Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình tổng hợp những quy tắc bảo hiểm xã hội ở nước ta phần 1 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.37 KB, 10 trang )


1

LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra
đời sớm ở nước ta. Đây là một loại hình bảo hiểm đặc biệt, nó ít mang tính
chất kinh doanh thương mại mà chủ yếu là tính nhân dạo và nhân văn cao
cả.
Kể từ khi ra đời đến nay, nó đã góp phần làm ổn định đời sống cho cán
bộ công nhân viên chức Nhà nước, quân nhân, những người lao động làm
việc trong các thành phần kinh tế của đất nước; ổn định chính trị – xã hội,
thúc đẩy quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc.
Hiện nay, được sự quan tâm của Nhà nước mà chính sách BHXH ngày
càng được thực hiện tốt và hiệu quả hơn với các đối tượng tham gia nói
trên. Để việc thực hiện BHXH tồn tại và phát huy được tác dụng của nó
cần phải có một quỹ BHXH và quỹ đó phải hoạt động đúng mục đích tức là
cơ quan BHXH phải thực hiện tốt công tác thu – chi quỹ BHXH.
Qua thời gian thực tập tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ em thấy
BHXH huyện Giao Thuỷ đã đạt được những kết quả thiết thực về hoạt
động thu – chi quỹ BHXH như: Chi đúng người, đúng đối tượng, kịp thời;
thu quỹ BHXH ngày càng tăng v.v…Tuy nhiên bên cạnh dó vẫn còn một
số tồn tại nhất định như: Thu BHXH chưa dứt điểm, số nợ đọng vẫn còn,
một vài cơ sở còn trốn nộp BHXH làm cho hoạt động quỹ BHXH tại phòng
BHXH huyện Giao Thuỷ chưa đạt được kết quả cao, tăng gánh nặng cho
ngân sách nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý
thu – chi quỹ BHXH như vậy, em đã chọn đề tài : “Thực trạng thu - chi
quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ (Nam Định)” với mong
Click to buy NOW!
P
D
F


-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.

c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u

-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Giáo trình tổng hợp những quy tắc bảo hiểm xã
hội ở nước ta

3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BHXH VÀ QUỸ BHXH

I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ BHXH
1 – Sự ra đời của BHXH
Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì vấn đề thuê mướn nhân
công diễn ra càng phổ biến, mâu thuẫn giữa chủ và thợ ngày càng gia tăng.
Đặc biệt khi người lao động không may gặp rủi ro, sự cố như: ốm đau,
bệnh tật, tai nạn lao động, mất việc làm…phải nghỉ việc. Khi rơi vào
những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết không những không mất đi
mà còn tăng lên, thậm chí còn phát sinh ra nhiều nhu cầu mới như: cần
được khám chữa bệnh, điều trị khi ốm đau; cần người nuôi dưỡng, chăm
sóc khi gặp tai nạn, thương tật… Tổng thời gian nghỉ việc người chủ
không trả lương, làm cho người lao động càng gặp nhiều khó khăn hơn và
không yên tâm làm việc. Vì vậy, lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công
lao động nhưng sau đó đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người lao

động có một số thu nhập nhất định để họ trang trải khi không may gặp
những khó khăn đó.
Trong thực tế, nhiều khi các rủi ro trên không xẩy ra và người chủ
không phải chi ra đồng nào nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ
phải bỏ ra một khoản tiền rất lớn mà họ không muốn. Do đó mâu thuẫn
chủ thợ càng trở nên vô cùng gay gắt. Khi những mâu thuẫn này kéo dài
Nhà nước phải đứng ra can thiệp bằng cách: buộc giới chủ phải có trách
nhiệm hơn đối với người lao động mà mình sử dụng, thể hiện ở việc phải
trích ra một phần thu nhập của mình để hình thành quỹ. Sau đó dùng
nguồn quỹ này để trợ cấp cho người lao động và gia đình họ, khi người lao
động không may gặp những rủi ro và sự cố bất ngờ. Đồng thời Nhà nước
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r

w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e


V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
LỜI MỞ ĐẦU

4
đứng ra bảo trợ cho quỹ. Bằng cách đó cả chủ và thợ đều thấy mình có lợi
và tự giác thực hiện, cuộc sống của người lao động được đảm bảo.Người

chủ được bảo vệ việc sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được
những xáo trộn không cần thiết.
Mối quan hệ ba bên nêu trên được thế giới quan niệm là BHXH cho
người lao động. Như vậy BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao
động, bằng cách thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ
sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động (nếu có), sự tài
trợ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia
đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo
quy định của pháp luật hoặc tử vong…

