Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Thuyết trình Lạm phát và Chính sách điều hành lạm phát ở Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 31 trang )

Financial and Monetary 09DKTC1
Thuyết trình môn : LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
(Theory of financial and monetary)
Đề tài : LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM.
(Inflation and inflationary policies operating in Vietnam)
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
MỤC LỤC:
Phần 1: Những vấn đề chung về lạm phát.
1.1 Các quan niệm về lạm phát
1.2 Khái niệm về lạm phát
1.3 Phân loại lạm phát
1.3.1 Căn cứ định lượng
1.3.2 Căn cứ định tính
1.4 Nguyên nhân lạm phát
1.4.1 Nguyên nhân chính
1.4.2 Nguyên nhân khác
1.5 Tác động của lạm phát
1.5.1 Tác động chung
1.5.2 Tác động tiêu cực
1.5.3 Tác động tích cực
1.6 Chính sách và biện pháp kiềm chế lạm phát
1.7 Lạm phát mục tiêu
1.8 Giơí thiệu giảm phát.
Phần 2: Chính sách điều hành lạm phát qua các thời kỳ ở Việt Nam.
2.1 Việt Nam thời kỳ 1986 – 1990
2.2 Việt Nam thời kỳ 1990 – đầu 2007
2.3 Việt Nam thời kỳ cuối 2007 -2008
2.4 Việt Nam thời kỳ 2009-2010
2.5 Tình hình lạm phát ở Việt Nam Qúi 1/2011


Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
Phần 1.Những vấn đề chung về lạm phát
(The common problems of inflation)
1.1Các quan niệm về lạm phát (The concept of inflation ):
Đối với vấn đề lạm phát có rất nhiều trường phái với nhiều cách tiếp cận khác nhau và
mỗi trường phái đều có những lý luận khác nhau.
• Trường phái lưu thông tiền tệ (School of currency circulation):
Theo trường phái lạm phát "lưu thông tiền tệ" (đại diện là Miltơn Priedman) họ cho rằng
lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên.
• Trường phái cầu kéo (Schools demand pull):
Trường phái lạm phát do cầu kéo mà đại diện là J.Keynes cho rằng. Lạm phát là "cầu dư
thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn dụng dẫn đến
mức giá chung tăng.
• Trường phái giá cả và lạm phát (School of price and inflation):
Trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là sự tăng giá. Thực chất lạm phát chỉ
là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá.
• Trường phái K.Marx ( School of K.Marx ):
K.Marx đã cho rằng "lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy
bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản phẩm xã hội giữa
các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản.
Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói chung các
quan điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt của hai thuộc tính cơ
bản của lạm phát. Bàn lạm phát là vấn đề rộng và để định nghĩa được nó đòi hỏi phải có
sự đầu tư sâu và kỹ càng.
1.2Khái niệm về lạm phát (Concept of inflation): Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu
thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho
chúng bị mất giá,giá cả của hầu hết các
loại hàng hóa tăng lên hang loạt.Lạm
phát có những đặc trưng sau:

+ Hiện tượng gia tăng quá mức của
lượng tiền có trong lưu thông dẫn đến
đồng tiền bị mất giá.
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
+ Mức giá cả chung tăng lên.
Thông thường lạm phát được đo lường bằng hai chỉ tiêu cơ bản là chỉ số giá tiêu dùng
(CPI - Consumer price index) và chỉ số khử lạm phát GDP (GDP deflator).
1.2.1 Đo lường lạm phát (Measure of inflation): Lạm phát được đo lường bằng cách
theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một
nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc
dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các
loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình",
gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá
trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở
thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của
mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung
có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng
kích thước của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này
phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ
thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ
số lạm phát bao gồm:
* Chỉ số giá sinh hoạt (Cost of Living Index ) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt
của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định
một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI
có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên
lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản
ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng
dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).

* Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu
dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự
thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường
hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do
những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc
cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá
cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của
CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi
lạm phát đã xảy ra).
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
Ví dụ: CPI của năm 2005 là 196,8 và CPI của năm 2006 là 201,8 thì ta sẽ có tỷ lệ lạm
phát năm 2006 là :
* Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính
đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi
nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không
bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển
hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều
người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm
phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các
chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch
vụ.
* Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông
thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
* Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có
lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi
nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
* Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là
tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc,
từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm

Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất.
Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá
nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá
nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của
mình.
Trong đó GDP danh nghĩa đo lường sản lượng theo giá năm hiện tại; GDP thực
đo lường sản lượng theo giá năm gốc.
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
Ví dụ: chọn năm 2000 làm cơ sở , tính chỉ số giá giảm phát năm 2008 so với 2007; biết
năm 2007 GDP danh nghĩa là 82 tỷ , 2000 là 74 tỷ; năm 2008 GDP danh nghĩa là 88 tỷ ,
2000 là 78 tỷ.
Tính chỉ số GDP 2007 so 2000:
Tính chỉ số GDP 2008 so 2000:
Tính chỉ số lạm phát 2008 so 2007:
1.3 Phân loại lạm phát:
1.3.1 Căn cứ vào định lượng:
• Lạm phát vừa phải (Moderate inflation): Còn gọi là lạm phát một con số ,có tỷ lệ
lạm phát dưới 10% một năm .Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương
đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường ,đời sống của
người lao động ổn định .Sự ổn định đó được biểu hiện : Giá cả tăng chậm ,lãi
xuất tiền gửi không cao ,không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hang hoá với
số lượng lớn …
Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được ,những
tác động của nó là không đáng kể.
• Lạm phát phi mã (high inflation): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá
trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã,
nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ
chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm
phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách.

