Mở đầu
Bối cảnh lịch sử đã thay đổi khiến cho nền kinh tế bao cấp không còn phù hợp
và tỏ ra thật sự kém cỏi so với nền kinh tế thị trường. Chính vì điều đó, nhà nước
ta cần phải đổi mới để mang tới cho nền kinh tế đất nước một diện mạo khác,
đẹp đẽ và hoàn thiện hơn. Đổi mới là một chương trình cải cách toàn diện các
mặt của đời sống xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên
1980 . Chính sách đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội Đại biểu Đảng
Cộng Sản Việt Nam lần VI , năm 1986 . Trong tất cả các lĩnh vực đổi mới như
xã hội,chính trị , văn hoá … Đổi mới về kinh tế được thực hiện trước tiên và là
vấn đề được đảng và nhà nước chú trọng nhất và đầu tư phát triển từng bước. Từ
đó sẽ là nền tảng phát triển các lĩnh vực khác của xã hội . Trong những năm
đầu thế kỷ 21 , Việt Nam mới bắt đầu thực hiện .
Đổi mới ở Việt Nam tương tự quá trình cải tổ của các nước Đông âu,
cải cách Khai Phóng ở Trung Quốc và đổi mới ở Lào .
Quan điểm đổi mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình
thực hiện . Ngày nay , đổi mới về kinh tế được Nhà Nước Việt Nam định nghĩa :
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , hoạt động theo cơ chế thị trường , có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm đôỉ
mới nước ta đã không ít gặp những khó khăn và thách thức nhưng dần dần cũng
đã vượt qua và đạt dược những thành tựu lớn .Từ đó đưa nước ta trở thàn một
một nước có nền kinh tế phát triển, hội nhập thế giới , cạnh tranh với các cường
quốc khác. Hiện nay còn niều vấn đề cơ bản, lý luận chưa đáp ứng được yêu cầu
và thực tiễn xây dựng đất nước.
Nghiên cứu về nền kinh tế giúp ta hiểu đươc nền kinh tế hiên nay của
nước ta cũng như một số nước khác trên thế giới nó là một vấn đè rất quan trọng
đối với một sinh viên việt nam hiên nay để từ đó có thể nêu ra những nhu cầu
của người dân hiên nay đồng thời cũng nêu ra những sai lệch mà đảng ta mắc
phải.
NỘI DUNG
I.
NGHIÊN
CỨU
CƠ
SỞ
LÝ
LUẬN
VỀ
NỀN
KINH
TẾ
ĐỊNH HƯỚNG
XÃ
HỘI
CHỦ
NGHĨA
Ở
NƯỚC
TA:
1.
Khái
niệm
về
nền
kinh
tế
thị
trường:
Theo
quan
điểm
của
Samuelson
trích
trong
kinh
tế
học
thì:
“
Một
nền
kinh
tế
thị
trường
là
một
cơ
chế
tinh
vi
để
phối
hợp
một
cách
không
tự
giác nhân
dân
và
doanh
nghiệp
thông
qua
hệ
thống
giá
cả
và
thị
trường.
Nó
là
một phương
tiện
giao
thông
để
tập
hợp
tri
thức
và
hành
động
của
hàng
triệu
cá nhân
khác
nhau,
không
có
bộ
não
trung
tâm
nó
vẫn
giải
được
bài
toán
mà
máy tính
lớn
nhất
hiện
nay
cũng
không
thể
giải
nổi.
Không
ai
thiết
kế
ra
nó.
Nó
tự xuất
hiện
và
nó
đang
thay
đổi
cũng
như
xã
hội
loài
người.”
Theo
quan
điểm
của
đảng
ta,
một
nền
kinh
tế
mà
trong
đó
những
vấn
đề
cơ
bản
của
nó
do
thị
trường
quyết
định
được
xem
là
nền
kinh
tế
thị
trường. Nói
cách
khác
nền
kinh
tế
thị
trường
chính
là
nền
kinh
tế
hàng
hoá
chịu
sự điều
khiển
của
cơ
chế
thị
trường.
Nền
kinh
tế
này
khác
với
nền
tập
trung
ở chủ
thể
xác
định
các
vấn
đề
cơ
bản
của
nền
kinh
tế
mà
nền
kinh
tế
tập
trung chủ
thể
này
là
nhà
nước
thông
qua
các
mệnh
lệnh
hành
chính.
Chính
sự
khác biệt
này
tạo
ra
sức
mạnh
và
là
động
lực
cho
nền
kinh
tế
phát
triển.
Tại
Việt
Nam
kể
từ
Đại
hội
Đảng
toàn
quốc
lần
thứ
VI,
chúng
ta
đã
xác định
xây
dựng
nền
kinh
tế
thị
trường
nhưng
theo
định
hướng
xã
hội
chủ nghĩa.
Tức
là
có
sự
can
thiệp
của
nhà
nước
vào
nền
kinh
tế
nhưng
không
phải can
thiệp
vào
nền
kinh
tế
theo
kiểu
mệnh
lệnh
hành
chính
mà
can
thiệp
thông qua
các
chính
sách
kinh
tế
vĩ
mô
nhằm
ổn
định
nền
kinh
tế
và
tạo
điều
kiện cho
mọi
thành
phần
kinh
tế
tham
gia
vào
sản
xuất
và
kinh
doanh.
Sự
can
thiệp này
được
xem
là
cần
thiết
nhằm
thiết
lập
khuôn
khổ
pháp
luật
phù
hợp,
sữa chữa
những
khuyết
tật
của
thị
trường,
đảm
bảo
sự
công
bằng
xã
hội
và
ổn định
nền
kinh
tế
vĩ
mô
(
Kinh
tế
học
–
Samuelson).
Đây
là
lý
thuyết
nền
kinh
tế
hỗn
hợp
đã
được
Samuelson
đưa
ra/
Theo
ông
phát
triển
kinh
tế
phải
dựa
trên
hai
bàn
tay là
cơ
chế
thị
trường
và
nhà
nước:
“điều
hành
một
nền
kinh
tế không
có
cả
chính
phủ
lẫn
thị
trường
thì
cũng
như
định
vỗ
bằng
một
bàn
tay”. Tuy
nhiên
trong
hoàn
cảnh
nước
ta
thì
sự
can
thiệp
của
nhà
nước
còn
đóng vai
trò
giữ
cho
nền
kinh
tế
đi
theo
đúng
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa.
2.
Sự
cần
thiết
tồn
tại
kinh
tế
thị
trường:
Việt
Nam
đang
tồn
tại
đủ
các
điều
kiện
cần
thiết
là
cơ
sở
tồn
tại
của
nền kinh
tế
hàng
hoá.
Phân
công
lao
động
đang
phát
triển
cả
về
chiều
rộng
lẫn chiều
sâu. Nhiều
ngành
nghề
mới
đã
ra
đời,
đặc
biệt
là
những
ngành
công nghiệp
có
hàm
lượng
kỹ
thuật
kết
tinh
trong
sản
phẩm
cao
như
điện
tử,
tin học…
Bên
cạnh
đó
các
làng
nghề
cổ
truyền
cũng
đang
phát
triển
mạnh
mẽ. Các
sản
phẩm
của
ngành
đang
từng
bước
khẳng
định
thương
hiệu
trên
thị trường
trong
nước
và
quốc
tế.
Đây
chính
là
những
thế
mạnh
củaViệt
Nam trong
quá
trình
hội
nhập
kinh
tế
thế
giới. Sự
phát
triển
này
đã
kéo
theo
sự
phát triển
nhanh
chóng
của
lực
lượng
sản
xuất.
Kể
từ
sau
Đại
hội
Đảng
toàn
quốc
lần
VI.
Việt
Nam
đã
chính
thức
thừa
nhận
sự
tồn
tại
của
các
thành
phần
kinh
tế
ngoài
quốc
doanh.
Nhờ
đó
các thành
phần
kinh
tế
này
đã
có
những
điều
kiện
cần
thiết
để
phát
triển.
