thích cỏ đẻ
nhánh và tái sinh nhanh. Đối với cây cỏ bộ Đậu điều này phải càng chú ý.
3. Đặc điểm sinh trưởng của cỏ
Mỗi loại cỏ khác nhau có tập quán hay kiểu sinh trưởng khác nhau. Dựa vào kiểu
sinh trưởng mà có chế độ chăn thả hay thu cắt thích hợp. Kiểu sinh trưởng quyết định chế
độ sử dụng của cây cỏ
a) Kiểu sinh trưởng:
*Nếu lấy vị trí của thân so với mặt đất:
16
- Thẳng đứng: là thân sinh trưởng thẳng, vuông góc với mặt đất. Thân loại này có
thể từ dưới đất mọc lên hay từ thân chính hướng thẳng. Thân cây ngô đặc trưng của thân
thẳng và loại thân này rất thích hợp cho việc thu hoạch bằng máy.
-Thân nghiêng: là loại thân mọc nghiêng tạo thành góc 45
0
với mặt đất. Loại thân
này cùng với thân bò tạo nên thảm cỏ dày và phủ kín mặt đất. Những loài cỏ có loại thân
này như Bermuda, Pangola…
-Thân bò: là loại thân mọc và bò lan ra mặt đất, đan với nhau tạo nên thảm cỏ dày.
Từ các đốt của loại thân này sinh ra rễ và nhánh mới tạo nên khả năng lấn chiếm khỏe và
khả năng chịu đựng sự dẫm đạp cũng cao. Pangola, Bermuda… có loại thân đặc trưng
này.
-Thân ngầm: là loại thân nằm dưới đất, phát triển rộng song song với mặt đất và
cũng có loại trồi lên trên. Từ thân ngầm sinh ra nhiều thân khác. Cỏ voi là thân đặc trưng
loại này.
-Thân dây: là loại thân có khả năng sinh trưởng rất nhanh thành dây dài và có khả
năng cuốn vào cột đỡ. Có thể tự bản thân cuốn hay nhờ tay leo. Loại thân này xuất hiện
nhiều ở các loài đậu nhu Glycine, Kudzu…
Mỗi loại cỏ có thể chỉ có một loại thân hay có nhiều kiểu thân khác nhau, tùy theo
loại kiểu thân mà chúng khi sinh trưởng sẽ tạo thành những trạng thái khác nhau và do đó
có sức chịu đựng đối với sự thu hoạch khác nhau
*Nếu lấy vị trí của điểm sinh trưởng so với mặt đất thì có có 2 kiểu sinh trưởng
sau:
- Cỏ cao: là những cây cỏ mà đốt thân sinh trưởng nhanh, thân thẳng nên những
điểm sinh trưởng trên ngọn và nách lá cách xa mặt đất. Những loại cỏ cao thường thích
hợp cho thu cắt nhưng ít có khả năng chịu đựng thu hoạch thưởng xuyên, thích hợp cho
thu cắt định kỳ.
- Cỏ thấp: cỏ thấp có thân ngắn, sinh trưởng ra xung quanh là chính nên phần lớn
các điểm sinh trưởng ở đỉnh và nách lá tập trung gần mặt đất hơn. Những loại cỏ thấp ít bị
ảnh hưởng bởi thu hoạch thường xuyên vì luôn còn lại mầm xanh để tái sinh ngay khi bị
thu hoạch
b) Trạng thái sinh trưởng:
Do mỗi loại cây cỏ có kiểu sinh trưởng khác nhau nên trạng thái sinh trưởng cũng
khác nhau.
- Cây đơn độc: là loài chỉ phát triển một cách đơn độc từ một hạt chỉ ra 1 cây hay
một số rất ít cây. Ngô nói chung không đẻ nhánh trừ một số loài ngô dân tộc từ một hạt đẻ
17
ra nhiều nhánh như cao lương. Những loại cây cỏ đơn độc thích việc cắt hơn là chăn thả
vì ít chịu đựng dẫm đạp.
- Khóm cỏ: khi cây có khả năng đẻ nhánh ra xung quanh nhưng những nhánh này
cũng sinh trưởng thẳng đứng sát nhau và tạo thành từng khóm một.