Nhìn chung lạm phát thì phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những
biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh,
cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng
ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang
sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao
dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác
động tiêu cực của nó không nhỏ .Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ
đối với sự ổn định của nền kinh tế.
• Siêu lạm phát (hyperinflation) : Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một
tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa
chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về
siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát
hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo
định nghĩa này thì cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm phát. Một
trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức sau Thế chiến thứ
nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mark vào tháng 1 năm 1922 lên đến
70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng
tăng tương tự. Từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ
1 lên 10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh
tế Đức đến mức nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh
chủ nghĩa Đức quốc xã và Thế chiến thứ hai.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng
này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc
siêu lạm phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến
hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào thập niên 1980,
các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ của Thế giới thứ ba đã đóng vai trò
quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở một số nước Mỹ La-tinh.

Tiêu chí xác định siêu lạm phát:
(1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền;
(2) giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn
định;
(3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn;
(4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong
ba năm lên tới 100 phần trăm.
Tóm lại ,siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng
.Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra .
1.3.2 Căn cứ vào định tính:
• Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng .
- Lạm phát cân bằng (inflation equilibrium): Tăng tương ứng với thu nhập thực tế
của người lao động ,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
nghiệp .Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và
dến nền kinh tế nói chung.
-Lạm phát không cân bằng (Inflation unbalanced):Tăng không tương ứng với thu
nhập của người lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
• Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường.
- Lạm phát dự đoán trước (Predicted inflation): là loại lạm phát xảy ra hàng năm
trong một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát này
có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý ,người
dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do đó không gây
ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế .
- Lạm phát bất thường(Unexpected inflation): xảy ra đột biến mà có thể từ trước
chưa xuất hiện .Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ
chưa kịp thích nghi .Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh
tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút .Đối với các nước đang
phát triển lạm phát thường kéo dài , do đó các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3

loại với tỷ lệ khác nhau : lạm phát kinh liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới
50% một năm ,lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát
trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm
.
1.4 Nguyên nhân lạm phát:
1.4.1 Các nguyên nhân chính:
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
(Các kênh truyền tải đến lạm phát)
• Lạm phát do cầu kéo (Demand pull – inflation): Đây chính là sự mất cân đối
trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong
khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp , hay nói cách khác là nền king tế
đã vượt qua mức sản lượng tiềm năng của nó . Lúc này thì đồng tiền cầu sẽ vượt
quá mức cung hàng hóa có giới hạn và sẽ làm cho chúng tăng giá . Do đó chính
mức cầu cao hơn kéo giá lên cao hơn , đó là lạm phát do cầu kéo.
Nhóm 2
MỨC GIÁ
GIÁ HÀNG HÓA PHI THƯƠNG MẠIGIÁ HÀNG HÓA THƯƠNG MẠI
TỔNG CUNGTỔNG CẦUGIÁ THẾ GIỚI
(GIÁ XĂNG DẦU
VÀ CÁC ĐẦU
VÀO NHẬP
KHẨU KHÁC)
TỶ GIÁ
Chi phí đầu vào trong
nước và nhập khẩu, giá
phía cung và tỷ giá.
Tiền tệ và tín dụng,lãi
suất,thu nhập , tài
sản,chi tiêu và thuế của

chính phủ.
Financial and Monetary 09DKTC1
 Chúng ta bắt đầu với trạng thái cân bằng ban đầu trong dài hạn, tại đó đường
LAS cắt đường SAS và AD0 ở mức giá P0. Sự gia tăng tổng cầu từ AD0 đến AD1
làm mức giá tăng từ P0 lên P1 và GDP thực tăng từ Yp đến Y1.
• Lạm phát do chi phí đẩy (cost push - inflation): Lạm phát chi phí đẩy là loại lạm
phát do thu hẹp tổng cung hoặc do các doanh nghiệp buộc lòng phải nâng giá bán
khi chi phí đầu vào tăng cao. Sự thu hẹp tổng cung có thể xuất phát từ sự khan
hiếm về hàng hóa hay thiên tai bất ngờ làm cho quá trình sản xuất bị gián đoạn.
Chi phí đầu vào tăng cao khi giá nguyên liệu đầu vào tăng hoặc giá lao động
tăng.Điều này chỉ có thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu
dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn .
• Lạm phát nguyên nhân tiền tệ (monetary inflation): Lạm phát do nguyên nhân
tiền tệ xảy ra khi tốc độ tăng trưởng cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự
của nền kinh tế. Sự mất cân đối này sẽ làm cho đồng tiền bị mất giá.
Công thức mối quan hệ giữa thu nhập danh nghĩa PY và lượng tiền M thể hiện
qua công thức:
MV = PY, công thức này biến đổi ra ta được : %ΔP = %ΔM +%ΔV - %ΔY (*)
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
- %ΔP là % tăng lên của giá hàng hóa hay còn gọi là lạm phát π (lạm phát π
được đo lượng bằng GDP deflator)
- %ΔM tăng trưởng của cung
tiền
- %ΔV- Thay đổi trong vòng
quay tiền
- %ΔY - Tăng trưởng thực
của nền kinh tế
Qua công thức đó chúng ta sự
tăng giá (%ΔP) vế trái của phương trình (*) phụ thuộc vào 3 biến số của vế phải,