2 - Sự cần thiết phải có hệ thống BHXH
Trong cuộc sống cũng như trong các hoạt động sản xuất hàng ngày,
mặc dù không muốn nhưng người lao động không thể tránh khỏi hết những
rủi ro bất ngờ xảy ra như: ốm đau; bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp…Tất cả những nguyên nhân đó xảy ra đều ít nhiều làm ảnh hưởng
đến đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân cũng như gia đình; người
thân của họ.
Muốn khắc phục được khó khăn do các rủi ro nêu trên gây ra, người
lao động cần phải được sự bảo trợ của tập thể số đông. Đặc biệt để người
lao động yên tâm tham gia sản xuất tạo điều kiện phát triển kinh tế đất
nước thì nhà nước cần phải can thiệp vào nhằm làm giảm bớt những khó
khăn cho người lao động trong các trường hợp: ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động – bệnh nghề nghiệp, chết, mất việc làm khi về già…Từ đó BHXH
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X

C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o

m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t

r
a
c
k
.
c
o
m

5
được ra đời như một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội
đều cảm thấy cần phải tham gia hệ thống BHXH này.
II . VAI TRÒ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA BHXH
1 – Vai trò của BHXH
1.1) Đối với người lao động
Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá
trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá thì những "rủi ro" như ốm đau, tai nạn
lao động- bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm…lại diễn ra một cách
thường xuyên và ngày càng phổ biến hơn, phức tạp hơn. Khi những rủi ro
này xảy ra sẽ gây khó khăn cho người lao động vế cả vật chất lẫn tinh thần,
ảnh hưởng không tốt cho cả cộng đồng.
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà
nước, BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân những người lao động gặp
phải rủi ro, bất hạnh bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế,
những điều kiện lao động thuận lợi…giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm
công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai. Từ đó góp phần quan trọng
vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công việc cho xí
nghiệp nói riêng và cho toàn xã hội nó chung.
1.2) Đối với người sử dụng lao động
Để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con người và sự phát

triển của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình
lao động sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội.
Những người biết vận dụng sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, đó chính
là những người chủ sử dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh được đảm bảo thì người chủ phải tạo được mối quan hệ tốt với
người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của
mình đối với người lao động thật tốt để họ yên tâm lao động sản xuất và có
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.

d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e

w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m

6
niềm tin vào cuộc sống từ đó họ lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra
nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuát kinh doanh của người
chủ sử dụng lao động hoạt động đạt kết quả cao. Muốn vậy người chủ sử
dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho những người lao động của
mình để có thể đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người
lao động khi họ gặp những rủi ro bất chắc. Việc tham gia đóng góp BHXH
cho người lao động của người chủ sử dụng lao động là góp vào quá trình

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn,
nâng cao năng suất, hiệu quả lao động sản xuất của doanh nghiệp cũng như
nâng cao thu nhập cho người lao động và góp vào việc phát triển nền kinh
tế của đất nước.
1.3) Đối với xã hội
Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt
động dịch vụ, cơ quan BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những
dịch vụ “ bảo hiểm” cho người lao động, một loại dịch vụ mà bất cứ ai
cũng cần đến (không phải chỉ cán bộ, công nhân viên chức mới cần). Nếu
các doanh nghiệp này càng sản xuất ra nhiều loại bảo hiểm (đáp ứng đa
dạng các nhu cầu) thì giá trị của những sản phẩm dịch vụ này cũng được
tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã hội.
Thứ hai, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của
Nhà nước, BHXH sẽ “ bảo hiểm” cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ
giải quyết những “ trục trặc”, “ rủi ro” xảy ra đối với những người lao
động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả
năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến
việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực của
mình vào việc nâng cao năng suất lao động xã hội. Với sự trợ giúp của
người lao động khi gặp phải rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n