- Thảm cỏ: khi có thân bò lan trên mặt đất, bò đất đâu, rễ đốt lại sinh ra và tạo
thành thân mới, dần dần khép kín mặt đất mà tạo thành thảm cỏ dày. Những thảm cỏ
thường tạo thành đồng cỏ thích hợp cho chăn thả vì có khả năng chịu dẫm đạp cao.
II. Phân loại cỏ theo hướng sử dụng
1. Sự khác nhau giữa chăn thả và thu cắt
Nếu ta chỉ nghĩ đơn thuần chăn thả hay thu cắt đều là thu hoạch cỏ thì mắc một sai
lầm lớn vì cơ bản hai hình thức thu hoạch này khác nhau. Cả hai trường hợp này chịu ảnh
hưởng riêng biệt.
- Khi chăn thả cỏ bị gặm không đều, nhiều khi sát đất. Ngược lại khi cắt cỏ bị cắt ở mặt
phẳng song song với mặt đất nên thảm cỏ đều hơn
- Gia súc gặm cỏ có sự chọn lọc những loại cỏ mà chúng yêu thích nên dù ở độ cao nào
chúng cũng gặm vì vậy những loại cỏ này bị ăn liên tục không đủ thời gian tái sinh.
Những cỏ xấu gia súc không ưa nên không bị có chiều hướng lan và xâm lấn các loài cỏ
bị gặm. Khi cắt tất cả các loại cỏ trên độ cao thu hoạch đều bị cắt, chỉ những loài quá thấp
mới còn lại.
- Do sự chọn lọc khi gặm cỏ nên những loại cỏ và những phần cây cỏ mà gia súc ăn là
những phần có giá trị dinh dưỡng cao hơn so với khi cắt.
- Khi chăn thả gia súc dẫm đạp lên cỏ và đất và bài tiết ra đồng cỏ. Lượng phân và nước
tiểu của gia súc thải ra trên đồng cỏ có giá trị làm phân bón cho cây cỏ. Những cũng
chính sự bài tiết này mà có thể có tới 15% diện tích đồng cỏ không được sử dụng vì bị ô
nhiễm. Khi thu hoạch bằng máy, lượng phân trả lại đồng cỏ ít hơn và không có sự dẫm
đạp liên tục trừ sự nén của máy hay người khi thu hoạch.
- Tuy người ta chưa nghiên cứu kĩ ảnh hưởng của gia súc và thu hoạch bằng máy tới năng
suất cỏ trên bãi nhưng hình như năng suất cỏ thường cao hơn khi cỏ được thu cắt.
2. Những nhân tố quyết định hướng sử dụng.
Những yêu cầu đối với cỏ sử dụng làm thức ăn gia súc:
a. Cỏ phải có khả năng tái sinh.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc, lá nơi khi thu hoạch ít
bị ảnh hưởng tới
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu lạnh và chịu hạn cao
18
- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất
- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm bảo lấy
dinh dưỡng từ đất.
Tuy nhiên để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các nhân tố sau để
xét và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ.
b. Độ ngon miệng
Khái niệm về độ ngon miệng của cỏ trồng khá trừu tượng. Theo Ivins (1952) thì
đây là tổng hợp của nhiều nhân tố khác nhau quyết định gia súc có thích ăn loại cỏ này
hay không. Có thể nói độ ngon miệng là sợi dây vô hình kết nối giữa gia súc và cỏ
(Voisin, 1963). Nói chung cỏ chăn thả và thu cắt đều phải có độ ngon miệng cao, đặc biệt
là cỏ thu cắt.
c. Giá trị dinh dưỡng
Cả cỏ chăn thả và thu cắt đều phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu
gia súc về các mặt. Những loại cỏ dùng cắt để dự trữ và đặc biệt là làm bột khô hay đóng
viên phải là cỏ có giá trị dinh dưỡng đặc biệt cao để giảm giá thành sản phẩm. Một trong
những hạn chế của việc chế biến thức ăn cỏ nhiệt đới là giá thành sản phẩm cao do giá trị
dinh dưỡng của cỏ thấp.
