Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Phân tích bài thơ Tràng giang, Vội vàng, Nhàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.5 KB, 28 trang )

Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
PHÂN TÍCH BÀI THƠ: TRÀNG GIANG ( HUY CẬN)
Đề bài:
Anh (chị) hãy phân tích bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận!
Hướng dẫn chi tiết:
MB:
Nếu ai đã từng thưởng thức các sáng tác Huy Cận, ắt hẳn sẽ không thể
không nhận ra rằng: trước Cách mạng tháng Tám 1945, thơ ông thường mang
nỗi sầu nhân thế và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên vũ trũ. Một trong những thi
phẩm tiêu biểu cho hồn thơ ấy của Huy Cận là bài “Tràng giang”. Đây là một
bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của ông trước Cách mạng. Bài thơ được
trích từ tập “Lửa thiêng”, mang tâm sự u hoài trước kiếp người nhỏ bé, nổi trôi
giữa dòng đời mênh mông, vô định. Bài thơ vừa có đượm nét đẹp cổ điển lại vừa
có nét hiện đại, đem đến nhiều yêu mến, say mê cùng những rung động khó phai
trong tâm hồn độc giả.
TB:
* Khái quát chung:Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ
điển lại hiện đại cho bài thơ. “Tràng giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo
của Huy Cận. Hai âm “anh” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về
con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ
“tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường
giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông
của tâm tưởng.
Tứ thơ “Tràng giang” mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn
đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện
cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà
nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về
kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến
rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm
xúc chủ đạo của cả bài: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Trước cảnh


“trời rộng”, “sông dài” sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con
người dấy lên tình cảm “bâng khuâng” và nhớ. Từ láy “bâng khuâng” được sử
dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu,
cô đơn, lạc lõng. Và con “sông dài”, nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều
đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động
trái tim người đọc.
1/ Khổ 1:
Ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu
tư, sầu não:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
1
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên
này. Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm
sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức
gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau,
dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông
gợi sóng “điệp điệp”, nước “song song” ấy là một “con thuyền xuôi mái”, lững
lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ,
mênh mông của thiên nhiên, một dòng “tràng giang” dài và rộng bao la không
biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy
ăm ắp trong lòng
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ
vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách

“thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong
lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Ta cảm tưởng rằng thuyền về, con nước lại và
một khoảng trống sẽ được mở ra, một khoảng trống về một mối sầu lan toả,
không chỉ được mở ra trên hai chiều trái ngược nhau mà là mọi chiều trong
không gian – “ sầu trăm ngả”. Nhà thơ viết “trăm ngả” dường như khiến người
đọc cảm nhận mối sầu ấy không có chỗ tận cùng, và nỗi buồn lại càng mênh
mang hơn nữa.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc
sắc: “Củi một càng khô lạc mấy dòng”. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết
hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la.
“Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống,
“lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên “mấy dòng” nước thiên nhiên
rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị,
không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng,
đơn côi. Để từ đó, con người dường như đang lạc lối, bơ vơ , ngơ ngác trước
những dòng nước của con sông lớn ở trong hiện thực, cũng là trước con sông
của nỗi buồn ở lòng người. Nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, cô đơn của một kiếp
ngườởtớc dòng đời vô định.
Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã
gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại
để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các
nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị
của khổ thơ. Đó là ở cách nói “Củi một cành khô” thật đặc biệt, không chỉ thâu
tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một
nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
2/ Khổ 2:
Nỗi lòng nhà thơ được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của
không gian lạnh lẽo:
2
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Bức tranh “Tràng giang” giờ đây đã có thêm hình ảnh những chiếc “cồn”
của những làng xóm ở bên sông. Vì thế hai câu thơ đầu phảng phất cảm giác
man mác, nhẹ nhàng mà sâu kín về một quê hương. Huy Cận đã vô tình phác ra
một cảnh sắc rất quen thuộc về một miền quê nước Việt : bờ sông hoặc giữa
lòng sông có những cồn đất nhỏ, xa xa ven sông có những âm thanh xao xác của
một xóm làng. Nhưng đó không phải là tất cả ý nghĩa của câu thơ. Hai từ láy “lơ
thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên
một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự
quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh
lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên “Đâu tiếng
làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu
đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm
khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống
của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung
quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên
nhiên. Tất cả vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.
Đến câu thơ thứ ba thì không gian được mở ra theo một chiều khác, chiều
cao qua hình ảnh của nắng và bầu trời :
“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.”
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và
gợi cả sự chia lìa: “lên” – “xuống”. Nắng xuống và trời lên, để lại một khoảng
trống thăm thẳm mở ra, làm nên cảm giác mà Huy Cận đã diễn tả bằng một sự
kết hợp từ độc đáo – “ sâu chót vót ”. “Sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ,
đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Cụm từ này tạo cảm giác
thăm thẳm về bầu trời và mặt nước. Không chỉ thế, phải có chữ “sâu” để không
gian được nhuộm trong gam màu, gam cảm xúc buồn, trầm lắng.

Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như
xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là
mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những gì thuộc về con người thì lại
bé nhỏ, cô đơn biết bao:
“Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy,
một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi,
rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vụ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng.
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi
như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với “vãn
chợ chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
3/ Khổ 3:
Đến khổ thơ thứ ba, nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh
mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào
3
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những
hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Hình như ở đây có cái gì đông đúc hơn lên, sự chuyển động dường như
cũng đã nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Chúng ta nhận ra điều ấy qua từ “dạt” ngay ở
câu thơ đầu tiên. Cảm giác đông đúc cũng thể hiện khá rõ trong ba chữ “hàng
nối hàng”. Nhưng sự đông đúc ở đây lại chỉ là của những cánh bèo, hình ảnh từ
lâu đã tượng trưng cho những kiếp phù sinh, cho cuộc sống không ý nghĩa. Hình
ảnh “bèo dạt” ấy cũng đã từ lâu dùng để nói về số phận của những kiếp người
không có khả năng tự làm chủ cuộc đời mình. Và cảm giác vô định ấy được Huy
Cận nhấn thêm một lần nữa bằng hai chữ “về đâu”. Bèo trôi hàng hàng càng

khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô
đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng” như mở ra
một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường
không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao
hoà, nối kết:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định: “…không…không” để phủ định hoàn
toàn những kết nối của con người. Không có con đò đậu. không có lấy một chiếc
cầu tĩnh lặng, vô tri. Không có cả một chút bóng dáng con người mà thông
thường người ta có thể mường tượng ra qua hình ảnh con đò.Trước mắt nhà thơ
giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn
đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu
hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi
thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Và cảm giác của nhà thơ lại trở về với chiều dài và chiều rộng trong câu đề từ,
khi nhà thơ viết câu thơ cuối :
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Cảm giác về “không” gặp lại ở “lặng lẽ”, không hình, không cả tiếng.
Câu thơ gợi cho người đọc cảm nhận về dòng chảy qua hết bờ xanh lại đến bãi
vàng, nhưng tuyệt đối âm thầm. Chúng ta lại nhận ra thêm ở đây một nỗi buồn
sông nước.
4/ Khổ 4:
ở khổ cuối cùng của bài thơ,Huy Cận đã khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện
đại cho bầu trời trên cao:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
4

Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
Có thể nói rằng đây là khổ thơ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi ra liên
tưởng về một câu thơ Đường. Cũng không có khổ thơ nào trong “Tràng giang”
lại vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh trời chiều trên sông nước rõ ràng và gợi
cảm như ở khổ bốn này.
Câu thơ thứ nhất đem đến cho ta cảm giác của một thiên nhiên vừa quen
thuộc lại vừa lớn lao, kì vĩ.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
Chỉ bảy chữ thôi mà câu thơ đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh
mà ở đó những làn mây dường như được đùn, đẩy từ nơi mà bầu trời tiếp liền
cùng mặt nước, cứ chất ngất mãi lên phía của trời cao thành hình giống như
ngọn núi, nhưng lại là núi bạc. Những đám mây kia đang phản quang những tia
nắng của trời chiều, nhờ vậy mà ánh lên, loá lên, hình thành một khoảng không
gian lớn rộng, gợi nên cảm giác trong sáng hiếm có ở bài thơ. Và lại càng thi vị
hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.
Vẫn nhìn lên bầu trời ấy, ở hai câu tiếp theo, nhà thơ điểm lên bức tranh
bầu trời trên dòng tràng giang hình ảnh một cánh chim, một hình ảnh rất đặc
trưng cho buổi chiều tà.
“Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa”
Cánh chim ấy không khỏi làm cho những người yêu thơ nhớ đến một câu
thơ của Vương Bột :
“Lạc hà dữ cô lộ tề phi”
(Ráng chiều đang sa xuống với con cò lẻ loi cùng bay)
Song cánh chim chiều trong thơ Huy Cận không bình thản như thế thì nhà
thơ nói đến “chim nghiêng cánh nhỏ”. Chi tiết ấy đủ làm người đọc nhận ra
bóng chiều đang buông xuống. Bóng chiều vốn vô hình dường như giờ đây có
thể được nhìn thấy như trong cảm giác về một vật thể hữu hình. Nhà thơ đã hữu
hình hoá cái vô hình. Và như vậy chỉ bằng hai câu mà nhà thơ đem lại cho người
đọc những xúc cảm thân thương, quen thuộc của quê hương, đất nước, để rồi từ

cảnh quê trong hai câu đầu mà nói đến tình quê, đến nỗi nhớ quê nhà trong hai
câu thơ cuối. Nỗi nhớ mênh mông như là những làn sóng đang dợn trên mặt
sông và trải ra theo con nước về phía xa vời.
Có thế thấy nét hiện đại của ngòi bút Huy Cận bộc lộ rõ qua dấu hai chấm
thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và
bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng
giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả
đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim”
và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ
ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng
hiện đại:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
5
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
“Dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy
trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nổi niềm
bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương
khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm
trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất
nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là tứ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ:
“Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn
vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh,
bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương
thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ
điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách
dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây,

sông, cánh chim… Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài
thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như
“sâu chót vót”, dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là
tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại
của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực,
không làm gì được.
KB:
Có thể nói “Tràng giang” đã, đang và sẽ mãi luôn đi sâu vào lòng người
với phong cách tiêu biểu rất Huy Cận, với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và
vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
PHÂN TÍCH BÀI THƠ "VỘI VÀNG" (XUÂN DIỆU)
1/ Yêu cầu chung:
-Mở bài: nêu những nét khái quát về tác giả, tác phẩm, nêu chủ đề
mình muốn nói (vội vàng" là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết
mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là
những tháng năm của tuổi trẻ, của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến
cuồng nhiệt"
-Thân bài: phân tích bài thơ Vội vàng (đồng thời phải diễn giải, dẫn
chứng cho chủ đề là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình,
hãy quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là những
6
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
tháng năm của tuổi trẻ, của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng
nhiệt
-Kết bài: Kết luận bài thơ và đồng cảm với nhà thơ về quan niệm
sống, tuổi trẻ
2/ Bài văn tham khảo
Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có
nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở

giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng
trần gian” . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi
hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại.
Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại
rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi
gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm
với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu
kì!Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét
xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt,
trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái
tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ mới. Có thể kể đến
một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, một
Nguyễn Bính với “mùaxuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ
Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả
cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa
xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.
Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội
vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân
Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuốn
quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tên Vội
vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho
thấy thi sĩ rất hiểu mình. Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt
của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn
ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không tránh khỏi
mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kỳ. Mà sống là phải
tận hiến và tận hưởng! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống.
Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc,
7
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ

này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.Thông thường, yếu tố chính
luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm
xúc rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư
tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận.
Thơ Xuân Diệu hiển nhiên là loại thơ xúc cảm. Nhưng đọc kỹ sẽ thấy
rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm
nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi, nước
chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại
ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cái tứ của thi phẩm. Cho nên
mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó
là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca
như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian.
Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một
quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang
minh họa cho triết học. Mà đó chính là minh triết của một hồn thơ.
Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục
của Vội vàng. Thi phẩm khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá
rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “Ta muốn
ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng.
Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ:
trên là lý thuyết, dưới là thực hành!
Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên,
xưng “tôi”, lập thuyết đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối
diện với sự sống. Phần luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi
thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách ngăn, khiến
thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của
thi sĩ. Ấy là cái ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên – một ước
muốn không thể:
Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
8
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió”, thật là những ham muốn kỳ dị,
chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể
vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái ham
muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ
đối với cái thế giới thắm sắc đượm hương này. Thế giới này được
Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên
đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm
nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự
sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc
hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn
vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn
quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy đắm say. Xuân Diệu cũng
hưởng thụ theo một cách riêng. Ấy là hưởng thụ thiên nhiên như
hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên
nhiên. Hãy xem cách diễn tả vồ vập về thiên nhiên ở thì xuân sắc, một
thiên nhiên rạo rực xuân tình:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng
giêng ngon như một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự.
Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn non tơ

đầy một sức sống thanh tân kia mà sao quyến rũ – tháng giêng mang
trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo
rực, đắm say. Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái
logic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ muốn “tắt nắng”, “buộc gió” chính vì
muốn giữ mãi hương sắc cho trần thế này đây. Hương sắc là cái sinh
khí của nó, là cái vẻ đẹp, cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong
độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba
của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn
của xuân thì đối với sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái
thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ xuân; còn con người
cũng chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ thôi. Mà cả hai
9
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần
đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn no nghĩa là xuân sẽ già.
Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian
tuần hoàn với cái chu kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu
ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện đại sống với quan niệm
thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh
khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ
định:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại
thì làm chi có sự tuần hoàn ! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô
tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn.
Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi
ngậm ngùi thật mới mẻ:

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Và đem đến một cảm nhận đầy tính lạ hóa về thời gian và không gian:
Mùi tháng năm đền rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” của lối
thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm
giác để cảm nhận và mô tả thế giới. Thời gian được cảm nhận bằng
khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm
bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại ư? Một chữ
“rớm” cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác.
10
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy
cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một vị hoàn toàn phi
vật chất: “vị chia phôi” ! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” này đều từ một
hình ảnh ẩn hiện là giọt lệ chia phôi đó. Vì sao thời gian lại mang cái
hương vị - hình thể của chia phôi? Ấy là những cảm giác chân thực
hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao”?
Cái tinh tế của Xuân Diệu chính là ở đấy ! Thi sĩ cảm thấy thật hiển
hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự
là một cuộc ra đi vĩnh viễn.
Trên mỗi thời khắc đều đang diễn ra một cuộc chia tay của thời gian
với con người, với không gian và với cả chính thời gian. Cho nên thi
sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời
than vĩnh viễn: than thầm tiễn biệt. Không gian đang tiễn biệt thời
gian ! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu
kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh
khỏi !Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không
thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua

với thời gian, là phải tranh thủ sống: Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao
giờ nữa…
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm Đến đây phần luận giải của
tuyên ngôn vội vàng đã đủ đầy luận lý !] Bài thơ được kết thúc bằng
những cảm xúc mãnh liệt, bằng những tham muốn mỗi lúc một cuồng
nhiệt , vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự
sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái
lòng ham sống, khát sống sung mãn của mình:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nướ[c, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
11
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi bồng bột của Xuân
Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe
thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong
đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làm sóng ngôn từ đan chéo nhau,
giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người đọc. Cái điệp ngữ “ta
muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng.
Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc
một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn. Có
thể nói câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có đối
với thư pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối
với thơ xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ “và”

đến thế ? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu.
Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng
nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái
tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm
xúc tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lòng ngực yêu đời của thi
sĩ !
Câu thơ:
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại
với mức độ tăng tiến nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thỏa thuê:
chuếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ càng lúc càng dâng cao,
càng vỗ mạnh, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn
vào ngươi !Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê
đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong cuộc tình
chuếnh choáng men say.
Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ "sống" hay "ham
sống" mà ông "say sống". Sống mãnh liệt, hối hả kẻo nữa lại tiếc nuối
- Đó là một nhân sinh quan lành mạnh. Nó khác với sự nguội lạnh, hờ
hững, lạt lẽo. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước "thanh sắc trần gian"
một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.
Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Thế
12
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
là, vội vàng là cách đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc, và hình
như cũng là cái giá phải trả cho hạnh phúc vậy ! Ta hiểu vì sao khi
Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ !
1. Cảm nhận về bài Vội vàng của Xuân Diệu
Xuân Diệu là nhà thơ lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Ông để lại
hàng chục tập thơ với trên dưới 1000 bài thơ thấm thía tình yêu cuộc