Từ
đó xuất
hiện
sự
khác
biệt
giữa
các
hình
thức
sở
hữu
về
tư
liệu
sản
xuất
và
sản phẩm
lao
động.
Đây
chính
là
điều
kiện
đủ
để
nền
kinh
tế
hành
hoá
có
cơ
sở
ra đời.
Khác
biệt
về
sở
hữu
về
tư
liệu
sản
xuất
và
sản
phẩm
lao
động
đã
tạo
ra động
lực
to
lớn
để
thúc
đẩy
kinh
tế
phát
triển
mặc
dù
mặt
trái
của
nó
là
sự phân
hoá
về
giàu
và
nghèo.
Cơ
chế
thị trường
với
những
ưu
thế
không
thể
chối
cãi
là
một
sự
lựa
chọn
hợp
lý
và
cần thiết.
Cơ
chế
quản
lý
cũ
cồng
kềnh,
kém
năng
lực
đã
không
còn
phù
hợp
với tình
hình
trong
nước
và
quốc
tế.
Những
căn
bệnh
đặc
trưng
của
cơ
chế
cũ
như bảo
thủ,
trì
trệ,
kém
năng
lực
hình
thành
nên
bộ
máy
quản
lý
thiếu
chuyên môn
nghiệp
vụ
nhưng
lại
có
thái
độ
quan
liêu,
cửa
quyền
cần
phải
được
thay đổi.
Thực
tế
cho
thấy
trải
qua
gần
hai
mươi
năm
đổi
mới
gây
dựng
nhưng chúng
ta
vẫn
phải
thực
hiện
các
cuộc
chỉnh
đốn
Đảng,
cải
cách
bộ
máy
hành chính
chứng
tỏ
những
quan
niệm
cũ
sai
lầm
đã
ăn
sâu
bám
rễ
như
thế
nào. Việc
xoá
bỏ
hoàn
toàn
không
dễ
dàng,
không
thể
hoàn
thành
trong
một
sớm một
chiều
nhưng
đó
là
việc
cần
thiết
để
thúc
đẩy
kinh
tế
phát
triển.
Cùng
với cơ
chế
cũ
cũng
là
sự
bất
cập
khi
nhà
nước
can
thiệp
quá
sâu
vào
sản
xuất
kinh doanh, điều
hành
không
tuân
theo
các
qui
luật
kinh
tế
mà
theo
cảm
tính
dẫn đến
sự
thất
bại
trong
thực
hiện
các
mục
tiêu
kinh
tế
xã
hội
đã
đề
ra.
Chuyển sang
cơ
chế
mới
sẽ
tạo
điều
kiện
cho
các
thành
phần
kinh
tế
phát
triển
theo đúng
những
qui
luật
kinh
tế
khách
quan.
Thực
tiễn
những
năm
đổi
mới
chỉ
ra
rằng
việc
chuyển
đổi
sang
mô
hình kinh
tế
thị
trường
của
Đảng
ta
là
hoàn
toàn
đúng
đắn.
Nhờ
mô
hình
kinh
tế
đó chúng
ta
đã
bước
đầu
khai
thác
được
tiềm
năng
trong
nước
đi
đôi
với
thu
hút vốn
và
kỹ
thuật
nước
ngoài,
giải
phóng
được
năng
lực
sản
xuất
trong
xã
hội, phát
triển
lực
lượng
sản
xuất,
góp
phần
quyết
định
bảo
đảm
nhịp
độ
tăng trưởng
GDP
bình
quân
hằng
năm
trong
những
năm
2000
là
7%.
Trong
đó nông
nghiệp
phát
triển
liên
tục,
đặc
biệt
là
sản
xuất
lương
thực
đưa
Việt
Nam
trở
thành
nước
thứ
ba
trên
thế
giới
về
xuất
khẩu
lương
thực.
Giá
trị
sản
xuất
công
nghiệp
tăng
bình
quân
hàng
năm
13,5%.
Hệ
thống
kết
cấu
hạ
tầng
kỹ thuật
và
xã
hội
được
tăng
cường.
Đời
sống
nhân
dân
được
cải
thiện,
nâng
cao tích
luỹ
xã
hội,
tạo
tiền
đề
cho
sự
phát
triển
trong
tương
lai
3.
Bản
chất
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa:
Nền
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
ở
nước
ta
có
một
số
điểm
như
sau:
Thứ
nhất
,
quá
trình
chuyển
nền
kinh
tế
nước
ta
sang
nền
kinh
tế
thị trường
đồng
thời
cũng
là
quá
trình
thực
hiện
nền
kinh
tế
mở,
nhằm
hoà
nhập với
thị
trường
thế
giới.
Thứ
hai,
bản
chất
của
quá
trình
chuyển
nền
kinh
tế
nước
ta
sang
nền
kinh
tế
thị
trường
theo
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
là
quá
trình
chuyển
nền
kinh
tế
còn
mang
nặng
tính
chất
tự
cung
tự
cấp
sang
nền
kinh
tế
hàng
hoá
tiến
tới
nền
kinh
tế
thị
trường
và
qua
trình
chuyển
cơ
chế
tập
trung
quan
liêu
bao
cấp
sang
cơ
chế
thị
trường
có
sự
quản
lý
của
nhà
nước.
Sự
phát
triển
của
chủ
nghĩa
tư
bản
đã
khẳng
định
nền
kinh
tế
hàng
hoá
đã
làm
cho
thị
trường
dân
tộc gắn
bó
và
hoà
nhập
với
thị
trường
thế
giới, Chính
giao
lưu
hàng
hoá
đã
làm
cho
quan
hệ
quốc
tế
được
mở
rộng
khỏi phạm
vi
quốc
gia,
thúc
đẩy
nền
kinh
tế
phát
triển
một
cách
nhanh
chóng.
Trong
quan
hệ
quốc
tế
chúng
ta
có
nhiều
đổi
mới
quan
trọng.
Chúng
ta
đã
chuyển
quan
hệ
quốc
tế
từ
đơn
phương
sang
đa
phương,
quan
hệ
với
tất
cả
các
nước
không
phân
biệt
chế
độ
chính
trị,
theo
nguyên
tắc
đôi
bên
cùng
có
lợi
và
không
can
hệ
vào
chuyện
nội
bộ
của
nhau.
4.
Đặc
trưng
của
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa ở
nước
ta:
Mục
đích
của
nền
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
là phát
triển
lực
lượng
sản
xuất,
phát
triển
kinh
tế
để
xây
dựng
cơ
sở
vật
chất
kỹ thuật
của
chủ
nghĩa
xã
hội,
nâng
cao
đời
sống
nhân
dân
lao
động
và
tất
cả
các thành
viên
trong
xã
hội.
Phát
triển
lực
lượng
sản
xuất
hiện
đại
gắn
liền
với xây
dựng
quan
hệ
sản
xuất
mới
phù
hợp
trên
cả
ba
mặt:
sở
hữu,
quản
lý
và phân
phối.
Về
sở
hữu
sẽ
phát
triển
theo
hướng
còn
tồn
tại
nhiều
hình
thức
sở
hữu khác
nhau,
nhiều
thành
phần
kinh
tế
khác
nhau
trong
đó
kinh
tế
nhà
nước
giữ vai
trò
chủ
đạo.
Tiêu
chuẩn
căn
bản
để
đánh
giá
hiệu
quả
xây
dựng
quan
hệ
sản
xuất
theo
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
là
thúc
đẩy
phát
triển
lực
lượng sản
xuất,
cải
thiện
đời
sống
nhân
dân
và
thực
hiện
công
bằng
xã
hội
nên
phải từng
bước
xác
lập
và
phát
triển
chế
độ
sở
hữu
công
cộng
về
tư
liệu
sản
xuất chủ
yếu
một
cách
vững
chắc,
tránh
nóng
vội
xây
dựng
ồ
ạt
mà
không
tính
đến hiệu
quả
như
trước
đây.
Về
quản
lý
trong
kinh
tế
thị
trường
địng
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
phải
có
sự
quản
lý
của
nhà
nước
xã
hội
chủ
nghĩa.
