Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Giáo trình tổng hợp những thuật ngữ kinh doanh và cách dùng nó trong giao tiếp phần 3 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.43 KB, 7 trang )


16

AD'
P AS
LR

AS
SR

AD




Q* Q
Nh vậy sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa và do đó tỷ giá hối
đoái thực tế sẽ tác động đến cân bằng cán cân thơng mại, do đó tác động
đến sản lợng, việc làm giá cả.
Hãy mở rộng tác động của tỷ giá hối đoái với cán cân thanh toán, ở
đây có mối quan hệ giữa lãi xuất và tỷ giá hối đoái.
Khi lãi suất tăng lên, đồng tiền nội địa trở nên có giá trị hơn, tỷ giá
hối đoái của đồng nội địa tăng lên, trong điều kiện t bản vận động một
cách tự do thì t bản nớc ngoài sẽ tràn vào thị trờng trong nớc, giả định
cán cân thơng mại là công bằng thì cán cân thanh toán là thặng d.
Nh vậy tỷ giá hối đoái là một biến cố rất quan trong, tác động đến
sự cân bằng của cán cân thơng mại và cán cân thanh toán, do đó tác động
đến sản lợng, việc làm cũng nh sự cân bằng của nền kinh tế nói chung.
Chính vì vậy, một số nớc trên thế giới vẫn còn duy trì tỷ giá hối đoái cố
định, còn phần lớn các nớc theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có
quản lý nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái chỉ biến động trong một phạm vi nhất


định, để ổn định và phát triển nền kinh tế.
IV. Các chế độ tỷ giá hối đoái
Hiện nay, trên thế giới và đang tồn tại nhiều loại chế độ tỷ giá hối
đoái biến tớng từ hai hình thức cơ bản là cố định và thả nổi. Trong thế giới
mà sự phụ thuộc lẫn nhau càng tăng, việc lựa chọn một chế độ ngoại hối
phù hợp với bối cảnh quốc tế, điều kiện cụ thể từng bớc và đáp ứng điều
chỉnh kinh tế vĩ mô, nhất là với các nớc đang thực hiện chuyển đổi cơ chế
thực sự là vấn đề nan giải.
1. Tỷ giá hối đoái cố định bản vị vàng

17

Theo chế độ bản vị vàng,tỷ giá hối đoái đợc qui định căn cứ vào
hàm lợng vàng của các đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế thị trờng hiện
đại, khi thơng mại quốc tế tăng lên cùng với hoạt động đầu cơ, chế độ bản
vị vàng này không đáp ứng đợc nhu cầu phát triển và các nớc thôi áp
dụng từ năm 1971.
2. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp
Loại tỷ giá hối đoái này đợc áp dụng tại các nớc Xã hội chủ nghĩa
thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp
thờng chênh lệch nhiều lần so với tỷ giá hối đoái thị trờng, không có vai
trò là công cụ điều tiết vĩ mô đối với xuất nhập khẩu, loại tỷ giá hối đoái
này đợc áp dụng tại Việt Nam trớc năm 1989
3. Tỷ giá hối đoái thả nổi tự do
Theo chế độ tỷ giá hối đoái này, mức tỷ giá hối đoái đợc quyết định
hoàn toàn bởi các lực lợng cung cấp cầu về ngoại tệ. Trong hệ thống này
chính phủ giữ thái độ thụ động, để cho thị trờng ngoại tệ đánh giá giá trị
của ngoại tệ - loại tỷ giá hối đoái này ít đợc áp dụng vì các thị trờng tiền
tệ thờng không hoàn hảo và do vậy luôn cần có vai trò can thiệp của nhà
nớc

4. Tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không cam kết duy trì một tỷ lệ cố định
với ngoại tệ, mà thả nổi đồng tiền của mình và có biện pháp can thiệp mỗi
khi thị trờng trở nên (mất trật tự) , hoặc khi tỷ giá hối đoái đi chệch xa
mức thích hợp loại tỷ giá hối đoái này hiện đang đợc áp dụng tại các nớc
T Bản Chủ Nghĩa, nơi mà lạm phát đạt thấp, các thị trờng phát triển ở
trình độ cao.
5. Tỷ giá hối đoái ổn định có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không để ngoại tệ trôi nổi tự do, mà can
thiệp vào thị trờng ngoại tệ bằng cách mua bán ngoại tệ nhằm ổn định tỷ
giá qui định. Sau mỗi thời gian nhất định, mức tỷ giá hối đoái lại đợc điều
chỉnh cho phù hợp và duy trì ổn định.
* Luận cứ lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái
Sự quản lý tối u của tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào các mục tiêu kinh
tế của các nhà hoạch định chính sách, vào nguồn gốc của các cơn sốc đối
với nền kinh tế và đặc trng cơ cấu của nền kinh tế đang xét. Vì vậy các giả
thiết khác nhau về nhân tố đó có thể dẫn đến sự thay đổi về mức độ tối u
của chế độ tỷ giá hối đoái. Vấn đề tiêu chuẩn tối u về nguyên tắc cần phải
đợc cụ thể hoá. Trong thực tế các phân tích hiện đại đã tập trung vào tiêu

18

chuẩn tơng đối hẹp của ổn định kinh tế vĩ mô, đợc định nghĩa là cực tiểu
sai phơng của tổng sản phẩm thực, mặt bằng giá hoặc tiêu dùng thực trớc
cơn sốt ngẫu nhiên có tính chất tạm thời.
Một kết quả quan trọng của nghiên cứu lý thuyết là nói chung tỷ giá
hối đoái cố định cực đoan lẫn tỷ giá hoàn toàn linh hoạt đều không phải là
tối u đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Thật vậy một mức độ tơng đối của sự
linh hoạt lại có nhiều khả năng thành công hơn trong việc ổn định nền kinh
tế khi cần phản ứng lại các cơn sốc ngẫu nhiên. Các tỷ giá hối đoái " có

quản lý " hoặc " cố định linh hoạt" trở thành chế độ tỷ giá phổ biến nhất ở
các nớc đang phát triển, loại cơn sốc mà nền kinh tế thờng phải đối phó
trở thành vấn đề cốt lõi cần xem xét khi định liệu tỷ giá hối đoái cố định
hay điều chỉnh. Các nghiên cứu trớc đây đã nhận dạng một số tiêu chuẩn
quản lý để phản ứng lại các cơn sốc trong nớc. Các cơn sốc nội địa đòi hỏi
áp dụng. Tỷ giá hối đoái cố định hay linh hoạt phụ thuộc vào cơn sốc là tiền
tệ hay thực tế khi cơn sốc là tiền tệ thì quan điểm xa nay là duy trì tỷ giá
cố định sẽ co hiệu lực hơn trong việc ổn định tổng sản phẩm. Vì cung tiền
tệ là biến nội sinh dới chế độ tỷ giá hối đoái, các đột biến trong thị trờng
tiền tệ nội địa đơn giản sẽ đợc hấp thụ bởi thay đổi của dự trữ ngoại tệ mà
không ảnh hởng đến các điều kiện cung cầu của thị trờng hàng hoá, là
nơi quy định mức độ biến động kinh tế. Đổi lại khi cơn sốc là thực tế thì tỷ
giá hối đoái cần phải đợc điều chỉnh ổn định tổng sản phẩm bằng cách tạo
nên (hoặc giảm) cầu bên ngoài. Nói chung, theo mục tiêu của chính sách
nhằm vào ổn định tổng sản phẩm trớc các cơn sốc tạm thời thì tỷ giá hối
đoái cần phải đợc điều chỉnh khi cơn sốc xuất phát từ bên ngoài hoặc từ thị
trờng.
Các yêu cầu khi lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái: một số tiêu chuẩn
quy định tỷ giá phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc lên nền kinh tế cũng
nh đặc trng cơ cấu của nền kinh tế. Tuy vậy trong thực tế khó mà áp dụng
đó cho các trờng hợp cụ thể. Các khó khăn đó không những lên quan đến
các vấn đề thực tiễn, sự nhận biết nguồn gốc các cơn sốc và các đặc trng
cơ cấu mà còn liên quan đến mâu thuẫn tiềm tàng giữa các mục tiêu chính
sách khác nhau. Tiêu chuẩn để lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái thích
hợp còn phụ thuộc vào các mục tiêu chính sách do chính phủ đặt ra. Các
nghiên cứu về các lợi thế của tỷ giá hối đoái cố định và linh hoạt hầu nh là
dành cho trờng hợp một nền kinh tế nhỏ không trải qua lạm phát cao và
nói chung ở trạng thái cân bằng ngoại và chịu tác động của các cơn sốc tạm
thời. Cân bằng tập trung vào ổn định tổng sản phẩm, thay cho cân bằng cán
cân thanh toán quốc tế làm chức năng hấp thụ các cơn sốc, để triệt tiêu tác