sống nồng nàn. Một trong số những bài thơ tiêu biểu cho thơ Xuân
Diệu là bài Vội vàng in trong tập Thơ thơ-tập thơ được sáng tác trong
những năm mười tám đôi mươi của của nhà thơ. Vội vàng là bài thơ
thể hiện tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp
mà nhà thơ tự thấy phải gấp gáp nhận lấy.
Bài thơ Vội vàng được mở đầu bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn
gọn, mạnh mẽ như lời tuyên bố về khát vọng của mình:
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất.
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Tắt nắng, buộc gió là những điều con người không thể làm được, đó là
những khát khao phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí với trái tim của
nhà thơ, bởi đó là trái tim đầy khao khát mãnh liệt, muốn sống đến
trọn vẹn chữ “sống”, muốn giữ mãi cho mình những hương, những
sắc của của cuộc đời. Mà cuộc đời trong cảm nhận của nhà thơ lại đẹp
đẽ biết chừng nào, quý giá biết bao nhiêu. Nhà thơ thấy rằng trong
cuộc sống, mọi thứ đều kì diệu, mỗi sự vật dù nhỏ bé đến đâu cũng
đều dâng hiến cho đời những vẻ đẹp tinh tuý nhất của mình:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
13
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
Bướm ong thì có tuần tháng mật đầy ngọt ngào, cuốn hút, đồng nội thì
có vẻ đẹp của màu xanh mơn mởn và muôn hoa rực rỡ , cành tơ non
thì có muôn lá rung rinh, ánh sáng bình minh như cái chớp mi của
người đẹp…Những câu thơ có nhịp điệu thật nhanh, thật gấp gáp, sử

dụng phép liệt kê, điệp ngữ, rất nhiều tính từ, cách liên tưởng táo bạo,
đa tình. Cuộc sống trần gian hiện lên qua đó thật sống động, tươi tốt,
đáng yêu, đáng sống, tràn ngập âm thanh, màu sắc tươi sáng, khai mở
ra một thiên dường tồn tại chính trên cõi trần này.
Với Xuân Diệu, cuộc đời lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, mỗi ngày
mới đến là niềm vui cũng gõ cửa ùa vào theo:
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Niềm vui như một vị thần độ lượng, ban phát hạnh phúc cho từng
người. Phải nói rằng trong thơ Việt Nam, chưa ai có cách cảm nhận
cuộc sống, mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu:
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
Xuân Diệu chẳng lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp khi so
sánh với con người như thơ cổ mà lại lấy con người làm chuẩn mực để
so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu Nguyễn Du so vẻ đẹp của
Thuý Vân-Thuý Kiều “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” thì
Xuân Diệu lại liên tưởng “ Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”.
Một cách so sánh rất riêng, rất táo bào, đầy tình yêu đời nồng nhiệt rất
Xuân Diệu. Ông thấy mùa xuân với bao vẻ đẹp sinh động của nó
giống như cặp môi đỏ mọng của thiếu nữ đang kề gần. Cách so sánh
này chứa đựng bao rung động tận đáy lòng, vừa có sự khao khát, thèm
muốn, háo hức rất thiêng liêng mà cũng rất trần tục. Nhà thơ yêu cuộc
sống đến si mê, cháy bỏng!
Có một cuộc sống đẹp như thế để sống, có bao hương sắc tuyệt diệu
như thế để tận hưởng, con người ta sẽ sung sướng biết bao. Nhưng,
tựa như một cung nhạc đang vút cao, đến đâybỗng chùng xuống:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
14
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui sướng không được trọn vẹn. Bởi
Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Xưa nay, người ta chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trở thành quá khứ,
tiếc xuân khi nó đã không còn. Ở đây, Xuân Diệu với sự nhạy cảm lạ
lùng của nhà thơ yêu cuộc sống đến đắm say, ông tiếc mùa xuân ngày
khi mùa xuân vẫn còn đang phơi phới. Vì nhà thơ biết rằng thời gian
sẽ trôi qua nhanh, mà với những gì quý giá, với những vẻ đẹp, thời
gian còn tàn nhẫn trôi nhanh hơn gấp bội, nhanh đến khủng khiép, phũ
phàng. Cái non trẻ, thắm tươi rồi sẽ chẳng mấy mà già nua, héo úa.
Điều ấy lại ảnh hưởng vô cùng to lớn đến Xuân Diệu:
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Câu thơ đầy cảm giác buồn bã. Nhà thơ phát hiện ra một điều bi thảm
cho mình: mùa xuân trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua. Mà khi tuổi trẻ đã
trôi qua thì cuộc đời nào còn ý nghĩa gì nữa. Bởi quý giá nhất của
cuộc đời, dất trời là mùa xuân, quý giá nhất của con người là tuổi trẻ.
Con người khao khát vẻ đẹp tồn tại vĩnh cửu, nhưng cuộc đời lại có
những quy luật vô cùng chặt chẽ và nghiệt ngã:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Thời gian thì vô hồi vô hạn, nhưng đời người thì hữu hạn. Con người
trong cái hữu hạn ấy trở nên thật nhỏ bé, tội nghiệp và mong manh.
Bao người lí luận rằng xuân đi xuân đến, nhưng với Xuân Diệu, ông
chẳng thể tự an ủi mình mà trái lại, càng xót xa hơn:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
15
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý

giá, chỉ đẹp khi con người biết hưởng, được hưởng vẻ đẹp của nó. Khi
con người chẳng còn trẻ mà tận hưởng mùa xuân thì xuân cũng mất
hết ý nghĩa. Những câu thơ của Xuân Diệu vì thế mà chuyển sang
giọng điệu buồn bã:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Tất cả đều buồn bã, đều mất hết ý vị, chỉ còn “rớm vị chia phôi”, chỉ
biết “than thầm tiễn biệt”, chỉ còn “hờn dỗi phải bay đi”, chỉ “sợ độ
phai tàn sắp sửa”. Trong thơ Việt Nam, ít ai có giọng thơ nuối tiếc
thời gian, thương tiếc cuộc sống thiết tha dường ấy. Cũng vẫn gió lá
hoa như đạon đầu nhưng đoạn trên rạo rực náo nức, đoạn này lại buồn
thương ngậm ngùi, xót xa biết bao nhiêu. Nhà thơ kêu lên một cách
tuyệt vọng:
Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa!
Nỗi đau đớn của Xuân Diệu phải sâu sắc lắm, cắt cứa lắm, thấm thía
lắm thì mới bộc phát thành tiếng than kêu thống thiết dường ấy. Thời
gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và tuổi trẻ của con người cứ
ngắn ngủi. Con người chẳng thể làm được gì để biến cái hữu hạn của
đời người thành cái vô hạn trường tồn cùng vũ trụ. Chỉ còn mỗi cách,
đó là phải hối hả, phải đắm say mãnh liệt hơn, phải vội vàng thâu nhận
đến mức độ cao nhất, nhiều nhất những vẻ đẹp nhân gian, những thứ
ưúy giá của đời sống, của tuổi trẻ, mùa xuân. Xuân Diệu giục giã:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đàu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
16
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
Những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã như một dòng suối ào ạt
tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấn nhau để
cho kịp mạch cảm xúc đang bừng lên sôi nổi của nhà thơ. Những tiếng
“ta muốn” láy đi láy lại mãi như một điệp khúc bất tận để khẳng định
niềm khao khát cháy bỏng muốn sống đến tận cùng cảm giác của
Xuân Diệu. Một loạt điệp từ được sử dụng theo mức độ tăng dần của
khao khát: muốn ôm - muốn riết - muốn say - muốn thâu - muốn cắn
thể hiện tam trạng si mê đến cuồng nhiệt. Trong một câu thơ mà có
đến ba hư từ “và” chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, cuống
quýt, như muốn cùng lúc dang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa
xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống,
mới đi đến tạn cùng của niềm hạnh phúc được sống.
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc. Tận hưởng
cuộc đời chính là có dược cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề
nhất. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chuếnh
choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu
nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một
trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận
hưởng trong niềm khao khát cao độ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
Câu thơ là đỉnh cao của những khao khát sống, của tình yêu sống rạo
rực trong con tim nồng cháy của Xuân Diệu.
Bài thơ Vội vàng thể hiện tam trạng đắm say bồng bột của một tấm

lòng ham sống mãnh liệt. Bài thơ còn thể hiện một quan niệm sống
sống gấp gáp vội vàng tận hưởng những hạnh phúc trần thế, một quan
niệm sống lành mạnh và tích cực so với đương thời. Bài thơ là một
sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ trẻ trung tươi mới của “nhà thơ
của tình yêu”, bài thơ rất tự do, hình ảnh giàu sức gợi, giàu nhạc điệu
và cách liên tưởng rất hiện đại. Tâm trạng yêu đời, yêu sống đến
17
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
cuồng nhiệt trong tác phẩm khẳng định tư tưởng nhân văn của nhà
thơ. Cho đến nay, nội dung thúc giục mọi người sống có nghĩa trong
cuộc sống thực tại của bài thơ vẫn còn bao ý nghĩa với thế hệ trẻ.
3. PHÂN TÍCH BÀI THƠ “NHÀN” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Bài làm
Nhà nho ngày xưa sống theo lẽ “xuất xử”: Gặp thời hưng thị thì
ra cứu đời, giúp nước; khi thời thế loạn lạc gặp chúa tối vua mê thì rút
lui về ở ẩn bên núi, bên sông.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) đỗ Trạng nguyên; học vị cao
nhất thời phong kiến, làm quan dưới triều nhà Mạc được 8 năm. Nhận
thấy xã hội rối ren, nạn cát cứ và tranh chấp giữa các tập đoàn phong
kiến Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn kéo dài, ông bèn cáo quan về ẩn cư
trên 40 năm ở quê nhà, làm am Bạch Vân, sửa cầu Nghinh Phong,
Trường Xuân, lập quán Trung Tân ở bến Tuyết Giang, dạy nhiều học
trò, do đó được người đời gọi là Tuyết Giang phu tử. Tại đây, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã viết nhiều bài thơ Nôm nổi tiếng trong đó có bài
“Nhàn”.
Trong hai câu đề, nhà thơ nêu lên cảnh lao động tự cung, tự cấp:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dù ai vui thú nào”.
Mai là công cụ để đào, cuốc để xới và cần câu để kiếm tôm cá.
Nhịp thơ 2/2/3 gợi tả phong thái khoan thai của nhà Nho. Dù có lao