Nhà
nước
xã
hội
chủ
nghĩa
sẽ quản
lý
nền
kinh
tế
bằng
pháp
luật,
chiến
lược,
kế
hoạch,
chính
sách
đồng thời
sử
dụng
cơ
chế
thị
trường,
các
hình
thức
kinh
tế
và
phương
thức
quản
lý kinh
tế
thị
trường
để
kích
thích
sản
xuất,
giải
phóng
sức
sản
xuất,
phát
huy tính
tích
cực
và
hạn
chế
những
mặt
tiêu
cực,
khuyết
tật
của
cơ
chế
thị
trường, bảo
vệ
lợi
ích
nhân
dân
lao
động
và
toàn
thể
quần
chúng
nhân
dân.
Về
phân
phối
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
thực
hiện
phân
phối
chủ
yếu
theo
kết
quả
lao
động
và
hiệu
quả
kinh
tế,
đồng
thời
phân
phối
theo
mức
đóng
góp
vốn
và
các
nguồn
lực
khác
vào
sản
xuất
kinh
doanh
và
thông
qua
phúc
lợi
xã
hội.
Cơ
chế
phân
phối
này
vừa
tạo
động
lực
kích thích
các
chủ
thể
kinh
tế
nâng
cao
hiệu
quả
hoạt
động
sản
xuất
kinh
doanh, đông
thời
hạn
chế
những
bất
công
trong
xã
hội. Thực
hiện
tăng
trưởng
kinh
tế gắn
liền
với
công
bằng
xã
hội
ngay
trong
từng
bước
phát
triển.
Tính
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
của
nền
kinh
tế
thị
trường
nước
ta còn
thể
hiện
ở
chỗ
tăng
trưởng
kinh
tế
phải
đi
đôi
với
phát
triển
văn
hoá,
giáo dục
xây
dựng
nền
văn
hoá
Việt
Nam
tiên
tiến,
đậm
đà
bản
sắc
dân
tộc,
làm cho
chủ
nghĩa
Mác
Lênin,
tư
tưởng
Hồ
Chí
Minh
giữ
vai
trò
chủ
đạo
trong đời
sống
tinh
thần
của
nhân
dân,
nâng
cao
dân
trí,
giáo
dục
và
đào
tạo
con nguời,
xây
dựng
và
phát
triển
nguồn
nhân
lực
của
đất
nước.
Chủ
trương
xây
dựng
và
phát
triển
nền
kinh
tế
thị
trường,
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
có
sự
quản
lý
của
nhà
nước
thể
hiện
trình
độ
tư
duy
và
vận
dụng
của
Đảng
ta
về
qui
luật
sự
phù
hợp
giữa
quan
hệ
sản
xuất
với
tính
chất
và
trình
độ
phát
triển
của
lực
lượng
sản
xuất.
Đây
là
mô
hình
kinh
tế
tổng
quát
của
nước
ta
trong
thời
kỳ
quá
độ
lên
chủ
nghĩa
xã
hội.
II.
THỰC
TRẠNG
VIỆC
HÌNH
THÀNH
VÀ
PHÁT
TRIỂN
NỀN
KINH
TẾ
THỊ
TRƯỜNG
ĐỊNH
HƯỚNG
XÃ
HỘI
CHỦ
NGHĨA
Ở NƯỚC
TA:
1.
Trước
đổi
mới:
Từ
năm
1975
đất
nước
Việt
Nam
hoàn
toàn
độc
lập
và
thống
nhất,
cách mạng
Việt
Nam
hoàn
toàn
chuyển
sang
giai
đoạn
mới,
cả
nước
xây
dựng
chủ nghĩa
xã
hội.
Đất
nước
đi
lên
chủ
nghĩa
xã
hội
từ
điểm
xuất
phát
rất
thấp
lại chịu
ảnh
hưởng
nặng
nề
do
chiến
tranh
kéo
dài.
Trong
15
năm
nhân
dân
ta
đã không
ngừng
phấn
đấu
vựot
qua
bao
khó
khăn
thử
thách
mới
giành
được
độc lập
thống
nhất
đất
nước.
Chúng
ta
đã
có
nhiều
cố
gắng
trong
việc
hàn
gắn
vết thương
chiến
tranh,
khôi
phục
nền
kinh
tế
bị
tàn
phá
nặng
nề,
từng
bước
xác lập
quan
hệ
sản
xuất
mới
bước
đầu
xây
dựng
cơ
sở
vật
chất
kỹ
thuật
của
chủ nghĩa
xã
hội,
phát
triển
sự
nghiệp
văn
hoá
giáo
dục
y
tế,
thiết
lập
củng
cố chính
quyền
nhân
dân
trong
cả
nước.
Tuy
nhiên,
nền
kinh
tế
vẫn
ở
trong
tình trạng
kém
phát
triển,
sản
xuất
nhỏ
là
phổ
biến
và
nặng
nề
tính
tự
cung
tự
cấp. Trình
độ trang
thiết
bị
kỹ
thuật
trong
sản
xuất
cũng
như
trong
kết
cấu
hạ
tầng kinh
tế
văn
hoá
xã
hội
lạc
hậu,
mất
cân
đối,
chưa
tạo
được
tích
luỹ
trong
nước và
lệ
thuộc
nhiều
vào
bên
ngoài.
Cơ
chế
quản
lý
tập
trung
quan
liêu
bao
cấp để
lại
nhiều
hậu
quả
tiêu
cực
do
đó
nền
kinh
tế
hoạt
động
với
hiệu
quả
thấp. Khủng
hoảng
kinh
tế
xã
hội
diễn
ra
nhiều
với
đặc
trưng
sản
xuất
chậm à
không
ổn
định,
lạm
phát
lên
đến
774,7%
năm
1986.
Tài
nguyên
thiết
bị
lao động
và
tài
năng
mới
được
sử
dụng
thấp.
Đời
sống
nhân
dân
thiếu
thốn,
nếp sống
văn
hoá
tinh
thần
và
đạo
đức
kém
lành
mạnh,
trật
tự
an
toàn
xã
hội không
được
đảm
bảo,
tham
nhũng
nhiều
và
tệ
nạn
xã
hội
phát
triển.
Trên
thực
tế
nền
kinh
tế
nước
ta
từ
nghị
quyết
hội
nghị
lần
thứ
6
ban chấp
hành
Trung
ương
khoá
IV
(năm
1979)
các
quan
hệ
hàng
hoá
tiền
tệ
đã được
chấp
nhận
nhưng
mới
ở
mức
độ
thứ
yếu.
Đó
là
do
qua
nhiều
thập
kỷ qua,
tư
tưởng
kinh
tế
xã
hội
chủ
nghĩa
mang
nặng
thành
kiến
coi
quan
hệ hàng
hoá
và
cơ
chế
thị
trường
là
biểu
hiện
thuộc
tính
của
chế
độ
tư
hữu
và
tư bản.
Mặt
khác
là
do
chúng
ta
xây
dựng
chủ
nghĩa
xã
hội
theo
mô
hình
dập khuôn
giáo
điều
chủ
quan
duy
ý
chí
các
mặt
bố
trí
cơ
cấu
kinh
tế
thiếu
về
phát triển
công
nghiệp
nặng,
quy
mô
lớn
với
xoá
bỏ
các
hình
thức
kinh
tế
dựa
trên chế
độ
tư
hữu
về
tư
liệu
sản
xuất,
phát
triển
kinh
tế
quốc
doanh
và
kinh
tế
tập thể,
nặng
nề
hình
thức
phủ
nhận
nền
kinh
tế
hàng
hoá
theo
cơ
chế
thị
trường, bộ
máy
quan
liêu
cồng
kềnh
kém
hiệu
quả.
Những
sai
lầm
đó
đã
dẫn
đến
việc kìm
hãm
lực
lượng
sản
xuất
và
nhiều
động
lực
phát
triển,
cuộc
cải
cách
kinh tế
bị
đẩy
lùi.