thay đổi cung tiền, thay đổi vòng quay tiền và tăng trưởng thực của nền kinh tế.
1.4.2 Các nguyên nhân khác:
• Lạm phát đẻ ra lạm phát (inflation spawned inflation):
Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền
mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực
kinh doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được
cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên
cao ,từ đó lạm phát sẽ xảy ra .Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng ,cứ
như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.
• Thâm hụt ngân sách (budget deficit relative):
Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân
sách thì có thể khắc phục bằng cách phát hành
trái phiếu chính phủ để vay vốn từ người dân
nhằm bù đắp phần thiếu hụt .Biện pháp này
không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy
mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây
ra lạm phát.Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm
trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện
pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng
đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền
,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm
phát .Tuy nhiên,đối với các nước đang phát triển
,việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị
trường còn hạn chế .Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất .Vì thế mà khi
thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây
lạm phát càng lớn. Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc
phát hành trái phiếu có lợi hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về
vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1

Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế mức cung tiền
lại tăng lên và dễ gây lạm phát.
• Tỷ giá hối đoái (exchange rate):
Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ bị mất giá,
khi đó tâm lý những người sản xuất
trong nước muốn đẩy giá hàng lên
tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái
.Mặt khác khi tỷ giá hối đoái tăng ,chi
phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá
nhập khẩu sẽ tăng lên .Do đó giá cả
của các hàng hoá này tăng lên cao.
• Lạm phát do cơ cấu ( Inflation
caused by structural):
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động.
Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho
người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh
doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
• Lạm phát do xuất khẩu ( Inflation by exporting): Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng
cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến
lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn
tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
• Lạm phát do nhập khẩu (Inflation due to imported): Sản phẩm không tự sản xuất
trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp
nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng
tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm
phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
• Lạm phát do cầu thay đổi (inflation due to change of demand): Giả dụ lượng cầu
về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên.
Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía
dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn

không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả
là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
1.5 Tác động của lạm phát:
1.5.1 Tác động chung:
Sự gia tăng mức giá chung hàm ý sự giảm sức mua của tiền tệ. Đó là bởi vì khi
mức giá chung tăng, mỗi đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Ảnh
hưởng của lạm phát được phân đều trong nền kinh tế, và kết quả là chi phí của một số
mặt hàng và lợi nhuận của một số mặt hàng sẽ bị ẩn giấu bởi sự sụp giảm sức mua của
tiền tệ này. Ví dụ: khi xảy ra lạm phát, với những chủ cho vay hoặc người gửi tiền, những
người được trả một mức lãi suất cố định với những khoản cho vay hoặc khoản tiền gửi, sẽ
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
bị giảm sức mua của những khoản tiền lãi suất của họ, trong khi những người vay họ lại
được hưởng lợi. Những cá nhân hoặc tổ chức có tài sản tiền mặt sẽ bị giảm sức mua của
những cổ phần họ nắm giữ. Tăng khoản tiền thanh toán cho công nhân và những người
hưởng lương hưu thường chậm hơn tỷ lệ lạm phát, đặc biệt với những người được thanh
toán những khoản tiền cố định.
Tăng mức giá (lạm phát) làm giảm giá trị thực của tiền (đồng tiền chức năng) và những
mặt hàng khác có bản chất tiền tệ (ví dụ các khoản vay và trái phiếu). Tuy nhiên, lạm
phát không có ảnh hưởng đến giá trị thực của các khoản mục tiền tệ (ví dụ hàng hóa,
vàng, bất động sản).
1.5.2 Tác động tiêu cực:
• Tác động đến lĩnh vực sản xuất: Tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá
đầu ra biến động không ngừng gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất. Sự mất
giá của đồng tiền làm cho nghiệp vụ kế toán không còn chính xác nữa. Những
doanh nghiệp có tỷ xuất lợi nhuận thấp sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
Khi lạm phát xảy ra với một tỷ lệ chấp nhận được thì sẽ có lợi cho nền kinh tế. Lãi
xuất giảm khuyến khích doanh nghiệp gia tăng vốn đầu tư để mở rộng sản xuất.
Đồng thời cũng khuyến khích tiêu dùng làm cho hàng hóa được bán chạy hơn. Do
đó, lúc này lạm phát sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế.

• Tác động đến lĩnh vực lưu thông: Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ
dẫn đến khan hiếm hàng hóa, làm mất cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường.
Đồng thời do đồng tiền đang bị
mất giá nên không ai muốn
giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị
đẩy ra kênh lưu thông. Do có
nhiều người tham gia vào lưu
thông nên lĩnh vực này trỏ nên
hỗn loạn, tốc độ lưu thông tiền
tăng vọt và điều này càng thúc
đẩy lạm phát gia tăng.
• Tác động đến lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng: Lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng bị thu hẹp.
Lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của
người đi vay, cộng với việc giảm sút quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi
suất tiền gửi không làm an tâm những các nhân, doanh nghiệp đang có lượng tiền
nhàn rỗi trong tay. Ngân hàng gặp khó khăn trong viêc huy động vốn, hệ thông
ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Lãi suất thực = lãi suất
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Khi tỷ lệ lạm phát cao, muốn lãi suất thực tế ổn định
thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên
cùng với tỷ lệ lạm phát. Trong khi đó,
người đi vay là những người có lợi từ sự
mất giá của đồng tiền. Do vậy hoạt động
của hệ thống ngân hang không còn bình
thường nữa, chức năng kinh doanh tiền
tệ bị hạn chế.
• Tác động đến cán cân ngân sách-
chính sách tài chính của nhà nước:

Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa. Khi lạm
phát xảy ra thì những thộng tin trong xã hội bị phả hủy do biến động của giá cả và
làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó khó cố thể phân biệt được doanh nghiệp làm
ăn tốt hay kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, giảm các nguồn thu. Do
đó, các khoản chuyển nhượng, trợ cấp, phúc lợi xã hội hay các khoản đầu tư của
nhà nước trong các ngành nghề, lĩnh vực đều bị cắt giảm. Một khi ngân sách nhà
nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiên và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ
không có điều kiện thực hiện.
• Lạm phát có xu hướng phân phối lại của cải từ những người có tài sản với lãi
suất danh nghĩa cố định sang tay những người có những khoản nợ với lãi suất
danh nghĩa cố định.
1.5.3 Tác động tích cực:
• Điều chỉnh thị trường lao động: Keynes cho rằng việc điều chỉnh tiền lương danh
nghĩa xuống sẽ chậm. Nó có thể dẫn tới trạng thái mất cân bằng kéo dài và tỷ lệ
thất nghiệp cao trong thị trường lao động. Bởi vì lạm phát sẽ làm giảm tiền lương
thực tế khi tiền lương danh nghĩa được giữ ở mức ổn định, Keynes cho rằng một
số lạm phát sẽ tốt cho nền kinh tế, bởi vì nó sẽ cho phép thị trường lao động đạt
được trạng thái cân bằng nhanh hơn.

• Giảm nợ :Các chủ nợ, những người có khoản nợ với tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cố
định sẽ bị giảm tỷ lệ lãi suất “thực tế” khi tỷ lệ lạm phát tăng. Tỷ lệ lãi suất “thực
tế” của một khoản vay bằng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát.[tỷ giá
không có thực – tỷ giá thảo luận] (R=n-i). Ví dụ, nếu bạn vay tiền với tỷ lệ lãi suất
đưa ra là 6% và tỷ lệ lạm phát là 3%, tỷ lệ lãi suất thực tế mà bạn sẽ trả cho khoản
vay là 3%. Điều này cũng sẽ đúng khi bạn vay tiền với tỷ lệ lãi suất cố định là 6%
và tỷ lệ lạm phát tăng tới 20% bạn sẽ có tỷ lệ lãi suất thực tế là -14%. Các ngân
hàng và các chủ cho vay khác điều chỉnh rủi ro lạm phát này hoặc bằng cách tính
phí lạm phát trong chi phí cho vay tiền hoặc bằng cách tạo ra một tỷ lệ lãi suất ban
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1

đầu cao hơn hoặc bằng cách quy định một tỷ lệ lãi suất biến đổi.

• Phạm vi đề phòng:Những công cụ chủ yếu để kiểm soát cung tiền là khả năng xác
định tỷ lệ chiết khấu, tỷ lệ mà ở đó các ngân hàng có thể mượn tiền của ngân hàng
trung ương, các hoạt động thị trường mở, đó là sự can thiệp của ngân hàng trung
ương vào thị trường trái phiếu với mục đích tác động đến tỷ lệ lãi suất danh nghĩa.
Nếu một nền kinh tế tự thấy nó đang ở trong giai đoạn suy thoái với tỷ lệ lãi suất
danh nghĩa thấp hoặc thậm chí bằng không, thì khi đó ngân hàng không thể giảm
những tỷ lệ này (bởi vì tỷ lệ lãi suất danh nghĩa không thể âm) để kích thích nền
kinh tế - tình trạng này được xem như là một bẫy tiền mặt. Một tỷ lệ lạm phát ở
mức vừa phải sẽ đảm bảo rằng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa sẽ luôn lớn hơn không để
nếu nhu cầu tăng thì ngân hàng vẫn có thể giảm tỷ lệ lãi suất danh nghĩa.

• Hiệu ứng Tobin:Nhà kinh tế học James Tobin, người đã từng đạt giải Nobel cho
rằng một mức độ lạm phát vừa phải có thể tăng đầu tư trong một nền kinh tế , dẫn
đến tăng trưởng nhanh hơn hoặc ít nhất cũng đạt được một mức thu nhập ổn định
cao hơn. Đó là do thực tế lạm phát làm cho lợi nhuận từ những tài sản tiền tệ giảm
so với lợi nhuận từ bất động sản chẳng hạn như vốn hiện vật. Để tránh lạm phát,
các nhà đầu tư nên thay đổi từ việc nắm giữ các tài sản như tiền (hoặc một tài sản
có dạng tương tự, nhạy cảm với lạm phát) sang đầu tư vào các dự án vốn thực tế.
1.6 Chính sách và biện pháp kiềm chế lạm phát: Phải kết hợp đồng bộ các chính
sách về tiền tệ với chính sách tài khoá và chính sách tỉ giá để nâng cao hiệu quả đầu
tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các
ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng
để mở rộng đầu tư, làm cho việc chống lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến tăng
trưởng và việc làm.
1.6.1 Biện pháp đối phó với lạm phát:
1.6.1.1Những biện pháp tình thế:
*Chính sách đóng băng tiền tệ : giảm lượng tiền trong nền kinh tế bằng cách ngưng phát
hành tiền vào kênh lưu thông. Đồng thời, dừng các nghiệp vụ làm tăng lượng cung ứng