d. Khả năng sinh trưởng chung
Khả năng sinh trưởng chung thể hiện ở hai mặt là khả năng cạnh tranh điều kiện
sinh tồn và khả năng chịu trồng kết hợp. Cỏ chăn thả phải có điều kiện cạnh tranh với cỏ
dại cao. Khả năng cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sức sống, khả năng sinh sản
bằng phương pháp vô tính và khả năng sinh hạt. Cỏ chọn phải có khả năng sinh trưởng
nhanh nhất là giai đoạn đầu để lấn cỏ dại và tăng số lần thu hoạch. Khả năng tái sinh còn
phụ thuộc vào lượng dinh dưỡng dự trữ và khả năng chịu đựng sự dẫm đạp.
Mặt khác để đảm bảo khẩu phần cân bằng và tận dụng khả năng giữ đạm của cây
đậu trên đồng cỏ chăn thả cần có khả năng trồng kết hợp để tăng năng suất và giá trị dinh
dưỡng
e. Khả năng chịu đựng sự thu hoạch
Cỏ để chăn thả phải cỏ khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia súc. Khả
năng chịu đựng này phụ thuộc vào tập quán sinh trưởng và cấu trúc của thân. Cỏ thấp tạo
thành thảm thích hợp cho việc chăn thả, cỏ cao thành khóm thích hợp cho việc thu cắt. Cỏ
có khả năng sinh sản vô tính càng tốt cho sự dẫm đạp của gia súc. Điều hạn chế lớn nhất
đối với cây đậu là khả năng chịu đựng thu hoạch kém đặc biệt là chăn thả, khi thu hoạch
cắt cây đậu thường bị rụng lá.
f. Năng suất
19
Năng suất là một chỉ tiêu yêu cầu đối với việc chọn lựa cây cỏ. Muốn có năng suất
cao cỏ phải có thời gian tái sinh trưởng nhanh và thời gian phát dục chậm
Những loài cỏ đặc trưng để trồng chăn thả như Bermuda, Pangola, Guinê, cỏ gà,
Brachiaria, … những cỏ này cũng tốt cho việc thu cắt làm cỏ khô. Cỏ voi, ngô, cao
lương… thích hợp để thu cắt bổ sung thức ăn xanh hay làm thức ăn ủ. Các loại đậu có
dinh dưỡng cao thích hợp cho việc làm thức ăn bổ sung hay làm cỏ khô, bột cỏ.
Bài 3. M ỘT SỐ CÂY THỨC ĂN GIA SÚC – CỎ HÒA THẢO
I. Đặt vấn đề
Song song với việc nghiên cứu về giống, biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng trong chăn
nuôi thì việc nghiên cứu cây cỏ làm thức ăn cho gia súc cũng rất quan trọng. Trong những
năm gần đây người ta đã chú trọng nhiều đến việc tạo ra các giống cỏ có năng suất cao,
thích nghi trong nhiều điều kiện, nhiều vùng sinh thái khác nhau. Một số cây cỏ đã trở
nên rất quan trọng gắn liền với việc phát triển chăn nuôi.
Ở Việt nam việc nghiên cứu cây làm thức ăn gia súc đã được chú trọng từ lâu, song
do điều kiện phát triển của sản xuất nên đến nay việc áp dụng chúng vào sản xuất vẫn còn
nhiều hạn chế.
Hai bộ cây cỏ có ý nghĩa trong việc làm thức ăn cho gia súc đó là bộ Hòa thảo và
bộ Đậu, trong phần này sẽ đi sâu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hai bộ cây cỏ này.
II. Đặc điểm chung của cỏ bộ Hòa thảo và bộ Đậu
1. Đặc điểm chung của cỏ bộ Hòa thảo
Bộ Hòa thảo (Poales) ở trong lớp hành tỏi (gồm 4 phân lớp, 5 liên bộ, 20 bộ và 66
họ) chỉ có một họ duy nhất là họ Hòa thảo (Poaceae). Đây là một họ rất lớn có tới 700 chi,
8,000 – 10,000 loài phân bố khắp thế giới.