Tư
tưởng
Lênin
trong
chính
sách
kinh
tế
Mác
bị
xem
như
bước lùi
tạm
thời
bất
đắc
dĩ.
2.
Sau
đổi
mới:
Khi
chuyển
sang
kinh
tế
thị
trường
chúng
ta
đứng
trước
thực
trạng
là
đất
nước
đã
và
đang
từng
bước
quá
độ
lên
chủ
nghĩa
xã
hội,
từ
một
xã
hội
vốn
là
thuộc
địa
nửa
phong
kiến,
trình
độ
phát
triển
của
lực
lượng
sản
xuất
xã
hội thấp.
Không
những
thế,
đất
nước
ta
lại
trải
qua
hàng
chục
năm
chiến
tranh, hậu
quả
để
lại
vô
cùng
nặng
nề,
những
tàn
dư
thực
dân
phong
kiến
còn
nhiều, lại
chịu
ảnh
hưởng
nặng
nề
của
cơ
chế
tập
trung
quan
liêu
bao
cấp.
Từ
những
đặc
điểm
trên
ta
có
thể
nhận
xét
rằng:
nền
kinh
tế
nước
ta không
còn
hoàn
toàn
là
nền
kinh
tế
tự
cung
tự
cấp
nhưng
cũng
chưa
phải
là nền
kinh
tế
hàng
hoá
theo
ý
nghĩa
đầy
đủ.
Mặt
khác
do
có
sự
đổi
mới
về
mặt kinh
tế
nền
kinh
tế
nước
ta
khi
chuyển
sang
kinh
tế
thị
trường
là
nền
kinh
tế hàng
hoá
kém
phát
triển,
còn
mang
nặng
tính
chất
tự
cấp
là
ảnh
hưởng
nặng
nề
của
cơ
chế
tập
trung
quan
liêu
bao
cấp.
Thực
trạng
đó
được
thể
hiện
ở
các
mặt
sau:
-Thứ
nhất,
kinh
tế
hàng
hóa
kém
phát
triển,
nền
kinh
tế
còn
mang
nặng
tính
tự
cung
tự
cấp,
cơ
cấu
kinh
tế
còn
mất
cân
đối
và
kém
hiệu
quả,
chưa
có
thị
trường
theo
đúng
nghĩa
của
nó
và
năng
suất
lao
động
xã
hội
và
thu
nhập
quốc
dân
tính
theo
đầu
người
còn
thấp.
Nền
kinh
tế
nhiều
thành
phần
ở
nước
ta
đã
được
hình
thành
và
phát triển,
vì
vậy
thị
trường
nước
ta
cũng
được
hình
thành
và
phát
triển.
Xem
xét khái
quát
về
thị
trường
nước
ta
trong
những
năm
qua
vẫn
thấy
còn
là
thị trường
ở
trình
độ
thấp,
tính
chất
của
nó
vẫn
còn
hoang
sơ,
dung
lượng
còn yếu
và
có
phần
rối
loạn.
Chúng
ta
mới
có
thị
trường
hàng
hoá
nói
chung, trước
hết
là
thị
trường
hàng
tiêu
dùng
thông
thường
với
hệ
số
giá
cả
và
quan hệ
mua
bán
bình
thường.
Về
cơ
bản
chúng
ta
chưa
có
thị
trường
sức
lao
động, thị
trường
tiền
vốn
trong
khu
vực
kinh
tế
nhà
nước.
Thực
trạng
này
của
thị trường
nước
ta
là
do
kết
quả
của
nhiều
nguyên
nhân
khác
nhau.
Về
mặt
khách quan
là
do
trình
độ
phát
triển
của
phân
công
lao
động
xã
hội
còn
thấp,
nền kinh
tế
còn
mang
nặng
tính
tự
cấp
tự
túc.
Về
mặt
chủ
quan
là
do
những
nhận thức
chưa
đúng
đắn
của
nền
kinh
tế
xã
hội
chủ
nghĩa,
là
do
sự
phân
biệt
duy
ý chí
giữa
thị
trường
có
tổ
chức
và
thị
trường
tự
do.
Điều
cần
thiết
phải
rút
ra
từ
thực
trạng
của
thị
trường
trên
đây
là:
với
tất
cả
tính
phức
tạp
và
các
mặt
tiêu
cực
xảy
ra
trên
thị
trường,
việc
chuyển
nền kinh
tế
nước
ta
sang
kinh
tế
thị
trường
vẫn
đưa
tới
mức
tiến
bộ
về
mật
kinh
tế hơn
hẳn
trước
đây
và
tạo
khả
năng
dẫn
tới
bước
ngoặt
quyết
định.
Nhiệm
vụ đặt
ra
hiện
nay
là
phải
tiếp
tục
thúc
đẩy
quá
trình
hình
thành
và
phát
triển
của thị
trường
ngày
càng
đầy
đủ
và
thông
suốt,
thống
nhất
trên
phạm
vi
cả
nước, phải
gắn
thị
trường
trong
nước
với
thị
trường
quốc
tế.
Thứ
hai
về
thực
trạng
của
nền
kinh
tế
nước
ta
khi
chuyển
sang
nền
kinh
tế
thị
trường
là
ảnh
hưởng
của
mô
hình
kinh
tế
chỉ huy
với
cơ
chế
tập
trung
quan
liêu
bao
cấp.
Hai
cơ
chế
kinh
tế
cũ
và mới
(
cơ
chế
tập
trung
quan
liêu
bao
cấp
và
thị
trường)
có
nhiều
đặc
điểm khác
nhau,
điểm
khác
nhau
cơ
bản
nhất
là:
cơ
chế
cũ
hình
thành
trên
cơ
sở
thu hẹp
hoặc
gần
như
xoá
bỏ
quan
hệ
hàng
và
tiền
tệ,
làm
cho
nền
kinh
tế
bị
“ hiện
vật
hoá”
còn
cơ
chế
mới
hình
thành
trên
cơ
sở
mở
rộng
quan
hệ
hàng
hoá tiền
tệ.
Quy
luật
tồn
tại
trong
cơ
chế
giao
nộp
và
cấp
phát
chỉ
là
hình
thức,
việc
mở
rộng
sản
xuất
và
lưu
thông
hàng
hoá
là
một
tất
yếu
lịch
sử
cho
nên
hạn chế
quuan
hệ
hàng
hoá
tiền
tệ
và
quy
luật
giá
trị
trở
thành
sự
cản
trở
tiến
bộ kinh
tế,
kìm
hãm
nhân
tố
mới.
Do
đó
làm
cho
nhà
nước
không
thể
làm
chủ những
quá
trình
kinh
tế
khách
quan
mặc
dù
trong
tay
nhà
nước
có
thực
lực kinh
tế
to
lớn.
Vì
vậy,
đại
hội
lần
thứ
VII
Đảng
ta
đã
khẳng
định:
Xoá
bỏ
triệt để
cơ
chế
quản
lý
tập
trung
quan
liêu
bao
cấp
hình
thành
cơ
chế
thị
trờng
có sự
quản
lý
của
nhà
nước
bằng
pháp
luật,
kế
hoạch
chính
sách
và
các
công
cụ khác.
Xây
dựng
và
phát
triển
đồng
bộ
hàng
tiêu
dùng,
vật
tư,
dịch
vụ
sức
lao động…
thực
hiện
kinh
tế
thông
suốt
trong
cả
nước
và
với
thị
trường
thế
giới.
Xuất
phát
từ
nhiệm
vụ
bao
trùm
về
chính
sách
đối
ngoại
và
quan
điểm:
“Việt
Nam
muốn
là
bạn
của
tất
cả
các
nước
trong
cộng
đồng
thế
giới,
phấn đấu
vì
hoà
bình,
độc
lập
và
phát
triển”,
chính
sách
knh
tế
đối
ngoại
của
nền kinh
tế
hàng
hoá
nước
ta
hiện
nay được
thực
hiện
theo
những
định
hướng sau:
Đa
dạng
hoá,
đa
phương
hoá
kinh
tế
với
mọi
quố
gia,
mọi
tổ
chức
kinh
tế
không
phân
biệt
chế
độ
chính
trị
trên
nguyên
tắc
tôn
trong
độc
lập
chủ quyền
bình
đẳng
và
cùng
có
lợi.