tiền tệ như dừng các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín
dụng,dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn, không phát hành tiền bù đắp bội chi
ngân sách. Bên cạch đó còn có các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng như ngân
hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn, bán ngoại tệ , phát hành các công cụ
nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế để bù đắp cho thâm hụt ngân sách, tăng lãi
suất tiền gửi
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
*Tăng lượng hàng hóa tiêu dùng để cân đối với lượng tiền trong lưu thông bằng cách
khuyến khích tự do mậu dịch, giảm thuế quan…
*Đi vay hoặc xin viện trợ từ nước ngoài
1.6.1.2Những biện pháp chiến lược:
*Biện pháp chiến lược hàng đầu để ổn định tiền tệ trong nền kinh tế là thúc đẩy phát triển
sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa vì khi nền sản xuất phát triển sẽ tạo
tiền đề vững chắc cho sự ổn đinh tiền tệ.
*Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Đây là biện pháp
nhằm giảm thiểu khoản thâm hụt ngân sách nhà nước.
*Tăng cường công tác quản lý điều hành nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu một
cách hợp lý, chống thất thu đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản
chi ngân sách.
1.6.2 Chính sách kiềm chế lạm phát:
• Chính sách tài khóa (fiscal policy):
-Giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng ngân sách.
-Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm
soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của
các doanh nghiệp nhà nước.
-Giảm mạnh chi phí hành chính trong các
cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép
về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra
hiệu quả.

-Cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu
quả, thắt chặt những khoản chi chưa thực
sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài để thúc
đẩy tăng trưởng.
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
• Chính sách tiền tệ (monetary policy): Xuất phát từ nhận định lạm phát
thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, chúng ta cần hạn chế
lượng tiền trong lưu thông bằng cách:
-Tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái chiết khấu và hạn chế mức tăng tín dụng.
-Quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao
được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng.
-Phát hành tín phiếu và phân hạn mức mua cho các Ngân hàng Thương mại để rút bỏ
bớt tiền khỏi lưu thông.
• Biện pháp cải cách tiền tệ (currency reform): Đây là biện pháp tình thế bắt
buộc khi lạm phát ở mức độ cao mà việc vận dụng các biện pháp trên không
đưa lại kết quả mong muốn. Ở đây nhà nước huỷ hoặc thu hồi tiền cũ, phát
hành tiền mới để lập lại trật tự mới trong lưu thông tiền tệ.
1.7 Lạm phát mục tiêu:
1.7.1 Giới thiệu lạm phát mục tiêu:
Tại nhiều nước lạm phát được coi là vấn đề kinh tế - xã hội rất nghiêm trọng. Một khi
nền kinh tế có lạm phát ở mức cao độ sẽ làm giảm tiết kiệm, sụp đổ đầu tư, các nguồn
vuốn trong nước sẽ chạy ra nước ngoài. Lạm phát còn làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh
tế, mất khả năng thực hiện những kế hoạch dài hạn và tạo nên sự căng thẳng quốc gia.
Trên thế giới có nhiều nước lấy khối lượng tiền (M2 hay M3) hoặc tỷ giá làm mục tiêu
trung gian để điều hành Chính sách tiền tệ của quốc gia. Tuy nhiên sang những năm 90,
nhiều nước công nghiệp phát triển đã phá lệ truyền thống trong việc xây dựng các mục
tiêu trung gian tương tự mà tập trung tâm điểm vào chỉ số lạm phát. Cách tiếp cận mới
này tập trung vào việc kiểm soát lạm phát và được gọi là lạm phát mục tiêu, một cơ chế
điều hành chính sách tiền tệ tương đối mới. Đi đầu áp dụng là ở Niu – Dilân ( năm 1990).

Vậy tại sao phải áp dụng lạm phát mục tiêu?
Thực tế chỉ ra rằng việc mau chóng đạt được 1 vài mục tiêu ( tạo thêm việc làm hoặc tăng
trưởng kinh tế…) với sự trợ giúp của chính sách tiền tệ mở rộng sẽ không tránh khỏi lạm
phát gia tăng dẫn đến việc xung đột nguyên tắc ổn định giá. Từ đó nhận ra rằng đạt được
ổn định giá mới là yếu tố tiên quyết thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hay nói cách khác mục
tiêu cơ bản nhất của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả, bên cạnh đó tập trung vào các
mục tiêu kinh tế khác như tạo thêm việc làm, tạo sự nhịp nhàng giữa lao động sản xuất
và việc làm trong ngắn hạn… nhưng không được xung đột với nguyên tắc cơ bản nhất là
ổn định giá cả. Theo lời của nhà kinh tế học nổi tiếng F.Mishkin: “ Tập trung phát triển
sức mạnh kinh tế sẽ đến sau khi thực hiện các phương pháp kiềm chế lạm phát, đối với
các nước tiến hành kế hoạch hóa lạm phát… có thể kết luận rằng lạm phát mục tiêu sẽ
củng cố quá trình phát triển kinh tế và thêm vào đó kiềm chế được lạm phát”
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
Ưu việc cơ bản nhất của lạm phát mục tiêu là nó không bị can thiệp bởi các chỉ số kinh tế
vĩ mô khác như các mục tiêu trung gian truyền thống (M2, M3, tỷ giá). Một điểm khác
biệt nữa so với các cơ chế điều hành khác là nó tạo cho NHTW một sự tự do và linh hoạt
trong việc điều hành chính sách tiền tệ
1.7.2 Đặc điểm của lạm phát mục tiêu:
Lạm phát mục tiêu có thể được miêu tả như một cơ chế điều hành chính sách tiền tệ dựa
trên nền tảng việc sử dụng việc dự báo lạm phát làm mục tiêu trung gian. Ngân hàng
trung ương (NHTW) sẽ dự báo xu hướng lạm phát năm tới để đưa ra chỉ số lạm phát mục
tiêu ( là một con số cụ thể hay một khoảng biên độ) cho năm kế hoạch mà không có trách
nhiệm thực hiện bất kỳ một mục tiêu nào khác. Trong giới hạn của mình, NHTW có thể
sử dụng bất kỳ công cụ nào để chỉ đạt một mục tiêu duy nhất là chỉ số lạm phát mục tiêu.
Tuy nhiên không phải bất kỳ nước nào cũng có thể thực hiện được lạm phát mục tiêu.
Kinh nhiệm từ các nước áp dụng lạm phát mục tiêu đã chỉ ra sự cần thiết phải có những
điều kiện tối thiểu để áp dụng lạm phát mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ là:
• Lạm phát chỉ có thể áp dụng ở những nước mà ở đó có thể đảm bảo được lạm phát ở mức
thấp không chỉ trên hình thức mà cả trên thực tế.