động vất vả nhưng tác giả tỏ ra mãn nguyện với cuộc sống mà mình
đã lựa chọn. “Thơ thẩn” là sống ung dung, không bận tâm đến sự đời
đen bạc.
Hai câu tiếp theo so sánh hai cách sống:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao”.
“Ta” đây là Nguyễn Bỉnh Khiêm và những người cùng chí hướng
như ông. “Người” đây là đám vua chúa, quan lại đương thời. “Nơi
vắng vẻ” là cuộc sống giữa thiên nhiên, xa cách xã hội ồn ào, lộn xộn,
do đó không phải bon chen, cầu cạnh nên tâm hồn được thoải mái.
“Chốn lao xao” là chốn triều đình, chốn cửa quyền có lâu đài, bổng
18
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
lộc hậu hĩ nhưng phải cạnh tranh quyết liệt. Ngày xưa, Nguyễn Trãi đã
nói về sự nguy hiểm của chốn này:
“Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,
Lòng người quanh nữa nước non quanh”.
Vậy là “khôn” mà thành “dại”; “dại” mà thành “khôn”. Thể
bình đối tạo nên ấn tượng về sự tương phải sâu sắc giữa “ta” và
“người”. Đọc đến đây, ai cũng có cảm tưởng như cụ Trạng Trình
đang mỉm một nụ cười châm biếm những người gọi là “khôn”. Nối
tiếp Nguyễn Bỉnh Khiêm, về sau Lê Hữu Trác - tác giả Thượng Kinh
ký sự - cũng không ra làm quan, sống ở quê nhà và tự gọi là Lãn Ông
- tức ông già lười nhác, lười nhác về mặt công danh.
Hai câu luận nói về sinh hoạt của tác giả:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.
Như vậy là nhà thơ đã có một cuộc sống nền nếp, ổn định mùa
nào thức ấy, mùa nào thú ấy. Măng trúc và giá xét cho cùng chỉ là
những món ăn đạm bạc. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm lại tỏ ra mãn

nguyện về cuộc sống như thế vì nó hợp với người quân tử: cầu đạo,
bất cầu thực. Trong bài “Hàn Nho phong vị phú”, Nguyễn Công Trứ
cũng nói:
“Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch,
người quân tử ăn chẳng cầu no”.
Nhà Nho hướng về một cuộc sống tinh thần cao đẹp mà coi
thường sự thiếu thốn về vật chất. Thanh đạm mà thanh cao.
Hai câu kết khái quát lên một tầm cao triết lí về cách sống của
Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.
Nhà thơ lấy điển tích Thuần Vu Phần, một viên tướng đời Đường,
vì chán công danh, xin từ chức, về nhà uống rượu làm khuây. Một lần
say, ngủ bên gốc cây hòe, chiêm bao được làm phò mã, có cuộc đời
rất phú quý. Tỉnh dậy thì ra đang nằm cạnh tổ kiến bên gốc cây hòe !
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng giống như Thuần Vu Phần, coi phú quý chỉ
là chuyện chiêm bao, chuyện hão huyền, vô nghĩa, không đeo đuổi nó
và an tâm với cuộc sống bên bến Tuyết Giang.
19
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
“Nhàn” là bài thơ có nghệ thuật điêu luyện. Từ ngữ giản dị, phần
lớn là thuần Việt. Hình ảnh cô đọng, đối ngẫu chặt chẽ. Nó đánh dấu
một bước tiến của thơ Nôm Đường luật ở nước ta trong thế kỉ XVI.
Bài thơ có nội dung sâu sắc. Xã hội phong kiến Việt Nam hồi thế
kỷ XVI đang chìm trong khủng hoảng trầm trọng đã khiến nhà thơ
chán ghét, tìm cách xa lánh nó, sống trong cảnh nhàn để giữ cho tâm
hồn thanh cao. “Nhàn” mà trong sạch, cao quý, vì đó là một nét đẹp
của tâm hồn kẻ sĩ thanh cao “Như nhật trung thiên” vằng vặc.
Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ triết lí của Nguyễn
Bỉnh Khiêm: thiên về nhận xét, phân tích, khái quát - lối thơ của

