Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Chất hữu cơ trong tế bào vi sinh vật docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.98 KB, 6 trang )

Chất hữu cơ trong tế bào vi sinh vật
Chất hữu cơ trong tế bào vi sinh vật chủ yếu được
cấu tạo từ các
nguyên tố C, H, O, N, S, P Riêng 4 nguyên tố C, H,
O, N chiếm 90 – 97% toàn bộ
chất khô của tế bào. Đây là những nguyên tố chính
tham gia cấu tạo protein, axit
nucleic, lipit, hydratcacbon.
30
*Protein: cấu tạo chủ yếu bởi các nguyên tố : C (50 –
55%), O (21- 24%), N
(15 – 18%), H (6,5 – 7,3%), S (0 – 0,24%), ngoài ra
còn có một lượng rất nhỏ các
nguyên tố P, Fe, Zn, Cu, Mn, Ca, Protein là thành
phần chủ yếu của nguyên sinh
chất, nó chiếm khoảng 50 – 80% chất khô của tế bào.
Protein tham gia vào cấu trúc
nhân, nguyên sinh chất, màng nguyên sinh chất và
thành tế bào. Protein có cấu trúc
bậc 1, 2, 3, 4, các cấu trúc bậc 2, 3, 4 làm cho protein
có cấu trúc không gian, chính
nhờ cấu trúc không gian này mà protein đảm nhận
được những chức năng hết sức
phức tạp trong mọi hoạt động sống của sinh vật.
* Lipit: Lipit trong tế bào vi sinh vật thường có 2
nhóm: lipit đơn giản và
lipit phức tạp (lipoit). Lipit tập trung nhiều ở màng tế
bào chất. Trong tế bào lượng
lipit ít (chỉ chiếm 3 – 7% khối lượng khô của tế bào)
nhưng nó có ý nghĩa lớn đối
với đời sống tế bào, nó là chất dự trữ trong tế bào,


đồng thời là nhân tố tích cực
chống đỡ các độc tố và các kháng sinh xâm nhập vào
cơ thể.
- Lipit đơn giản (este của glyxerin và axit béo) chủ
yếu là
triaxinglixerol.
- Lipit phức tạp bao gồm photpholipit, glicolipit.
* Gluxit: là nguồn dự trữ năng lượng và nguồn
cacbon chủ yếu của tế bào vi
sinh vật. Nó có vai trò quan trọng trong quá trình trao
đổi chất của vi sinh vật.
Gluxit tham gia vào cấu tạo axit nucleic, vào cấu trúc
thành tế bào, vào vỏ nhầy
của vi sinh vật. Lượng gluxit trong tế bào vi sinh vật
cũng như động, thực vật ít hơn
so với các chất khác, chỉ chiếm 12 – 18% khối lượng
khô của tế bào. Trong tế bào
vi sinh vật, gluxit có thể tồn tại ở dạng monosaccarit,
oligosaccarit và polisaccarit.
* Axit nucleic: cấu tạo chủ yếu từ N (1 – 16%), P (9
– 10%), phần còn lại là
C, H, O. Axit nucleic có 2 loại: ADN và ARN. Axit
nucleic có hai chức năng khá
quan trọng: trực tiếp tham gia quá trình sinh tổng hợp
protein và mang mật mã di
truyền – một đặc điểm cực kỳ quan trọng đối với cơ
thể sống.
* Enzim: trong cơ thể vi sinh vật có hàng trăm loại
enzim, chúng hoạt động
rất nhịp nhàng, nhờ có hoạt động của enzim mà các

quá trình tổng hợp, phân giải
trong cơ thể vi sinh vật diễn ra một cách bình thường.
Dựa vào bản chất hoá học có thể chia enzim làm 2
loại: enzim đơn giản
(tương ứng với protein đơn giản) và enzim phức tạp
(ngoài phần protein còn có
phần hữu cơ không protein gọi là nhóm thêm hay
coenzim hay cofecmen).
Dựa vào vị trí tác dụng của enzim đối với cơ thể vi
sinh vật người ta chia
enzim làm 2 loại, đó là enzim nội bào (endoenzim) và
enzim ngoại bào (exoenzim).
* Vitamin: rất nhiều vi sinh vật có khả năng tổng hợp
vitamin. Sinh khối vi
sinh vật thường chứa hầu hết các loại vitamin chủ
yếu với hàm lượng cao. Nấm men
thường chứa nhiều vitamin hơn các vi sinh vật khác.
Phần lớn các loại coenzim là
vitamin hoặc các dẫn xuất của vitamin. Vitamin rất
cần thiết cho vi sinh vật.
Vitamin được xem như là những chất xúc tác sinh
học và một số lớn vitamin là
nguyên liệu để cấu tạo enzim. Nhiều vitamin có vai
trò rất quan trọng trong các quá
trình oxy hoá khử và trong quá trình hoạt hoá axit
amin. Nhiều vitamin tham gia

×