Củng
cố
và
tăng
cường
vị
trí
của
Việt
Nam
ở các
thị
trường
quen
thuộc
và
với
bạn
hàng
truyền
thống,
tích
cực
thâm
nhập
và
tạo
chỗ
đứng
ở
thị
trường
mới,
phát
triển
các
mối
quan
hệ
dưới
mọi
hình
thức.
Kinh
tế
đối
ngoại
là
một
trong
các
công
cụ
kinh
tế
bảo
đảm
cho
việc
thực
hiện
các
mục
tiêu
kinh
tế
–
xã
hội
đề
ra
cho
từng
giai
đoạn
lịch
sử
cụ
thể
và
phục
vụ
đắc
lực
mục
tiêu
độc
lập
dân
tộc
và
chủ
nghĩa
xã
hội,
thực
hiện
công
nghiệp
hoá
hiện
đại
hoá
theo
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa.
Tăng
cường
hội
nhập
vào
nền
kinh
tế
thế
giới,
phát
huy
ý
chí
tự
lực
tự cường;
kết
hợp
sức
mạnh
dân
tộc
với
sức
mạnh
thời
đại,
dựa
vào
nguồn
lực trong
nước
là
chính,
đi
đôi
với
tranh
thủ
tối
đa
nguồn
lực
ở
bên
ngoài.
Theo
những
định
hướng
trên,
mấy
năm
qua,
hoạt
động
kinh
tế
đối
ngoại
ở
nước
ta
đã
lập
lại
quan
hệ
bình
thường
với
các
quan
hệ
tài
chính,
tiền
tệ
quốc
tế,
bước
đầu
đã
thu
đựoc
những
thành
tựu
quan
trọng
về
kinh
tế
đối
ngoại.
Ngoài
ra
nền
kinh
tế
thị
trưòng
phát
triển
theo
định
hướng
xã
hội
chủ nghĩa
cần
có
sự
quản
lý
vĩ
mô
của
nhà
nước.
Đây
là
đặc
điểm
cơ
bản
nhất
của kinh
tế
thị
trường
ở
nước
ta
khác
với
nền
sản
xuất
hàng
hoá
giản
đơn
trứoc đây,
cũng
như
khác
với
nền
kinh
tế
thị
trường
ở
các
nước
tư
bản
chủ
nghĩa. Đặc
điểm
này
cũng
chính
là
mô
hình
kinh
tế
khái
quát
trong
thời
kỳ
quá
độ lên
chủ
nghĩa
xã
hội
ở
nước
ta.
Mô
hình
kinh
tế
đó
có
những
đặc
trưng
riêng
, làm
cho
nó
khác
với
kinh
tế
thị
trường
ở
các
nước
tư
bản
chủ
nghĩa.
3.
Hạn
chế
trong
phát
triển
kinh
tế
Măc
dù
nước
ta
đã
đạt
được
nhưng
thành
tựu
nhất
định
trong
phát
triển kinh
tế
và
ổn
định
tình
hình
chính
trị
xã
hội
nhưng
không
phải
không
còn nhưng
tồn
tại
cần
được
giải
quyết
nhất
là
những
tồn
tại
trong
việc
điều
hành nền
kinh
tế
và
giải
quyết
các
vấn
đề
thương
mại
.Tuy
những
khó
khăn
này
chỉ là
tạm
thời
nhưng
chúng
ta
vẫn
phải
giải
quyết
để
làm
lành
mạnh
hoá
nền kinh
tế
và
đẩy
nhanh
công
cuộc
phát
triển
kinh
tế
nước
nhà
.
Một
trong
những
hạn
chế
lớn
hiện
nay
là
Việt
Nam
còn
thiếu
quá
nhiều thông
tin
,
đặc
biệt
là
thông
tin
trong
lĩnh
vực
kinh
tế.
Không
có
các
thông
tin cần
thiết
về
thị
trường
,
về
Luật
kinh
tế
dẫn
đến
nhiều
thất
bại.
Đáng
chú
ý
là vấn
đề
thương
hiệu
và
gần
đây
là
những
khó
khăn
trong
việc
thâm
nhập
thị
trường
Mỹ.
Chính
từ
hai
nguyên
nhân
này
mà
Việt
Nam
thất
bại
trong
vụ
kiện
cá
ba
sa.Về
mặt
nào
đó
vụ
kiện
này
có
mặt
thiên
vị
cho
Hiệp
hội
chủ
trại
cá nheo
Mỹ
nhưng
phải
thừa
nhận
chúng
ta
đã
không
có
nhưng
thông
tin
cần thiết
và
cũng
không
tiến
hành
những
hoạt
động
mà
đáng
ra
chúng
ta
phải
thực hiện
trước
khi
thâm
nhập
và
thành
công
trên
thị
trường
khó
tính
này.
Một
hạn chế
khác
là
chúng
ta
vẫn
còn
tồn
tại
những
nghành
kinh
tế
còn
quá
yếu
kém khi
mà
chúng
ta
đã
và
đang
dỡ
bỏ
một
số
hạn
ngạch
thuế
quan
cho
một
số
mặt hàng
để
chuẩn
bị
cho
quá
trình
tham
gia
tổ
chức
thương
mại
quốc
tế
WHO. Nguyên
nhân
của
sự
khó
khăn
này
một
phần
là
do
còn
có
nhưng
ngành
kinh tế
hoạt
động
không
hiệu
quả
đặc
biệt
trong
sử
dụng
vốn.
Một
phần
là
do
một phần
những
ngành
khác
có
tỷ
lệ
nội
địa
hoá
thấp.
Ngoài
ra
vẫn
phải
thừa
nhận là
các
ngành
kinh
tế
Việt
Nam
phát
triển
phần
lớn
là
dựa
vào
sự
tăng
lên
về vốn.
Theo
thống
kê
gần
đây
thì
trong
cơ
cấu
một
đồng
sản
phẩm
tăng
lên
thì có
tới
74%
là
do
tăng
về
vốn
,
14%
do
lao
động
và
chỉ
có
12%
là
do
sự
tăng lên
về
năng
suất
thôi.
Trong
những
nghành
có
tỷ
lệ
nội
địa
hoá
thấp
thì
có
thể kể
đến
ngành
ô
tô
và
công
nghệ
tin
học,
phần
lớn
hàng
hoá
sản
xuất
trong nước
mới
dừng
ở
mức
lắp
ráp
sản
phẩm
linh
kiện
nhập
từ
nước
ngoài
về.Ví dụ
ngành
ô
tô
tỷ
lệ
nội
địa
hoá
mới
ở
mức
8%,
cao
nhất
là
Toyota
Việt
Nam tỷ
lệ
này
cung
chỉ
đạt
14%.
Hiện
nay
một
trong
những
vấn
đề
mà
các
nhà quản
lý
không
thể
giải
quyết
mâu
thuẫn
giữa
việc
giảm
để
kích
thích
tiêu dùng
các
loại
hàng
hoá
đồng
thời
phải
tăng
thuế
để
buộc
các
doanh
nghiệp tăng
tỷ
lệ
nội
địa
hoá.
Đó
là
trên
sân
nhà,
còn
trên
thị
trường
thế
giới
thì
sao?
Nói
chung
hàng hoá
Việt
Nam
vẫn
còn
chủ
yếu
cạnh
tranh
bằng
giá.
Nói
chung
công
nghệ
sản xuất
của
Việt
Nam
còn
khá
lạc
hậu
nên
hàng
hoá
có
giá
trị
thấp,
hàm
lượng khoa
học
không
cao.
Kết
quả
dễ
thấy
là
lợi
nhuận
sẽ
thấp.