những nhà tư tưởng lớn.
Phan Bá Hàm
Xuân Diệu-“Vội Vàng sống – Vội Vàng yêu”
Yêu là một cái gì đó rất trừu tượng, chưa một ai, chưa một con người tài hoa nào
có thể định nghĩa chính xác về tình yêu.Vì thế mà, Xuân Diệu từng khẳng định:
“Mấy ai định nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
Xuân Diệu còn nói: “Yêu là chết ở trong lòng một ít”. Yêu phải chăng là đau
khổ, là âm thầm chấp nhận những đau thương hay nức nở khi người yêu phụ
bạc. Với Xuân Diệu tình yêu là đẹp nhất, tình yêu gắn liền với hạnh phúc và tình
yêu ấy luôn là cảm xúc chủ đạo ngự trị trong tâm hồn ông, biến ông trở thành
một con người sống trong tình yêu và chết cũng trong tình yêu. Yêu cái lãng
mạn, yêu cái hờn giận dễ thương, yêu thiên nhiên đầy mộng đẹp hay yêu chính
cuộc sống mà mình đang có. Tất cả, tất cả đã đựơc hội ngộ trong một cao trào
nghệ thuật của “Vội Vàng”.
Đến với thơ tình Xuân Diệu, dù rằng tôi là một người chưa yêu nhưng chàng
trai trẻ ấy đã giúp tôi thử một lần chạm vào điều đó. Ấy là cái cớ mà hôm nay tôi
được sự uỷ quyền của ông hoàng thơ tình yêu mang đến cho người nghe một cái
20
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
nhìn tích cực về tình yêu và hi vọng rằng mọi người sẽ thưởng thức nó bằng
chính trái tim chân thành và lòng yêu nghệ thuật.
Mùa xuân luôn là một đề tài mới mẻ và hấp dẫn nhiều tâm hồn khao khát
được giao cảm với đời như Xuân Diệu. Mùa xuân có một vẻ đẹp thanh sơ, dịu
nhẹ làm rung động và say đắm bao trái tim con người. Chính không gian trữ tình
ấy đã gợi bao suy nghĩ về con người, về cuộc sống. Trước đây, Nguyễn Du đã
từng có những vần thơ trác tuyệt về mùa xuân. “Cỏ non xanh tận
chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng có chung nguồn mạch cảm xúc đó và viết nên
những vần thơ “ửng hồng sắc xuân”.
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió đưa tà áo biếc
Trên giàn thiên lý bóng xuân sang”
“Vội vàng” đựơc khơi nguồn cảm hứng từ mùa xuân. Mặc dù cảm hứng
không mới nhưng bài thơ đã tìm được một hướng đi mới: mới ở cách thể hiện và
cường độ cảm xúc. “Vội vàng” không bắt đầu bằng những hình ảnh của mùa
xuân mà bắt đầu bằng niềm khao khát, say mê đối với thiên nhiên và cuộc sống.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Xuân Diệu không hề che dấu ước muốn của mình, điều mà không mấy ai dám
nhìn nhận, trái lại ông còn thể hiện nó một cách mãnh liệt. Thế mới biết, thế nào
là sức sống của một “mùa xuân kì diệu”. Xuân Diệu ngắm một bông hoa trong
thời khắc rực rỡ, huy hoàng nhưng vẫn muốn kéo dài buổi bình minh, kéo dài sự
sống để có thể thưởng thức cái đẹp một cách trọn vẹn; đã hít thật mạnh, ngửi
thật sâu một mùi hương thoảng qua trong gió nhưng vẫn muốn buộc gió lại để
21
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
lưu giữ mùi hương. Có như thế mới thoả mãn ước nguyện của tác giả. Quả là
một ý muốn táo bạo. Bốn câu thơ ngắn với lời lẽ oai nghiêm như mệnh lệnh, tác
giả muốn ĐOẠT QUYỀN CỦA TẠO HOÁ để tận hưởng cả hương sắc của cuộc
đời này. Đúng, những hình ảnh của tạo hoá thì vận hành rất nhanh nhưng Xuân
Diệu đã thưởng thức được nó theo cách riêng của mình. Hơn ai hết, ông muốn
nó luôn tồn tại để ông được có thêm thời gian tận hưởng?
Điệp từ “tôi muốn” vừa thể hiện cái tôi cá nhân vừa tô đậm khát vọng sống

của tác giả. Ông muốn mình làm thế này, làm thế kia nhưng liệu ông có làm
đựơc hay không? Điều ông muốn là sự thật hay cuối cùng cũng chỉ là tưởng
tượng?
Tâm hồn Xuân Diệu nhiều khi cùng run rẫy với thiên nhiên, cảm nhận và lắng
nghe những âm thanh, hình ảnh và màu sắc khác của thiên nhiên trong mối giao
hoà đồng điệu.
Xuân Diệu yêu thiên nhiên một cách ào ạt, sống động bởi lòng khao khát được
giao cảm với đời của thi sĩ rất mãnh liệt. Xuân Diệu đã thổi vào đó một ngọn gió
nồng nàn, tha thiết của một TRÁI TIM YÊU THƯƠNG CUỒNG NHIỆT.
Chàng trai ấy luôn nhìn đời bằng cặp mắt “xanh non” của tuổi trẻ; bằng hồn thơ
sôi nổi, chân thành.
Phải chăng, vì tiếp thu được nguồn mạch của thơ ca phương Tây nên khi cái
“tôi” đồng nhất với thiên nhiên thì nó mang một dáng dấp mới: trong trẻo và
tươi sáng. Cảnh thiên nhiên tươi sáng đang chào đón con người. Vì con người
đang yêu thì cái gì cũng đẹp cũng xanh non.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si”
Nhà thơ phát hiện ra một thiên đường ngay trên mặt đất này, hơn nữa ngay
trong tầm tay của chúng ta. Có hạnh phúc ngọt ngào trong “tuần tháng mật” của
22
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
ong bướm, có cái mềm mại của “đồng nội”, cái mơn mởn trẻ trung của “cành tơ
phơ phất”, có cả âm thanh rạo rực nồng nàn trong “khúc tình si”.
Mỗi vẻ đẹp của mùa xuân đều tràn đầy nhựa sống và chất chứa một khát vọng
của tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc. Điệp từ “này đây” cho thấy sự xuất hiện của
cái đẹp một cách ào ạt, khẩn trương khiến cho những cảm xúc trong tâm hồn thi
sĩ như đang đua chen nhau, cố gắng chạy theo để tận hưởng.
Ôi! Sao người ta cứ đi tìm mộng đẹp ở chốn bồng lai hay niết bàn cực lạc.