g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D

F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k

.
c
o
m

7
BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng sự
tiêu dùng cho xã hội.
Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh
mẽ tới hệ thống tài chính ngân sách Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ
ngân hàng. Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH phải tự bảo
tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình
thức đầu tư phát triển phần “ nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động
không nhỏ tới sự phát triển đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất
kinh doanh mới, việc làm mới góp phần quan trọng trong việc tạo ra việc
làm cho người lao đông. Từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp
của đất nước, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho người lao động nói riêng
và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như tổng sản phẩm quốc dân nói
chung.
Thứ tư, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công
cụ phân phối lại thu nhập giữa những nguời tham gia BHXH. Sự phân phối
lại thu nhập này được tiến hành thông qua hai cách: Phân phối lại theo
chiều ngang giữa người khoẻ và người già, người đang làm việc với người
đã nghỉ hưu, người trẻ tuổi với người lớn tuổi, giữa nam với nữ, người
đang hưởng trợ cấp với người chưa hưởng trợ cấp; phân phối lại theo
chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa
những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp. BHXH không bao
hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho
người nghèo một cách võ đoán. Ý tưởng của BHXH nhiễu điều phủ lấy giá
gương, là đoàn kết tương trợ, phát huy tính tự thân, sống hoà nhập có tình

có nghĩa giữa các nhóm, các giới bạn trong cùng cộng đồng với nhau mà
vốn là tiềm lực của dân tộc ta đã được lịch sử chứng minh.

Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u

-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w

w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m

8
2 – Những nguyên tắc của BHXH
2.1) Mọi ngưòi lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc mất việc làm đều có quyền được BHXH .
Quyền đựơc BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện
cụ thể của quyền con người. Nhưng khi muốn xây dựng hệ thống BHXH
thì đầu tiên Nhà nước phải tạo điều kiện và môi trường kinh tế xã hội, về
chính sách và luật pháp, về tổ chức và cơ chế quản lý cần thiết. Đồng thời,
những người sử dụng lao động và người lao động phải thực hiện trách
nhiệm đóng góp tài chính của mình. Không phải là cái có sẵn nên trước hết
phải tìm cách tạo ra nó. Ở mỗi nước không có sự đóng góp này thì chính
sách BHXH có hay đến mấy cũng không bao giờ có BHXH trong thực tiễn.

Vì vậy, thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính BHXH là điều kiện cơ
bản nhất để người lao động được hưởng quyền BHXH.
2.2) Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH
đối với người lao động, người lao động cũng phải tự bảo hiểm cho mình.
Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trường, trong đó Nhà
nước có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế xã hội trên phạm vi cả
nước. Với vai trò này Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của
toàn xã hội, đồng thời cũng có mọi công cụ cần thiết để thực hiện vai trò
của mình. Cùng với sự tăng trưởng sự phát triển kinh tế xã hội, cũng có
những kết quả bất lợi không mong muốn. Những kết quả bất lợi này trực
tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro cho người lao động. Khi xảy ra
tình trạng như vậy nếu không có BHXH thì Nhà nước vẫn phải chi Ngân
sách để giúp đỡ người lao động dưới một dạng khác. Sự giúp đỡ đó chẳng
những làm cho đời sống người lao động ổn định mà còn làm cho sản xuất
kinh tế xã hội của đất nước ổn định. Vì vậy, khi trong xã hội loài người
xuất hiện BHXH – một dạng đảm bảo đời sống tiến bộ hơn đối với người
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V

i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C

h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m


9
lao động- so với các dạng giúp đỡ truyền thống thì Nhà nước càng có điều
kiện và càng có trách nhiệm tổ chức và tham gia dạng hoạt động đó.
Đối với người sử dụng lao động, mọi khía cạnh đặt ra cũng tương tự
như trên nhưng chỉ trong phạm vi một số doanh nghiệp. Ở đó giữa người
lao động và người sử dụng lao động có mối quan hệ rất chặt chẽ. Người sử
dụng lao động muốn ổn định và sản xuất kinh doanh thì ngoài việc chăm lo
đầu tư để có máy móc thiết bị hịên đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm
lo tay nghề và đời sống của người lao động mà mình sử dụng. Khi người
lao động làm việc bình thường thì phải trả lương (trả công) thoả đáng cho
người lao động. Khi họ gặp rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp trong đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình lao động, với
những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm
BHXH cho họ. Chỉ có như vậy người lao động mới yên tâm tích cực lao
động sản xuất góp phần tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế cho
doanh nghiệp.
Đối với người lao động khi gặp những rủi ro không muốn và không
phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro
của bản thân. Vì thế, nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác
hỗ trợ cho mình, là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự
mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết đã Điều đó có nghĩa là bản thân
người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho
mình.
2.3) BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình
thành lên quỹ BHXH
Ở nguyên tắc trên đã thấy rõ tính khách quan của trách nhiệm phải
tham gia BHXH đối với người lao động của cả ba bên (Nhà nước, người sử
dụng lao động và người lao động) trong nền kinh tế thị trường. Biểu hiện
Click to buy NOW!