Bộ Hòa thảo thường có rễ chùm, một số có thân ngầm. Cây thường lâu năm hay
một năm, thường thân thảo ít khi bụi hay gỗ. Thân tròn thẳng, có đốt và rỗng ở giữa (trừ
đốt). Lá mọc cách, xếp hai dãy đều ở hai bên, rất ít khi mọc đối và thường tập trung ở gốc
thân. Lá đơn nguyên và thường hẹp và kéo dài, thường cuộn tròn khi rụng. Lá rất ít khi có
cuống, gồm bẹ và lưỡi bẹ, gân lá song song với nhau, cụm hoa nhiều dạng, hoa đơn tính,
lưỡng tính hay tạp tính, có mày thường 3 nhị, bầu có một noãn. Quả thóc khô gồm 1 ô và
1 hạt, khi chín không mở. Hạt có phôi nằm cạnh nội nhũ bột, có một lá mầm.
2. Đặc điểm chung của cỏ bộ Đậu
20
Bộ Đậu nằm trong lớp Mộc lan (gồm 7 phân lớp, 15 liên bộ, 73 bộ và 373 họ). Rễ
dạng cọc và có nốt sần, nơi vi khuẩn Rhizobium hoạt động cố định đạm. Cây thân thảo,
gỗ hay bụi, với nhiều kiểu sinh trưởng. Lá kép lông chim từ 2-3 lá chét hay kép nhiều lần,
bao giờ cũng có lá kèm, gân lá hình mạng. Hoa tự chùm, chùy hay đầu, hầu hết lưỡng tính
và không đều. Nhị 10, rời hay dính thành 2 nhóm (9+1 hay 5+5), bầu 1 hay nhiều noãn,
quả đặc trưng hình đậu. Hạt không có nội nhũ bột, gồm 2 lá mầm.
Bộ đậu gồm 3 họ: Mimosaceae: Trinh nữ
Caesalpiniaceae: Vang
Fabaceae: Đậu
Họ Trinh nữ gồm 60 chi, 2.800 loài phân bố ở nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc điểm
phân loại là: Lá kép 1-3 lần, lá chét nhỏ, hoa tự hình cầu, hoa đều. Ở Việt Nam có khoảng
13 chi với 50 loài.
Họ Vang gồm 150 chi, 2.000 loài phân bố ở nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc điểm
phân loại là: Lá kép lông chim 1-2 lần, có khi 2 lá chét dính vào nhau, lá kèm rụng sớm.
Hoa tự phức tạp, thường hình gù, hoa không đều, số nhị giảm. Ở Việt Nam có khoảng 20
chi với 100 loài.
Họ Đậu gồm 500 chi với 12.000 loài phân bố khắp thế giới. Đặc điểm phân loại là:
Lá chét lớn với số lượng ít, có khi chỉ có 3, lá kèm tồn tại cum hoa hình chùm, hoa không
đều, nhị thường dính. Theo Lecomte (1908-1923) có 69 giống và 296 loài ở Đông Dương
3. Giá trị thức ăn và so sánh
Bộ Hòa thảo rất quan trọng vì phần lớn cây cỏ làm thức ăn gia súc thuộc bộ này,
40 trong số 10.000 loài được sử dụng rất nhiều trong trên đồng cỏ, không những có tỷ lệ
cao mà phân bố cũng rộng rãi, có giá trị thức ăn cao và toàn diện đặc biệt là lượng
hydratcacbon, đồng thời các chất có tỷ lệ cân bằng. Việc sử dụng trong chăn nuôi rộng rãi
hơn vì có khả năng chịu đựng sự thu hoạch đặc biệt là trên bãi chăn thả, dễ chế biến hơn
vì ít rơi rụng khi thu hoạch, vận chuyển và chế biến, nhất là không độc cho gia súc.
Cây bộ Đậu chiếm tỷ lệ rất ít (10-30% ở đồng cỏ ôn đới và hầu như không đáng
kể ở đồng cỏ nhiệt đới), phân bố không rộng rãi như bộ Hòa thảo nhưng ngày càng có vai
trò trong chăn nuôi. Cây đậu chứa nhiều protein nhất là trong quả và có nhiều Ca, P,
vitamin A và D. Đậu có nhiều Ca, Mg, S và Cu nhưng ít Mn và Zn. Đậu còn có ý nghĩa ở
đồng cỏ trồng kết hợp làm tăng năng suất thông qua việc tăng chất đạm của hệ thống vi
sinh vật cộng sinh.