Hoá ra nó chẳng ở đâu xa, nó ở ngay cuộc sống quanh ta, ngay trong giây phút
hiện tại này. Nó là cái hiện hữu, cái nhãn tiền, nhà thơ như muốn nói:“Hưởng
ngay đi! Ngắm nhìn, ôm ấp ngay đi, còn chờ gì nữa!” . Một bức tranh xuân
được vẽ nên mà không cần cọ, cần màu. Thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh đặc quánh
đến độ khiến người ta như chạm chân tới một khu vuờn tràn ngập âm thanh, ánh
sáng và hương sắc. Hình ảnh tình tứ duyên dáng: tuần tháng mật, khúc tình si
gợi hương vị tình yêu và cuộc sống lứa đôi. Ong buớm, chim chóc
còn như vậy huống chi là con người
Không chỉ riêng trong “Vội Vàng” Xuân Diệu mới danh nhiều ưu ái khi nói
về thiên nhiên mà nó đã trở thành cảm xúc chủ đạo trong thơ Xuân Diệu.
Những nàng hoa chờ đợi cái ong châm
Đáng yêu thay trong vẻ khẽ nghiêng đầu
Lá xanh đỡ yêu yêu thân tuyết bạch
Nguyệt lát đác tiếng thở giòn lách tách
Lòng phơi phới chờ đợi cái ong châm
Miệng toả ra hương, hương toả tình ngầm”
Thơ xưa lấy thiên nhiên làm chuẩn cho cái đẹp thì bây giờ Xuân Diệu lại
đưa ra một chuẩn khác: THẾ GIỚI NÀY ĐẸP NHẤT LÀ VÌ CÓ CON
NGƯỜI. Con người trẻ trung, mơn mởn;con người giữa tuổi yêu đương là đẹp
nhất. Con người là thước đo thẩm mĩ của vũ trụ, vẻ đẹp của con người trần thế là
tác phẩm kì diệu nhất của tạo hoá.
Tư tưởng mỹ học ấy đã giúp nhà thơ tạo nên những hình ảnh rất Xuân Diệu.
23
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”
Ánh sáng buổi sớm mai như phát ra từ cặp mắt đẹp vô cùng của nàng công
chúa có tên là Bình Minh. Nàng vừa tỉnh giấc nồng suốt đêm qua, mắt chớp
chớp hàng mi rồi bừng ra muôn vạn hào quang. Trong trường ca sau này, Xuân
Diệu còn sử dụng thành công hình ảnh đó một lần nữa: “Mi của ánh sáng thật
là dài; tia của ánh sáng thật đượm ( ). Con mắt điện quang thấu suốt muôn

trùng”.
Nhưng “Vội Vàng”còn có một hình ảnh độc đáo đáng gọi là một sáng tạo
tuyệt vời.
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Một hình ảnh táo bạo rất Xuân Diêu, một vẻ đẹp rất trần gian mà tạo hoá toàn
năng đã ban tặng cho con người. Chàng trai si tình Xuân Diệu đang thưởng thức
thiên nhiên bằng vị giác của người đang yêu. Nó gần gũi, hồn hậu, phác thực
như có tính nhục thể nhưng đồng thời lại rất đổi xa vời, xa vời như một cái gì đó
vô cùng tinh khôi, trinh trắng. Song, một nhà nghiên cứu thơ Mới đã phê bình
câu thơ này không được lành mạnh. Chao ôi! Vậy thì như thế nào mới là lành
mạnh? Phải chăng chính tâm hồn của họ chưa được lành mạnh mới không hiểu,
không quí một câu thơ tuyệt vời đến thế.
Nhưng tạo hoá có sinh con người ra để mãi mãi hưởng lạc ở chốn địa đàn trần
gian này đâu! Đời người có hạn, tuổi xuân ngắn ngủi. Chính vì thế, khuất sâu
trong tâm hồn, tư tưởng của chàng trai mới lần đầu đón nhân tình yêu, khao khát
được sống, được yêu là tâm trạng nơm nớp lo sợ, sợ sự chảy trôi của THỜI
GIAN. Vì thế mà, khi ông muốn tắt nắng, muốn buộc gió thì không chỉ bắt vũ
trụ phải đứng lại mà còn bắt thời gian phải ngừng trôi. Xuân Diệu quả là một
con người THAM LAM, nhưng sự tham lam ấy là hoàn toàn có lí. Xuân Diệu
luôn muốn tìm kiếm, săn lùng cái đẹp của trần gian để thưởng thức, để nhung
nhớ.
Ngay khi ông tận hưởng mùa xuân thì ông cũng đã khắc khỏi lo sợ bước đi
của thời gian sẽ phai tàn hương sắc. Niềm khắc khoải đó đã khiến cho nổi sung
24
Phân tích 3 bài thơ Tràng Giang, Vội vàng, Nhàn
sướng không còn được trọn vẹn. ‘Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng
một nữa”
Dấu chấm bẻ đôi câu thơ ném về hai đầu tâm trạng:một của khao khát, say
mê; một của hoài nghi, u uất. Đau buồn tuyệt vọng khi trở về hiện tại và chấp
nhận một sự thật phũ phàng, niềm vui, niềm hạnh phúc bỗng chốc tan biến như

một giấc mộng trước một dấu hiệu chẳng lành, trước sự lạnh lùng, nghiệt ngã
của thời gian.
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”
Tác giả lấy sinh mệnh cá nhân làm thước đo thời gian. Tức là lấy quỹ thời gian
hữu hạn của đời người ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ.Thậm chí lấy quãng
thời gian ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh con người là “tuổi
trẻ”.TÌNH YÊU đẹp nhất là thời tuổi trẻ, tuổi trẻ là giai đoạn đẹp nhất của đời
người. Lời thơ trần trụi như một sự thật đầy ngang trái: “xuân non” rồi cũng đến
lúc “xuân già”; “hoa đẹp” rồi cũng đến lúc phải “tàn phai” và con người cũng
vậy. Tác giả tạo nên một sự đối lập giữa trẻ và già, giữa cái vô hạn với cái hữu
hạn. Thi sĩ đã gián tiếp nhìn nhận và phán xét quy luật của tạo hoá.
Vâng! Vũ trụ có thể là vĩnh viễn, mùa xuân đất trời có thể là tuần hoàn.Xuân
Diệu đã ý thức được tuổi trẻ là cái hữu hạn trong cái hữư hạn đó nên nhà thơ
cảm thấy nuối tiếc.
“Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn đất trời nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Vậy thì phải làm sao?
Níu giữ thời gian ư? Nhưng không thể được! Cách duy nhất là hãy mau lên
để được sống trong tình yêu tuổi trẻ, giữa mùa xuân của cuộc đời, của vũ
25

×