động của các thay đổi đột biến lên trên tổng sản phẩm. Tuy vậy, mâu thuẫn
của chính sách có thể xảy ra khi cán cân thanh toán quốc tế cũng đợc coi
là mục tiêu chính sách. Mâu thuẫn này đặc biệt rõ nét ở các nớc đang phát
triển, là những nớc thờng thiếu dự trữ ngoại tệ. Nếu vị trí cán cân thanh
toán quốc tế tạo nên sự hạn chế thì tỷ giá hối đoái cần phải đợc dùng nh

19

là công cụ để tạo mục tiêu cán cân thanh toán quốc tế thay đổi cho ổn định
tổng sản phẩm. Mặt khác khi lạm phát là vấn đề nổi lên hàng đầu thì tỷ giá
hối đoái có thể là chức năng hỗ trợ cho việc ổn định mặt bằng giá cả.
V- Sự can thiệp của nhà nớc vào tỷ giá hối đoái:
Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự kiểm soát
với một mức tỷ giá gọi là tỷ giá chính thức đợc công bố bởi ngân hàng nhà
nớc, cùng với một biên độ quy định cho các mức tỷ giá giao dịch trên thị
trờng so với tỷ giá chính thức đòi hỏi chính phủ nói chung và ngân hàng
nhà nớc nói riêng cần phải có sự can thiệp điều phối thị trờng để duy trì
biên độ quy định trong hoạt động can thiệp đó cần phải chú ý một số vấn đề
sau:
+ Ngân hàng nhà nớc luôn phải xác định mình là một thành phần
chủ chốt, thờng trực của các giao dịch trên thị trờng liên ngân hàng.
+ Trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói chung và thị
trờng ngoại hối nói riêng, ngân hàng nhà nớc cần có sự phân tích rõ ràng
giữa hai chức năng: chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nớc với chức
năng can thiệp thị trờng. Trong đó chức năng ngân hàng đại diện cho nhà
nớc là để thực hện các chức năng giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu
chi của nhà nớc và giao dịc tăng tích luỹ ngoại tệ theo mục tiêu. còn chức
năng can thiệp thị trờng là nhằm điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trờng.
+ Ngân hàng nhà nớc phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và
tăng cờng bộ khung của thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng

số lợng thành viên trên thị trờng. Từng bớc cho các tổ chức tín dụng
không phải là ngân hàng thơng mại tham gia đầy đủ các nghiệp vụ nh kỳ
hạn hoán đổi mặc dù có thể giới hạn ở việc các giao dịch này chỉ đợc thực
hiện voí các ngân hàng thơng mại và ngân hàng nhà nớc.
+ Ngân hàng nhà nớc và cac bộ ngành phải có kế hoạch dự tính
trớc các giao dịch của mình một cách cụ thể và không để các thành phần
kinh tế khác bật ra khỏi thị trờng chính thức bằng cách các giao dịch của
nhà nớc không chỉ đợc thực hiện trên thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng
mà còn phải mở rộng giao dịch trên khu vực tự do của thị trờng.
+ Chú trọng hơn đến việc hoàn thiện và phát triển các công cụ của thị
trờng ngoại tệ mà trớc mắt là các nghiệp vụ đang hiện tồn tại nh các
nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ngoại tệ hoán đổi bằng các biện pháp cụ thể
nh: ngân hàng nhà nớc, cơ quan có trách nhiệm; tổ chức báo cáo bồi
dỡng nghiệp vụ ngân hàng, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ
ngân hàng, nên gấp rút tổ chức các lớp bồi dỡng về bản chất và kỹ thuật
các nghiệp vụ hối đoái nói riêng và nhệm cụ nào đó nói chung khi mới đợc