• NHTW cần có một mức độc lập tương đối để thực thi chính sách tiền tệ. Mắc dù trên
thực tế không có một NHTW nào có thể hoàn toàn dộc lập khỏi sự ảnh hưởng của chính
phủ. Để thực hiện yêu cầu này, quốc gia cần từ bỏ nguyên tắc “ngân sách chi phối” cũng
như các vấn đề thuộc chính sách tài khóa không được gây bất cứ ảnh hưởng nào đến
chính sách tiền tệ và các thị trường tài chính trong nước phải có đủ độ sâu để “nuốt
chửng” các đợt phát hành nợ của chính phủ. Chính phủ phải có cơ sở nguồn thu rộng rãi
và không đưa vào hệ thống nguồn thu bù đắp của chính phủ là nguồn thu từ in tiền.
• NHTW phải có khả năng thực hiện lạm phát mục tiêu và không có trách nhiệm với bất
kỳ mục tiêu khác như: tiền lương, mức thất nghiệp hay tỉ giá
Lạm phát mục tiêu cũng có một số nhược điểm khi việc áp cụng không thỏa mãn một số
điều kiện của nó:
• Khi năng lực điều tiết của chính sách tiền tệ không cao sẽ đẩy NHTW vào vòng lẩn quẩn
trong việc lựa chọn ưu tiên giữa các cơ chế điều hành (tỷ giá, lạm phát và khối lượng
tiền) của chính sách tiền tệ.
• Khi áp dụng lạm phát mục tiêu , NHTW sẽ phải chịu trách nhiệm chính thức trong việc
thực hiện chính sách tiền tệ để đạt được chỉ số mục tiêu dựa trên dự báo chỉ số lạm phát
do chính phủ đưa ra. Khi đó dự báo lạm phát được xem như là mục tiêu trung gian của
chính sách tiền tệ, vì vậy không ít người đã không đề cập đến lạm phát mục tiêu mà chỉ
nói đến dự báo lạm phát mục tiêu.
1.7.3 Quy trình thực hiện lạm phát mục tiêu:
Quy trình của lạm phát mục tiêu khá đơn giản, bản chất của nó bao gồm: NHTW dự đoán
xu hướng lạm phát năm sau, dự báo này được so với chỉ số mục tiêu mà NHTW mong
muốn đạt được, khoảng cách chênh lệch giữa chỉ số dự báo và chỉ số mục tiêu sẽ nói lên
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
mức độ mà chính sách tiền tệ cần điều chỉnh. Tuy nhiên trên thực tế vẫn đề kỹ thuật thực
hiện quy trình này khá phức tạp và khác nhau ở các nước. Vấn đề kỹ thuật bao gồm:
*Công bố mục tiêu lạm phát
Khi tiếp cận với vấn đề công bố chỉ số lạm phát mục tiêu, có sự khác nhau rõ rệt giữa các
quốc gia. Chỉ số lạm phát mục tiêu có thể do NHTW tự mình công bố như ở Phần Lan,

Thụy Điển, Tây Ban Nha… cũng có thể là do thỏa thuận giữa NHTW và Bộ tài chính
như ở Canada… Ở đâu tính độc lập của NHTW càng cao thì ở đó NHTW càng phải chịu
trách nhiệm quản trị cơ chế lạm phát mục tiêu.
Công bố lạm phát dự báo duy nhất sẽ giúp cho dư luận hiểu được sự mong muốn thực
hiện được chính sách tiền tệ. Nếu không sẽ làm cho xã hội hiểu lầm về tính minh bạch
của chính sách.
*Xác định chỉ số lạm phát mục tiêu
Tầm nhìn mục tiêu: Tầm nhìn mục tiêu chính là quãng thời gian mà quốc gia đó có thể
đạt được và duy trì kế hoạch mục tiêu đã đề ra. Việc xác định tầm nhìn mục tiêu phụ
thuộc rất nhiều vào tỷ lệ lạm phát tại thời điểm bắt đầu thực hiện cơ chế lạm phát mục
tiêu.
Chỉ số giá cả: Hầu hết các nước áp dụng lạm phát mục tiêu đều dùng CPI làm công cụ
nền tảng. Bởi CPI có những lợi thế riêng như : tính quãng bá rộng rãi đối với xã hội,
được công bố và tính toán thường xuyên.
1.8Giới thiệu về giảm phát: Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm
xuống liên tục. Giảm phát, do đó, trái ngược với lạm phát. Cũng có thể nói giảm phát là
lạm phát với tỷ lệ mang giá trị âm. Trong các tài liệu thống kê tình hình kinh tế chính
thức, khi đề cập đến giảm phát, người ta vẫn đặt dấu âm kèm với con số ở mục tỷ lệ lạm
phát. Giảm phát thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái hay đình đốn.
1.8.1 Nguyên nhân và tác hại:
Nguyên nhân chính của giảm phát là do tổng
cầu giảm, Có thể dùng sơ đồ AD-AS để minh
họa điều này. Ban đầu tổng cầu tương ứng với
đường AD. Điểm cân bằng của nền kinh tế là
điểm E tại giao điểm của hai đường AD và
đường AS (đường tổng cung). Sau đó, tổng
cầu giảm, đường AD dịch chuyển song song
sang trái thành đường AD' cắt đường AS ở
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1