P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a

c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d

o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m

10
cụ thể của trách nhiệm này là đóng phí BHXH đầu kỳ. Nhờ sự đóng góp đó
mà phương thức riêng có của BHXH là dàn trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo
điều kiện để phân phối thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang mới
được thực hiện. Hơn nữa nó còn tạo ra mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ
giữa trách nhiệm với quyền lợi góp phần phòng chống những hiện tượng
nhiễu trong hệ thống hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho mọi người có
liên quan này.
2.4) Phải tuân theo quy luật số lớn
BHXH là một trong các nguyên tắc, các cơ chế an toàn xã hội, trước
hết là sự trợ giúp cho người lao động trong các trường hợp bị giảm hoặc bị
mất thu nhập tạm thời khi họ bị ốm đau, thai sản… hoặc hết tuổi lao động
theo quy định của pháp luật. Trong cả cuộc đời của người lao động thường
thì thời gian lao động dài hơn thời gian người lao động bị tạm thời mất khả
năng lao động hoặc thời gian từ khi hết tuổi lao động đến lúc chết. Vả lại
tất cả những người tham gia BHXH cùng một lúc có nhu cầu bảo hiểm, vì

vậy nguyên tắc trước hết của BHXH là lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời
lao động có thu nhập để bảo hiểm cho khi giảm hoặc mất khả năng lao
động.
2.5) Kết hợp giữa các loại lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng
nhu cầu BHXH
Trong BHXH cả ba bên tham gia: Người sử dụng lao động, người lao
động và Nhà nước đều nhận được nhiều lợi ích. Nhưng lợi ích nhận được
không phải luôn luôn như nhau, thống nhất với nhau mà trái lại có lợi ích
có lúc lại mâu thuẫn với nhau. Chẳng hạn việc tăng mức trợ cấp hoặc tăng
thời hạn nghỉ làm việc và hưởng trợ cấp BHXH sẽ rất có lợi cho người lao
động nhưng lại gây khó khăn cho người chủ sử dụng lao động, nếu giảm
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r

w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e


V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m

11
hậu quả bất lợi cho người sử dụng lao động thì Nhà nước lại phải gánh
chịu.
2.6) Mức trợ cấp BHXH phải đảm bảo thấp hơn tiền lương khi đang đi

làm, nhưng cũng phải lớn hơn mức lương tối thiểu
Trợ cấp BHXH nói ở đây là loại trợ cấp thay thế cho tiền lương như
trợ cấp ốm đau, thai sản, hưu trí tuổi già chứ không phải là trợ cấp bù đắp
hoặc trợ cấp BHXH. Như đã biết, tiền lương là khoản tiền mà người sử
dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện công việc nhất định.
Nghĩa là, chỉ người lao động có sức khoẻ bình thường, có việc làm bình
thường và thực hiện công việc nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm
đau, tai nạn hay tuổi già không thực hiện được công việc nhất định hoặc
không việc làm mà trước đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH
và trợ cấp đó không thể bằng tiền lương tạo ra được. Còn nếu cố tìm cách
trả trợ cấp BHXH bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một người lao
động nào phải cố gắng có việc làm và tích cực làm việc để có lương mà
ngược lại họ sẽ cố gắng ốm đau, thai sản để hưởng trợ cấp. Hơn nữa cách
lập quỹ, phương thức dàn trải rủi ro của BHXH cũng không cho phép trả
trợ cấp BHXH bằng tiền lương lúc đang đi làm. Vì trả trợ cấp bằng tiền
lương thì chẳng khác gì bị rủi ro đem rủi ro của mình dàn trải hết cho
những người khác.
Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang
đi làm. Tuy nhiên do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức
trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày.
Chỉ khi đó BHXH mới có tính nhân văn cao cả.
2.7) Kết hợp giữa BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện
Bảo hiểm xã hội áp dụng hình thức bắt buộc để đảm bảo quy luật số
lớn và số có hệ số an toàn cao nhằm đảm bảo cuộc sống của người lao
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X

C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o

m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t

r
a
c
k
.
c
o
m

×