20

đa vào sử dụngđể đảm bảo một sự nhận thức đúng về bản chất cũng nh
kỹ thuật nghiệp vụ khi thực hiện.
+ Việc can thiệp của ngân hàng nhà nớc và nhằm vào điều phối các
quan hệ cung cầu trên thị trờng chứ không nên có sự can thiệp sâu vào các
nghiệp vụ mang tính kỹ thuật của thị trờng.
+ Nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia thị trờng ngoại tệ
liên ngân hàng thông qua một số biện pháp cụ thể nh: đặt mạnh trọng tâm
vào việc không ngừng đổi mới hệ thống thanh toán của các ngân hàng và
các tổ chức tín dụng và quan trọng là ngân hàng nhà nớc cả về cơ chế
thanh toán và trang thiết bị kỹ thuật để hạn chế về thanh toán qua nhiều :
trung gian mà trớc hết là hệ thống thanh toán nội bộ của chinhs các

ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
+ Bổ sung vào cơ chế điều hành tỷ giá mới một nội dung hết sức
quan trọng vào đầu năm, ngân hàng nhà nớc vào công bố tỷ giá hối đoái
danh nghĩa hàng năm, hàng quý trên cơ sở điều chỉnh mức tỷ giá giao dịch
thực té bình quân của thị trờng ngoại tệ lieen ngân hàng đợc xác lập theo
cơ chế mới. Dựa vào đó các cơ quan chức năng có đầy đủ căn cứ để xác lập
cân đói lớn, vĩ mô của nền kinh tế.
+ Mục đích can thiệp của ngân hàng trung ơng không hoàn toàn
giống nhau, điều này phụ thuộc vào tình hình, ý đồ chiến lợc của mỗi
nớc, ngay ở một quốc gia thì mục đích can thiệp ở mỗi thời kỳ cũng khác
nhau. Để thực hiện điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã và đang tồn tại nhiều
phơng pháp khác nhau, sau đây là một vài phơng pháp phổ biến:
1- Phơng pháp lãi suất chiết khấu:
Đây là phơng pháp thờng đợc sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối
đoái trên thị rờng. Với phơng pháp này, khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức
"báo động" cần phải can thiệp thì ngân hàng trungơng nâng cao lãi suất
chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng, lãi suất cho vay trên thị trờng cũng
tăng lên. kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trờng thế giới sẽ dồn vào để
thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ sẽ bớt đi, tỷ
giá hối đoái không có cơ hội để tăng nữa. Vào năm 1971 đến năm 1973
USD rơi vào khủng hoảng. Tổng thống Mỹ Nich-xơn đã phải áp dụng
những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD banừg cách tăng lãi suất
chiết khấu lên rất cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trờng tiền tệ quốc
tế. Tuy nhiên chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất
định, vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động qua lại gián
tiếp, chứ không phải quan hệ trực tiếp nhân quả.
2- Các nghiệp vụ thị trờng hối đoái:

21


Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái
là một trong những biện pháp rất quan trọng của nhà nớc để giữ vững sự
ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động
vào tỷ giá hối đoái.
Đây là hoạt động mang tính chủ quan, do vậy việ lựa chọn các thời
điểm cần mua bán ngoại tệ trên thị trờng với tỷ giá nào để đạt đợc mục
tiêu điều chỉnh có ý nghĩa quyết định. Để nắm đợc một cách đầy đủ tình
hình cung cầu ngoại tệ trên thị trờng, nagỳ nay nhiều nớc trên thế giới đã
và đang tổ chức các thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng.
Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một trong những điều kiện
không thể thiếu đợc cho bất kỳ quốc gia nào là cần phải thờng xuyên có
một lợng dự trữ ngoại tệ d sức để can thiệp vào thi trờng khi cần thiết.
3- Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái:
Trong điều kiện tình hình giá cả thị trờng luôn không ổn định, thậm
chí xảy ra những biến động lớn, các nớc thờng sử dụng quỹ dự trữ bình
ổn hối đoái nh là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Nguồn vốn để hình thành quỹ thờng là:
+ Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia.
+ Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái. Theo phơng
pháp này, khi cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt, quỹ sẽ đa vàng ra
bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh toán.
4- Vốn để phá giá đồng tiền:
Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc hỉam thấp sức mua của đồng
tiền đối với các ngoại tệ. Kết quả của phá giá đồng tiền sẽ ảnh hởng trực
tiếp đến tỷ giá hối đoái. Trên thế giới, việc phá giá đồng tiền thờng đợc
sử dụng ở những nớc có tiềm lực kinh tế dồi dào, nhng phải đối đầu với
suy thoái kinh tế đi đôi với lạm phát trầm trọng.
Trên đây là một số công cụ mà nhà nớc sử dụng để tác động vào tỷ
giá hối đoái nhằm mục đích cao nhất: duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái,
ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, góp phần vào

việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã dự kiến.
CHƯƠNG II: Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt nam
I- Nhìn lại cơ chế điều hành tỷ giá VIệt nam
Trong quan hệ với các nớc thuộc khối XHCN trớc đây, tỷ giá của
Việt nam đợc tính theo đồng Rúp clearing(sau này đổi là rúp chuyển

22

khoản- transferable ruble) đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch
giữa các nớc thuộc khối XHCN tự quy định với nhau để làm sao cho tài
khoản các bên, sau khi trao đổi ngoại thơng theo khối lợng đã đợc quy
định trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm không còn số d. Đặc
trng của chế độ tỷ giá Việt nam trong thời kỳ này là cố định, đã bộc lộ
nhiều mặt bất hợp lý, nó không những không thể hiện vai trò điều tiết tỷ giá
hối đoái trong việc cân bằng cán cân thanh toán, điều tiết tái sản xuất mà
còn kìm hãm các hoạt động kinh tế đối ngoại của nớc ta là nghuyên nhân
dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế trong một thời gian dài.
Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, nhà nớc ta đã có những chủ
trơng và giải pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại, và chính sách tỷ giá
đã từng bớc xoá bỏ cơ chế độc quyềnngoại thơng, cho phép các tổ chức
kinh tế đợc phép xuất nhập khẩu trực tiếp với nớc ngoài. Số lợng các
công ty đợc trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên,
cùng với việc mở rộng ngoại thơng chế độ tỷ giá cũng có những thay đổi
căn bản; chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới bản thân cơ chế điều hành
tỷ giá hối đoái đã đợc nhanh chóng thay đổi phù hợp với bối cảnh thực tế.
Từ một cơ chế đa tỷ giá, mang nặng tính chủ quan bao cấp, xa rời với thị
rờng; tỷ giá hối đoái đã đợc điều chỉnh theo các quan hệ và điều kiện của
các quy luật kinh tế thị trờng. Cơ chế một tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết
của nhà nớc đã phát huy đợc vai trò vừa là một phạm trù kinh tế vận động
theo quy luật cung cầu của nền kinh tế vừa là một công cụ điều tiết vĩ mô

quan trọng của nhà nớc. Nhà nớc đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt
có sự quản lý của nhà nớc nhng việc điều hành của nhà nớc trong từng
năm có khác nhau, ta có thể chia ra 3 giai đoạn:
1- Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989-1993
Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VND/USD thể hiện qua bảng 1
dới đây:
Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt nam qua các năm 1989-1993

Tỷ giá USD/VND
Năm
Giá chính thức
nhà nớc
Gía thị trờng tự
do
Tăng giảm %
Lạm phát

1989 4.200 4.570 +8,80 +34,70
1990 6.650 7.550 +13,50 +67,50
1991 12.720 12.550 - 0,02 +68,00
1992 10.720 10.550 - 0,02 +17,50
1993 10.835 10.736 - 0,01 +5,20

×