Mặt khác giá trị dinh dưỡng của cây đậu cũng ổn định trong chu kỳ sinh trưởng
4. Vấn đề cố định đạm của cây bộ Đậu
21
Đã từ lâu người ta biết dùng cây bộ Đậu để cải tạo đất, năm 1613 R. Weston đã sử
dụng cây đậu Red Clover (Triflolium pratense) vào để cải tiến đồng cỏ. Nhưng thực tế tới
sau này mới xác định chính xác vấn đề cộng sinh giữa cây đậu và vi khuẩn cố định đạm.
Nhờ có Rhizobium mà cây đậu có thể thỏa mãn được 50% nhu cầu đạm của cây.
Vi khuẩn Rhizobium là loại vi khuẩn cộng sinh ở cây đậu. Nhờ có men Nitrogenaza
chúng có thể chuyển N
2
từ không khí thành NH
3
. Nhiệt độ tối ưu cho vi khuẩn hoạt động
nằm trong khoảng 29-31
0
C, chịu kiềm tới pH = 9,6, khả năng chịu độ chua tới pH = 5, ở
Rh. Melitoli, pH = 3,2 – 4,2 ở Rh. Lupini,…Theo Bogdan (1977) có thể chia vi khuẩn cố
định đạm thành hai nhóm:
Nhóm tạo kiềm: sống ở vùng nhiệt đới, nơi đất chua và và ít kiềm
Nhóm tạo axít: sống ở vùng đất ôn đới, nơi đất nhiều Ca và mang tính kiềm.
Rhizobium có sẵn trong đất, đất càng màu mỡ càng nhiều Rh.
Mỗi một loài Rh. chỉ có thể tạo nốt sần trong nhóm cây bộ Đậu nhất định mà
không hoạt động ở nhóm khác. Tuy nhiên ranh giới này không thật chặt chẽ. Theo
Bogdan (1977) các cây đậu nhiệt đới và vi khuẩn ở vùng này quan hệ không có tính chặt
chẽ như ở ôn đới.
Quá trình cộng sinh
Đầu tiên người ta cho rằng nốt sần ở rễ cây đậu là một bệnh nào đó, tới năm 1887
Ward chứng minh rằng nguyên nhân tạo ra nốt sần không phải ai ngoài vi khuẩn, và nốt
sần là đặc trưng cho phần lớn cây đậu.
Sự hình thành nốt sần bắt đầu từ khi cây đậu có lá thật đầu tiên. Vi khuẩn sống ở
đất, ở môi trường này chúng không khả năng giữ đạm, nhờ một số chất mà cây tiết ra thu
hút vi khuẩn, chúng tiến lại gần rễ tiết ra một loại men làm lông rễ xoắn lại rồi xâm nhập
vào bên trong.Vi khuẩn sinh sản nhanh, các tế bào thực vật bị kích thích cũng phân chia
dần dần tạo nên nốt sần. Nhờ có men Nitrogenaza vi khuẩn có khả năng đồng hóa đạm từ
N
2
ở không khí thành NH
3
.
Cây đậu hàng năm có nốt sần to, mập gần tròn, tập trung hay phân thành nhóm
phân bố ở rễ chính và rất ít ở rễ cấp I. Cây đậu lâu năm có nốt sần bé hơn, hình dài và
phân bố rộng ở hầu hết cả bộ rễ.
22
Nếu quá trình cộng sinh dạng hoạt động có hiệu quả thì số lượng nốt sần ít nhưng
có nhiều dạng to, mập, tập trung ở cổ rễ và những rễ phụ cấp 1 đầu tiên. Những nốt sần
này có màu hồng do có sắc tố leghemoglobin (có họ hàng với hemoglobin trong máu) tạo
nên.