Trong
khi
đó,
Việt Nam
lại
chưa
vươn
tới
những
thị
trường
dễ
tính
như
châu
Phi,
Đông
Âu…
mà chủ
yếu
hàng
hoá
xuất
sang
EU,
Nhật
và
Mỹ
vốn
là
những
thị
trường
khó
tính đòi
hỏi
những
tiêu
chuẩn
khắt
khe.
Các
tham
tán
thương
mại
cũng
chưa
hoạt động
hiệu
quả
trong
việc
hỗ
trợ
doanh
nghiệp
tìm
kiếm
thị
trường.
Một
vấn
đề nữa
là
hàng
hoá
Việt
Nam
vẫn
hay
bị
một
số
nước
mua
lại,
dán
nhãn
mác khác
để
bán
ra
thị
trường.
Đây
là
một
thiệt
thòi
lớn
cho
chúng
ta
không
chỉ
là lợi
nhuận
mà
còn
liên
quan
đến
những
quyền
lợi
và
tài
sản
vô
hình
khác.
Không
chỉ
vậy,
trong
lĩnh
vực
quản
lý
nhà
nước
chúng
ta
cũng
còn
tồn
tại
không
ít
những
hạn
chế
đặc
biệt
trong
lĩnh
vực
quản
lý
hành
chính
và
chế
độ
tài
chính
công.
Phải
thừa
nhân
rằng
bộ
máy
hành
chính
của
Việt
Nam
còn
rất
cồng
kềnh
và
còn
quá
nhiều
khâu
trùng
lặp.
Mặc
dù
chúng
ta
đã
có
những
cải
cách
trong
rút
gọn
thủ
tục
hành
chính
nhưng
vẫn
còn
khá
phức
tạp,
chưa thực
sự
thông
thoáng.
Tiêu
biểu
là
việc
cải
thiện
chế
độ
hải
quan
tại
các
cảng biển
nước
ta.
Theo
đánh
giá
của
các
nhà
kinh
doanh
nước
ta
đây
là
một
tiến bộ
lớn
nhưng
sau
một
thời
gian
kiểm
điểm
lại
chính
chúng
ta
cũng
phải
thừa nhận
những
khiếm
khuyết
vẫn
còn
tồn
tại.
Đồng
thời
với
việc
nặng
nề
trong
thủ
tục
hành
chính
thì
vấn
đề
liên
hệ
giữa
các
thành
phàn tham
gia
giải
quyết
cũng
chưa
thông
suốt.
Hệ
thống
luật
Việt
Nam
cũng
chưa thực
sự
hoàn
thiện
và
thiếu
sự
ổn
định.
Đặc
biệt
là
hệ
thống
luật
kinh
tế
nói
chung
luôn
thay
đổi
gây
không
ít
khó
khăn
cho
doanh
nghiệp.
Gần
đây
các phương
tiện
thông
tin
đại
chúng
liên
tục
đưa
ra
những
kiến
nghị
của
các doanh
nghiệp
xung
quanh
vấn
đề
mua
hoá
đơn
GTGT.
Theo
ý
kiến
của
các chuyên
gia
nước
ngoài
tham
gia
giúp
đỡ
Việt
Nam
trong
việc
soạn
thảo
các văn
bản
luật
thì
nguyên
nhân
chính
là
do
Việt
Nam
có
quá
nhiều
văn
bản chồng
chéo.
Ngoài
luật
còn
có
thông
tư,
chỉ
thị,
hướng
dẫn.Đôi
khi
chính những
văn
bản
này
lại
hạn
chế
lẫn
nhau,
mâu
thuẫn
với
nhau.
Bộ
máy
hành chính
còn
cồng
kềnh
cũng
hạn
chế
khả
năng
hoạt
động
của
các
nhà
đầu
tư. Cái
khó
nhất
ở
đây
là
bộ
máy
hành
chính
càng
cồng
kềnh
càng
tạo
ra
nhiều khâu
trung
gian,
càng
làm
mất
thời
gian
của
doanh
nghiệp
trong
khi
đó
có không
ít
khâu
còn
có
sự
chồng
chéo
nhau
không
phân
định
rõ
phạm
vi
hoạt động.
III.
MỘT
SỐ
GIẢI
PHÁP
CƠ
BẢN
TIẾP
TỤC
PHÁT
TRIỂN
KINH TẾ
THỊ
TRƯÒNG
ĐỊNH
HƯỚNG
XÃ
HỘI
CHỦ
NGHĨA:
Muốn
phát
triển
nền
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
ở
Việt
Nam,
cần
thực
hiện
đồng
bộ
nhiều
giải
pháp.
1.
Thực
hiện
nhất
quán
chính
sách
kinh
tế
nhiều
thành
p
hần:
Thừa
nhận
trên
thực
tế
tồn
tại
nhiều
thành
phần
kinh
tê
trong
thời
kỳ quá
độ
là
một
trong
những
điềukiện
cơ
sở
để
thúc
đẩy
kinh
tế
hàng
hoá
phát triển,
nhờ
đó
mà
sử
dụng
có
hiệu
quả
sức
mạnh
tổng
hợp
của
mọi
thành
phần kinh
tế.
Cùng
với
việc
đổi
mới,
củng
cố
kinh
tế
nhà
nước
và
kinh
tế
hợp
tác,
thừa
nhận
việc
khuyến
khích
các
thành
phần
kinh
tế
cá
thế,
tư
nhân
phát
triển
là
nhận
thức
quan
trọng
về
xây
dựng
chủ
nghĩa
trong
thời
kỳ
quá
độ.
Theo
hướng
đó
mà
khu
vực
kinh
tế
nhà
nước,
kinh
tế
tập thể,
kinh
tế
cá
thể
và
các
hình
thức
kinh
tế
hỗn
hợp
khác
đều
được khuyến
khích
phát
triển
theo
định
hướng
tiến
lên
chủ
nghĩa
xã
hội.
Tất
cả
các thành
phần
kinh
tế
đều
bình
đẳng
trước
pháp
luật,
tuy
vị
trí,
quy
mô,
tỷ
trọng, trình
độ
có
khác
nhau
nhưng
tất
cả
đều
là
nội
lực
của
nền
kinh
tế
phát
triển theo
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa.
2.
Mở
rộng
phân
công
lao
động,
phát
triển
kinh
tế
vùng,
lãnh
thổ, tạo
lập
đồng
bộ
các
yếu
tố
thị
trường:
Phân
công
lao
động
là
cơ
sở
của
việc
trao
đổi
sản
phẩm.
Để
đẩy
mạnh
phát
triển
kinh
tế
hàng
hoá,
cần
phải
mở
rộng
phân
công
lao
động
xã
hội,
phân
bố
lại
lao
động
và
dân
cư
trong
phạm
vi
cả
nước
cũng
như
từng
địa phương,
từng
vùng
theo
hướng
chuyên
môn
hoá,
hợp
tác
hoá
nhằm
khai
thác mọi
nguồn
lực,
phát
triển
mọi
ngành
nghề,
sử
dụng
có
hiệu
quả
cơ
sở
vật
chất
-
kỹ
thuật
hiện
có
và
tạo
việc
làm
cho
người
lao
động.
Cùng
với
mở
rộng
phân
công
lao
động
xã
hội
trong
nước,
phải
tiếp
tục
mở
rộng
quan
hệ
kinh
tế với
nước
ngoài
nhằm
gắn
phân
công
lao
động
trong
nước
và
phân
công
lao động
quốc
tế,
gắn
thị
trường
trong
nước
và
thị
trường
quốc
tế.
Nhờ
đó
mà
thị trường
trong
nước
từng
bứơc
được
mở
rộng,
tiềm
năng
về
lao
động,
tài nguyên,
cơ
sở
vật
chất
hiện
có
được
khai
thác
có
hiệu
quả.
Thị
trường
được khai
thông
trên
khắp
mọi
miền
của
đất
nước,
gắn
liền
với
thị
trường
thế
giới.