điểm E'. E' là điểm cân bằng mới của nền kinh tế và so với điểm cân bằng cũ E, sản
lượng và mức giá chung đều giảm.
1.8.2 Tác động tích cực và tiêu cực của giảm phát:
• Tác động tích cực: giảm phát tốt xảy ra trong môi trường cởi mở hơn , các mức giá bị
nhà độc quyền đẩy lên cao nay phải giảm dưới áp lực cạnh tranh .
- Một tình huống khác là trong thị trường tự do, những người sản xuất với năng suất cao
hơn sẽ vươn lên , giá thành sản phẩm sẽ giảm xuống, giá hang giảm làm người tiêu dùng
mua nhiều hơn, kết quả là giá thành mỗi đơn vị sản phẩm càng giảm.
• Tác động tiêu cực: giảm phát không tốt xảy ra khi giá giảm nhưng số hàng bán được
không tăng. Các công ty phải giảm quy mô sản xuất và sa thải bớt công nhân. Trước nguy
cơ mất việc, mọi người sẽ tiết kiệm nhiều hơn và chi tiêu ít hơn. Kết quả là giảm phát trở
nên trầm trọng.
-Dạng giảm phát tồi tệ hơn là khi các doanh nghiệp kém hiệu quả được trợ giá để tiếp tục
hoạt động. Để cạnh tranh với các doanh nghiệp này, các công ty khỏe mạnh phải hạ giá
bán và chẳng mấy chốc cũng trở nên ốm yếu.
-giảm phát là tồi tệ nhất khi quá nhiều vốn và vốn vay ào ạt đổ vào một cách lạc quan ,
làm cho cung vượt xa cầu. Hàng không bán được nhưng nợ vẫn phải trả, cả các công ty
tốt cũng có nguy cơ phá sản.
1.8.3Phòng và chống giảm phát:
Để thoát khỏi tình trạng giảm phát, cần thực hiện chính sách tái khuếch trương tiền tệ
thông qua các biện pháp như tăng lượng cung tiền, giảm thuế, hay điều chỉnh lãi suất.
Phần 2. Lạm phát và chính sách điều
hành lạm phát ở Việt Nam.
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
(inflation and inflationary policies
operating in VietNam)
Trong những thập kỷ qua, đặc biệt là sau năm 1970, hầu hết các nuớc công nghiệp phát
triển đều phải đuơng đầu với tình trạng lạm phát cao kéo dài trong một số năm và một số
buớc kém phát triển thậm chí còn trải qua siêu lạm phát. Một loạt các nuớc Mỹ La- Tinh

đã lâm vào lạm phát rất cao trong những năm 1980 do ảnh huởng của khủng hoảng nợ
bùng nổ vào năm 1982. Việt Nam cũng như phần lớn các nuớc trong giai đoạn sau 1975
và đầu của quá trình chuyển đổi từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
truờng đều trải qua lạm phát cao.
Năm
Tỷ lệ lạm
phát (%)
Tỷ lệ tăng
trưởng (%)
Năm
Tỷ lệ lạm
phát (%)
Tỷ lệ tăng
trưởng (%)
1986 774,7 2,84 1998 9,2 5,76
1987 223,1 3,63 1999 0,1 4,77
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
1988 393,8 6,01 2000 -0,6 6,79
1989 34,7 4,68 2001 0,8 6,89
1990 67,1 5,09 2002 4,0 7,08
1991 67,5 5,81 2003 3,0 7,34
1992 17,5 8,70 2004 9,5 7,79
1993 5,2 8,08 2005 8,4 8,4
1994 14,4 8,83 2006 6,6 8,2
1995 12,7 9,54 2007 12,6 8,5
1996 4,5 9,34 2008 22,97 6,23
1997 3,6 8,15
2.1 Lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 1986 -2008
2.2 lạm phát và tăng trưởng kinh tế việt nam 1991-2008