Nếu quá trình cộng sinh không hoạt động hay hoạt động không có hiệu suất thì nốt
sần nhiều nhưng nhỏ, cứng, tròn và phân bố rộng trên toàn bộ rễ, lúc này leghemoglobin
có hàm lượng ít nên nốt sần mất dần màu hồng chuyển sang màu xanh trắng.
Nhân tố ảnh hưởng cộng sinh
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới quá trình cố định đạm, nhưng nhân tố quan
trọng nhất là:
Quan hệ đậu/Rh.
Theo Bogdan (1977) thì vấn đề cơ bản là phải nghiên cứu quan hệ này nếu muốn
tận dụng hết hiệu suất của quá trình cộng sinh. Nói chung ở nhiệt đới tính cố định trong
quan hệ đậu/Rh. không chặt chẽ như ôn đới mà phần lớn đậu nhiệt đới có thể có thể thiết
lập cộng sinh với vi khuẩn của nhóm Vigna. Cũng theo tác giả này thì hệ thống cộng sinh
đậu/Rh. hoạt động kém và ít có lợi như ở ôn đới, điều này không phải chỉ do cây đậu mà
cả Rh. ở nhiệt đới hoạt động kém.
Tỷ lệ các bon/nitơ
Tỷ lệ C/N có vai trò quan trọng cho quá trình cố định đạm. Nếu vì một lý do nào
đó mà giảm lượng hydratcacbon hay làm tăng lượng đạm tự do dễ tiêu cung cấp từ ngoài
làm giảm tỷ lệ C/N thì qúa trình cố định đạm sẽ giảm và có thể bị gián đoạn hay ngừng
hoàn toàn.
Quang hợp
23
Qúa trình quang hợp có nhiệm vụ cung cấp hydratcacbon cho cây nên bất kỳ một
nguyên nhân nào làm tăng quá trình này sẽ làm tăng tỷ lệ C/N và làm tăng quá trình cố
định đạm.
Phân đạm
Nếu bón nhiều phân đạm cho cây đậu làm tỷ lệ C/N giảm và quá trình cố định đạm
cũng sẽ kém. Nếu tình trạng này kéo dài nốt sần có thể bị thoái hóa và trong điều kiện đó
Rh. không phải là có lợi mà thành vật ký sinh ăn đạm của cây. Tuy nhiên Gukova (1971)
cho biết mặc dù năng suất cỏ và lượng N cố định được giảm theo lượng đạm sử dụng
nhưng những lượng đạm nhỏ không ảnh hưởng tới năng suất và qúa trình đồng hóa mà lại
có lợi, nhất là trong giai đoạn đầu khi hệ cộng sinh chưa thiết lập hoàn hảo.
Phốt pho
Đối với Rh.Phốt pho theo Whyte và cộng sự (1967) có tầm quan trọng cho việc di
chuyền bằng roi của Rh. trong giai đoạn cảm nhiễm ban đầu. Mặt khác Phốt pho còn là
một nhân tố quan trọng cho đời sống cây đậu và vi khuẩn.
Can xi
Can xi rất cần cho cây đậu và cho vi khuẩn. Trong đất nghèo can xi làm cho vi
khuẩn ở dạng mất bình thường và không có khả năng cảm nhiễm cây và hoạt động được
Molipden
Molipden cần thiết cho quá trình cố định đạm.
III. Một số cây cỏ hòa thảo làm thức ăn gia súc
CÂY CỎ VOI
Pennisetum purpureums Schumach
1. Nguồn gốc và phân bố
Cỏ voi có nguồn gốc ở Nam Phi, phân bố rộng rãi ở các nước nhiệt đới trên thế
giới. Quê hương lâu đời của cỏ voi là vùng Uganda (10
0
vĩ Bắc đến 20
0
vĩ Nam) nhập vào
Mỹ từ năm 1913, Úc 1914, Cu ba 1917, Brazin 1920,… Ở Việt Nam được gọi là cỏ Huế
vì lần đầu tiên lấy giống ở đây đưa ra Bắc (1908). Hiện nay đã được trồng ở nhiều nơi.
Năm 1978 lại đây, ta nhập thêm một số chủng cỏ Voi mới.