Cần
phải
tiếp
tục
phát
triển
mạnh
thị
trường
hàng
hoá
và
dịch
vụ,
hình
thành
thị
trường
sức
lao
động
có
tổ
chức,
quản
lý
chặt
chẽ
đất
đai
và
thị trường
nhà
cửa,
xây
dựng
thị
trường
vốn,
từng
bước
hình
thành
thị
trường chứng
khoán.
Để
khai
thác
có
hiệu
quả
tiềm
năng
về
vốn,
sức
lao
động,
công
nghệ,
tài
nguyên,
thực
hiện
mở
rộng
phân
công
lao
động
xã
hội,
cần
phải
từng
bước hình
thành
đồng
bộ
các
loại
thị
trường
tiền
tệ,
vốn,
sức
lao
động,
chất
xám, thông
tin,
tư
liệu
sản
xuất
và
tư
liệu
tiêu
dùng…
Điều
này
sẽ
đảm
bảo
cho việc
phân
bố
và
sử
dụng
các
yếu
tố
đầu
vào,
đầu
ra
của
quá
trình
sản
xuất
phù hợp
với
nhu
cầu
của
sự
phát
triển
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ nghĩa.
3.
Đẩy
mạnh
công
tác
nghiên
cứu
ứng
dụng
khoa
học
công
nghệ,đẩy
mạnh
công
nghiệp
hoá,
hiện
đại
hoá
Trong
kinh
tế
thị
trường,
các
doanh
nghiệp
chỉ
có
thể
đứng
vững
trong cạnh
tranh
nếu
thưòng
xuyên
đổi
mới
công
nghệ
để
hạ
chi
phí,
nâng
cao
chất lượng
sản
phẩm.
Muốn
vậy
phải
đẩy
mạnh
công
tác
nghiên
cứu
và
ứng
dụng các
thành
tựu
mới
của
cuộc
cách
mạng
khoa
học
vào
quá
trình
lưu
thông
hàng hoá.
So
với
thế
giới,
trình
độ
công
nghệ
sản
xuất
của
ta
còn
thấp
kém,
không đồng
bộ
do
vậy
khả
năng
cạnh
tranh
của
hàng
hoá
nước
ta
so
với
hàng
hoá nước
ngoài
trên
thị
trường
cả
nội
địa
và
thế
giới
còn
kém.
Bởi
vậy,
để
phát triển
kinh
tế
hàng
hoá,
chúng
ta
phải
đẩy
mạnh
công
nghiệp
hoá
hiện
đại
hoá.Hệ
thống
kết
cấu
hạ
tầng
cơ
sở
và
dịch
vụ
hiện
đaị,
đồng
bộ
cũng
đóng vai
trò
quan
trọng
cho
sự
phát
triển
kinh
tế
xã
hội.
Hệ
thống
đó
ở
nước
ta
đã quá
lạc
hậu,
không
đồng
bộ
mất
cân
đôí
nghiêm
trọng
nên
đã
cản
trở
nhiều đến
quyết
tâm
của
các
nhà
đầu
tư
trong
cả
nước
lẫn
nước
ngoài,
cản
trở
phát triển
hàng
hoá
ở
mọi
miền
đất
nứơc.
Vì
thế
cần
gấp
rút
xây
dựng
và
củng
cố các
yếu
tố
của
hệ
thống
kết
cấu
đó.
Trước
mắt,
nhà
nước
cần
tập
trung
ưu
tiên xây
dựng
nâng
cấp
một
số
yêu
tố
thiêt
yếu
như
đường
sá,
cầu
cống,
bến
cảng, sân
bay,
điện,
nước
hệ
thống
thông
tin
liên
lạc,
ngân
hàng
dịch
vụ
bảo
hiểm…
4.
Giữ
vững
ổn
định
chính
trị,
hoàn
thiện
hệ
thống
luật
pháp,
đổi mới
các
chính
sách
tài
chính
tiền
tệ
giá
cả
Sự
ổn
định
chính
trị
bao
giờ
cũng
là
nhân
tố
quan
trọng
để
phát
triển. Nó
là
điều
kiện
để
các
nhà
sản
xuất
kinh
doang
trong
nước
và
nước
ngoài
yên tâm
đầu
tư.
Giữ
vững
ổn
định
chính
trị
ở
nước
ta
hiện
nay
là
giữ
vững
vai
trò lãng
đạo
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam,
tăng
cường
hiệu
lực
và
hiệu
quả
quản lý
của
nhà
nước,
phát
huy
đầy
đủ
vai
trò
làm
chủ
của
nhân
dân.
Hệ
thống
pháp
luật
đồng
bộ
là
công
cụ
rất
quan
trọng
để
quản
lý
nền kinh
tế
hàng
hoá
nhiều
thành
phần.
Nó
tạo
nên
hành
lang
pháp
lý
cho
tất
cả mọi
hoạt
động
sản
xuất,
kinh
doanh
của
các
doanh
nghiệp
trong
và
ngoài nước.
Với
hệ
thống
pháp
luật
đồng
bộ
và
pháp
chế
nghiêm
ngặt,
các
doanh nghiệp
chỉ
có
thể
làm
giàu
trên
cơ
sở
tuân
thủ
luật
pháp.
Đổi
mới
chính
sách
tài
chính
tiền
tệ,
giá
cả
nhằm
mục
tiêu
thúc
đẩy
phát
triển,
huy
động
và
sử
dụng
có
hiệu
quả
các
nguồn
lực,
bảo
đảm
quản
lý
thống
nhất
nền
tài
chính
quốc
gia,
giảm
bội
chi
ngân
sách,
góp
phần
khống
chế
và
kiểm
soát
lạm
phát;
xử
lý
đúng
đắn
mối
quan
hệ
giữa
tích
luỹ
và
tiêu
dùng.
5.
Xây
dựng
và
hoàn
thiện
hệ
thống
điều
tiết
kinh
tế
vĩ
mô,
đào tạo
đội
ngũ
quản
lý
kinh
tế
và
các
nhà
kinh
doanh
giỏi:
Hệ
thống
điều
tiết
kinh
tế
vĩ
mô
phải
được
kiện
toàn,
phù
hợp
với
nhu cầu
kinh
tế
thị
trường,
bao
gồm
điều
tiết
bằng
chiến
lược
và
kế
hoạch
kinh
tế, pháp
luật
chính
sách
và
các
đòn
bẩy
kinh
tế,
hành
chính
giáo
dục,
khuyến khích,
hỗ
trợ
và
cả
răn
đe,
trừng
phạt,
ngăn
ngừa,
điều
tiết
thông
qua
bộ
máy nhà
nước,
các
đoàn
thể…
Mỗi
cơ
chế
quản
lý
kinh
tế
có
đội
ngũ
cán
bộ
quản
lý
kinh
doanh
tương
ứng.
Chuyển
sang
phát
triển
nền
kinh
tế
hàng
hoá
nhiều
thành
phần
theo
định hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
đòi
hỏi
chúng
ta
phải
đẩy
mạnh
sự
nghiệp
đào
tạo
và đào
tạo
lại
đội
ngũ
quản
lý
kinh
tế,
cán
bộ
kinh
tế,
cán
bộ
kinh
doanh
cho
phù hợp
với
mục
tiêu
phát
triển
kinh
tế
trong
thời
kỳ
mới.
Đội
ngũ
đó
phải
có năng
lực
chuyên
môn
giỏi,
thích
ứng
mau
lẹ
với
cơ
chế
thị
trường,
dám
chịu trách
nhiệm.
chịu
rủi
ro
và
trung
thành
với
con
đường
xã
hội
chủ
nghĩa
mà Đảng
và
nhân
dân
ta
đã
chọn.
Song
song
với
đào
tạo
và
đào
tạo
lại,
cần
phải
có
phương
hướng
sử
dụng,
bồi
dưỡng,
đãi
ngộ
đúng
đắn
với
đội
ngũ
đó,
nhằm
kích
thích
hơn
nữa
việc
không
ngừng
nâng
cao
trình
độ
nghiệp
vụ,
bản
lĩnh quản
lý,
tài
năng
kinh
doanh
của
họ.