2.1 Việt Nam thời kỳ 1986 – 1990: Lạm phát ở Việt Nam đã có từ lâu song ở đây
chúng tôi muốn nói đến thời kỳ 1981-1988 trong thời kỳ 1976-1980, lạm phát ở Việt
Nam “ ngầm”, nghĩa là tuy chỉ số giá cả do nhà nước ấn định tăng không nhiều, nhưng
chỉ số giá cả ở thị trường tự do tăng khá cao, mức tăng giá cả đã vượt xa mức tăng giá trị
tổng sản lượng, cũng như thu nhập quốc dân.
2.1.1 Thực trạng:
Bước vào những năm 80, lạm phát đã bột phát “công khai”, và trở thànhlạm phát phi mã
với mức tăng giá 3 chữ số. Lạm phát ở Việt Nam đã ở mức phi mã, năm cao nhất đã đạt
tới chỉ sốtăng giá 557% vượt qua mức lạm phát phi mã. Song những biểu hiện và tác hại
của nó không kém gì siêu lạm phát.
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
Thứ nhất : từ bảng 2.1 ta thấy lạm phát ở việt nam thời kỳ này tăng cao và không ổn định.
Thứ hai:tốc độ lưu thông tiền tệ tăng nhanh vì dân chúng không ai muốn giữ tiền,
người ta bán xong hàng phải mua ngay hàng khác, hoặc vàng hoặc đô la, không ai dám
giữ tiền lâu trong tay, vì tốc độ mất giá của nó quá nhanh.
Thứ ba: Nhưng tiền lương thực tế vẫn giảm mạnh vì nhà nước đã không khống chế được
thị trường tự do. Giá nhà nước tăng một lần thì giá thị trường tự do tăng 1, 5 lần. Nhà
nước lại không cung cấp đủ hàng cho dân cư theo giá nhà nước, nên mọi người phải mua
hàng ngoài thị trường tự do với giá cao hơn, mặt khác những người được nhà nước bù giá
chỉ là những người làm trong khu vực nhà nước còn số đông dân cư thì không được bù giá
như vậy.
Thứ tư: các yếu tố của thị trường Việt Nam bị thổi phồng và bóp méo. Do giá cả nhà
nước định đã không phải là giá cả thị trường, luôn thấp hơn giá cả thị trường tự do, và lại
tăng theo từng chu kỳ, nên đã khuyếnkhích xu hướng đầu cơ và tích trữ hàng hoá kiếm lợi.
2.1.2 Nguyên nhân: Chính chế độ độc quyền và công hữu tràn lan cho đến cơ chế quan
liêu bao cấp đã là một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa nền kinh tế Việt Nam tới
tình trạng kém hiệu quả và lạm phát cao.
- Nền kinh tế đóng cửa và phụ thuộc một chiều vào các nguồn tài trợ bên ngoài.
- Nền kinh tế mà cơ cấu của nó bao gồm những ngành kém hiệu quả được ưu tiên phát triển.

- Lạm phát của một nền kinh tế chịu hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài
nhiều năm. Do vậy những khoản chi tiêu cho quốc phòng lớn, những khoản chi phí đã
làm tăng sự thâm hụt ngân sách và gia tăng lạm phát.
2.1.3 Chính sách kiềm chế lạm phát: Để kiềm chế lạm phát trong thời kỳ này thì chính
phủ đã thực hiện nhiều chính sách kiềm chế lạm phát nhưng không hiệu quả, trong đó nhà
nước ra lệnh NHTW phát hành tiền ra nền kinh tế để bù đắp thâm hụt ngân sách đã làm
cho lạm phát tăng cao.
2.2 Việt Nam thời kỳ 1990 – đầu 2007: Giai đoạn 1995-2007, lạm phát chỉ dừng lại ở 1
con số, kinh tế ổn định.Việt Nam đã sớm thoát khỏi tình trạng lạm phát phi mã và điều
chỉnh mức lạm phát ở mức vừa phải ổn định nền kinh tế vĩ mô.Do nhà nước đã thực hiện
các chính sách như:
- Xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp , thông qua hệ thống hai giá chuyển mạnh
sang cơ chế một giá kinh doanh phù hợp với quan hệ cung cầu và thị trường.
- Chính sách quản lý chặt chẽ khối lượng tiền tệ tăng thêm, mở rộng việc phát hành các
tín phiếu, kỳ phiếu để thu hút mạnh số tiền nhàn rỗi trong dân.
- Chính sách tiền tệ, tín dụng tăng lãi suất huy động tiết kiệm lên cao.
2.3 Việt Nam thời kỳ cuối 2007 -2008: đến tháng 12/2007 thì lạm phát đã tăng lên 2
con số: 12,63%.
2.3.1 Nguyên nhân khách quan: Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu:
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
- Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng.
- Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn
cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh
trên thế giới – là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích
đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp.
-Một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá dầu và giá
lương thực – thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát
toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ chốt
để kiềm chế lạm phát.

 Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh thế giới như nhau, tại sao các nước
khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia lại có mức lạm phát thấp hơn so với
lạm phát của Việt Nam ?
2.2 Bức tranh lạm phát của một số nước châu Á (đến 6/2008)
2.3.2 Nguyên nhân chủ quan: Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam:
Nhóm 2
Financial and Monetary 09DKTC1
- Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm
giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt
thép, phân bón, thuốc trừ sâu – là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản
xuất.Mặc dù nhà nước đã cố gắng kiềm chế giá các nguyên vật liệu này.
- Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không
những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề làm cho
nguồn cung lương thực – thực phẩm bị sụt giảm.
- Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế Với mục tiêu này đã khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ
nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân
từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%.
- Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh→ cung tiền ở Việt Nam tăng → từ
đó buộc Ngân hàng Nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa
thêm tiền đồng vào lưu thông:
2.3.3 Các chính sách kiềm chế lạm phát:
- NHNN đã thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ với mong muốn nhanh chóng đưa
chỉ số giá tiêu dùng giảm xuống, bao gồm:
+ Tăng dự trữ bắt buộc (DTBB) 2 lần từ 5%-10%-11% đối với VND và từ 8%-10%-11%
đối với ngoại tệ.
+ Tăng tất cả các mức lãi suất cơ bản từ 8,25%-8,75%, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%-7,5%,
lãi suất tái chiết khấu từ 4,5%-6%.
+Liên tục hút tiền về trên Thị trường mở; NHNN phát hành tín phiếu bắt buộc khoảng

trên 20 nghìn tỷ đồng.
+Giảm bong bóng bất động sản.
Nhóm 2

×