Cơ
cấu
của
đội
ngũ
cán
bộ
cần
phải
được chú
ý
đảm
bảo
ở
cả
phạm
vi
vĩ
mô
cũng
như
lẫn
cả
vi
mô,
cả
cán
bộ
quản
lý cũng
như
kinh
doanh.
6.
Thực
hiện
chính
sách
đối
ngoại
có
lợi
cho
phát
triển
kinh
tế
thị trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
Thực
hiện
có
hiệu
quả
kinh
tế
đối
ngoại
chúng
ta
phải
đa
dạng
hoá
hình
thức,
đa
phương
hoá
đối
tác.
Phải
quán
triệt
nguyên
tắc
đôi
bên
cùng
có
lợi,
không
can
thiệp
vào
nội
bộ
của
nhau
và
không
phân
biệt
chế
độ
chính
trị
-
xã hội.
Cải
cách
cơ
chế
quản
lý
xuất
khẩu,
thu
hút
rộng
rãi
nguồn
vốn
đầu
tư
từ nước
ngoài,
thu
hút
kỹ
thuật,
nhân
tài
và
kinh
nghiệm
quản
lý.
7.
Giải
quyết
những
hạn
chế
còn
tồn
tai
của
kinh
tế
thị
trường:
Thị
trường
Việt
Nam
hiện
nay
hoạt
động
còn
yếu,
nó
chưa
đủ
mức
độ
để
báo
hiệu
những
co
hội
mới.
Khu
vực
tư
nhân
còn
thiếu
kỹ
năng
và
kinh
nghiệm
cần
thiết
để
đáp
ứng
các
tín
hiệu
về
thời
cơ
mà
họ
nhận
được.
Do
đó
sự
liên
lạc
có
hiệu
quả
giữa
nhà
nước
và
tư
nhân
là
cần
thiết,
làm
cho
các
chién
lược
phát
triển
nền
kinh
tế
nước
nhà
có
thể
thực
hiện
được.
Nhà
nước
ta
cần
xây
dựng
được
hệ
thống
pháp
luật
hoàn
chỉnh
và
có tính
đồng
bộ
.
Hệ
thống
pháp
luật
cần
được
bổ
sung
và
hoàn
thiện
trên
các lĩnh
vực:
sử
dụng,
chuyển
nhượng
và
cho
thuê
đất
đai,
thị
trường
bất
động sản,
thị
trường
vốn…
Bổ
sung,
điều
chỉnh
bộ
luật
thuế
tránh
bị
chồng
chéo, khuyến
khích
đầu
tư
trong
nước,
xác
định
rõ
thẩm
quyền
và
trách
nhiệm
của
cá
nhân,
xây
dựng
bộ
luật
thương
mại,
luật
ngân
sách,
luật
hành
chính
nhà
nước
Cải
cách
gằn
liền
với
đổi
mới
kinh
tế
là
một
nhân
tố
quyết
định
đảm
bảo
nền
kinh
tế
tăng
trưởng
nhanh
và
ổn
định,
bền
vững
ở
nước
ta.
KẾT LUẬN
Tóm
lại
để
đưa
đất
nước
có
thể
đuổi
kịp
các
nước
phát
triển
trên
thế giới
trong
một
tương
lai
không
xa
đồng
thời
cũng
không
để
chệch
hướng
theo con
đường
xã
hội
chủ
nghĩa
mà
Đảng
và
nhân
dân
ta
đã
chọn
thì
nhất
thiết chúng
ta
phải
xây
dựng
được
một
nền
kinh
tế
thị
trường
vững
mạnh
theo
định hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
và
mang
bản
sắc
của
người
Việt
Nam.
Những
vấn
đề đựơc
đề
cập
trên
đây
mới
chỉ
là
một
vài
biện
pháp
mà
chúng
ta
cần
làm
trong thời
gian
trước
mắt
để
tiếp
tục
ổn
định
và
khắc
phục
những
hạn
chế
của
nền kinh
tế
thị
trường
và
sau
này
trong
quá
trình
phát
triển
lâu
dài
của
đất
nước.
Nhất
là
trong
quá
trình
hội
nhập
nền
kinh
tế
thế
giới
theo
xu
hướng
toàn
cầu
hoá
nền
kinh
tế
thế
giới
thì
khi
đó
sẽ
mở
ra
rất
nhiều
cơ
hội
cũng
như
những
thách
thức
đòi
hỏi
chúng
ta
phải
thật
sáng
suốt
nếu
không
muốn
bị
lâm
vào
tình
thế
bị
động
trước
những
diễn
biến
của
nền
kinh
tế
thị
trường.
Nó
có
thể
gây
ra
những
hậu
quả
nghiêm
trọng
như:
sự
phân
hoá
giàu
nghèo
ngày
càng
lớn,
tệ
nạn
xã
hội
ngày
càng
tăng
và
phức
tạp,
các
truyền
thống
bị
thương
mại
hoá,
nạn
lạm
phát
gia
tăng…
Chính
vì
vậy,
chúng
ta
cần
phải
trau
dồi
kiến
thức
cho
thật
tốt,
bên
cạnh
đó
là
nhân
phẩm
của
một
người
sinh
viên,
là
tầng
lớp
trí
thức
trong
xã
hội
sẽ
đi
đầu
trong
mọi
việc
mà
Đảng
và
nhà
nước
tiến
hành
để
góp
phần
vào
việc
hoàn
thiện
nền
kinh
tế
thị
trường
tiến
tới
việc
xây
dựng
thành
công
chủ
nghĩa
xã
hội
ở
Việt
Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo
trình
kinh
tế
chính
trị_Đại
học
Kinh
tế
Quốc
dân
2) Xây
dựng
nền
kinh
tế
thị
trường
địng
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa_Nguyễn
Nhâm
3) Giáo
trình
Kinh
tế
chính
trị
Mác-Lênin
_
NXB
Chính
trị
quốc
gia
4) Vai
trò
của
nhà
nước
trong
nền
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
ở
Việt
Nam_GS
-
TS
Chu
Văn
Cấp.
5) Kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
mâu
thuẫn
và
phướng
giảI
quyết_TS
Nguyễn
Tấn
Hùng
6)
Dự
thảo
các
văn
kiện
trình
đại
hội
IX
của
Đảng.
Mục Lục
!"##$%&'()*+,-./)*%/0
$1234356784849341:;:1<:=>?4@0
AB4:13;::C4:D39341:;:1<:=>?4@0
EF4B1G:9341:;:1<:=>?4@<411>H4@IJ1K3B1L4@1MN0
'OB:=>4@BLN9341:;:1<:=>?4@<411>H4@IJ1K3B1L4@1MN4>HB:N0
%P%QR"ST%U"UVW%%QX#$%&%(%Q)Y'()*+,
-./)*%/0
%=>HBZ36H30
NZ36H30
D4B1;:=[4@\12::=3]49341:;
%^_VWVE_%&V%`VW%%QX$%&%(%Q)a'()*+,
-./0
%1AB135441G:b24B1c41d2B19341:;4138:1e41\140
=K4@\1f4Bg4@hN[K4@i\12::=3]49341:;7j4@ihJ41:1Zi:D[hk\C4@lKB2Bm;:n:1<
:=>?4@0
'om6D41Bg4@:2B4@13p4Bqq4@rs4@91[N1tBBg4@4@15iom6D41Bg4@4@135\1[2i
1354D31[2
3u7u4@Z4<41B1c41:=<i1[e4:135415:1n4@hk:\12\iZ36H3B2BB1c41d2B1:e3B1c41
v84:5@32BF
+fmrA4@7e1[e4:135415:1n4@38v;:9341:;7M6gie[:D[K34@wbF4hx9341:;7eB2B
41e9341r[N41@3y30
%1AB1354B1c41d2B1n34@[D3Bzh{3B1[\12::=3]49341:;:1<:=>?4@<411>H4@IJ1K3B1L
4@1MN
3F3bm;:41u4@1D4B1;B|4:C4:N3BLN9341:;:1<:=>?4@0
$&%!
%US%/$_}