Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Nghiên cứu về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.75 KB, 18 trang )

Mở đầu


Bối cảnh lịch sử đã thay đổi khiến cho nền kinh tế bao cấp không còn phù hợp
và tỏ ra thật sự kém cỏi so với nền kinh tế thị trường. Chính vì điều đó, nhà nước
ta cần phải đổi mới để mang tới cho nền kinh tế đất nước một diện mạo khác,
đẹp đẽ và hoàn thiện hơn. Đổi mới là một chương trình cải cách toàn diện các
mặt của đời sống xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên
1980 . Chính sách đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội Đại biểu Đảng
Cộng Sản Việt Nam lần VI , năm 1986 . Trong tất cả các lĩnh vực đổi mới như
xã hội,chính trị , văn hoá … Đổi mới về kinh tế được thực hiện trước tiên và là
vấn đề được đảng và nhà nước chú trọng nhất và đầu tư phát triển từng bước. Từ
đó sẽ là nền tảng phát triển các lĩnh vực khác của xã hội . Trong những năm
đầu thế kỷ 21 , Việt Nam mới bắt đầu thực hiện .
Đổi mới ở Việt Nam tương tự quá trình cải tổ của các nước Đông âu,
cải cách Khai Phóng ở Trung Quốc và đổi mới ở Lào .
Quan điểm đổi mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình
thực hiện . Ngày nay , đổi mới về kinh tế được Nhà Nước Việt Nam định nghĩa :
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , hoạt động theo cơ chế thị trường , có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm đôỉ
mới nước ta đã không ít gặp những khó khăn và thách thức nhưng dần dần cũng
đã vượt qua và đạt dược những thành tựu lớn .Từ đó đưa nước ta trở thàn một
một nước có nền kinh tế phát triển, hội nhập thế giới , cạnh tranh với các cường
quốc khác. Hiện nay còn niều vấn đề cơ bản, lý luận chưa đáp ứng được yêu cầu
và thực tiễn xây dựng đất nước.
Nghiên cứu về nền kinh tế giúp ta hiểu đươc nền kinh tế hiên nay của
nước ta cũng như một số nước khác trên thế giới nó là một vấn đè rất quan trọng
đối với một sinh viên việt nam hiên nay để từ đó có thể nêu ra những nhu cầu
của người dân hiên nay đồng thời cũng nêu ra những sai lệch mà đảng ta mắc
phải.





NỘI DUNG
I.
NGHIÊN

CỨU



SỞ



LUẬN

VỀ

NỀN

KINH

TẾ

ĐỊNH HƯỚNG



HỘI


CHỦ

NGHĨA



NƯỚC

TA:
1.
Khái

niệm

về

nền

kinh

tế

thị

trường:
Theo

quan


điểm

của

Samuelson

trích

trong

kinh

tế

học

thì:



Một

nền
kinh

tế

thị

trường




một



chế

tinh

vi

để

phối

hợp

một

cách

không

tự

giác nhân

dân




doanh

nghiệp

thông

qua

hệ

thống

giá

cả



thị

trường.





một phương


tiện

giao

thông

để

tập

hợp

tri

thức



hành

động

của

hàng

triệu

cá nhân


khác

nhau,

không



bộ

não

trung

tâm



vẫn

giải

được

bài

toán



máy tính

lớn

nhất

hiện

nay

cũng

không

thể

giải

nổi.

Không

ai

thiết

kế

ra


nó.



tự xuất

hiện





đang

thay

đổi

cũng

như



hội

loài

người.”
Theo


quan

điểm

của

đảng

ta,

một

nền

kinh

tế



trong

đó

những

vấn

đề



bản

của



do

thị

trường

quyết

định

được

xem



nền

kinh

tế


thị

trường. Nói

cách

khác

nền

kinh

tế

thị

trường

chính



nền

kinh

tế

hàng


hoá
chịu

sự điều

khiển

của



chế

thị

trường.

Nền

kinh

tế

này

khác

với

nền


tập

trung

ở chủ

thể

xác

định

các

vấn

đề



bản

của

nền

kinh

tế




nền

kinh
tế

tập

trung chủ

thể

này



nhà

nước

thông

qua

các

mệnh


lệnh

hành

chính.

Chính

sự

khác biệt

này

tạo

ra

sức

mạnh





động

lực


cho

nền

kinh

tế

phát

triển.
Tại

Việt

Nam

kể

từ

Đại

hội

Đảng

toàn

quốc


lần

thứ

VI,

chúng

ta

đã

xác định

xây

dựng

nền

kinh

tế

thị

trường

nhưng


theo

định

hướng



hội

chủ nghĩa.

Tức





sự

can

thiệp

của

nhà

nước


vào

nền

kinh

tế

nhưng

không

phải can

thiệp

vào

nền

kinh

tế

theo

kiểu

mệnh


lệnh

hành

chính



can

thiệp

thông qua

các

chính

sách

kinh

tế





nhằm


ổn

định

nền

kinh

tế



tạo

điều

kiện cho

mọi

thành

phần

kinh

tế

tham


gia

vào

sản

xuất



kinh

doanh.

Sự

can

thiệp này

được

xem



cần

thiết


nhằm

thiết

lập

khuôn

khổ

pháp

luật

phù

hợp,

sữa chữa

những

khuyết

tật

của

thị


trường,

đảm

bảo

sự

công

bằng



hội



ổn định

nền

kinh

tế






(

Kinh

tế

học



Samuelson).

Đây





thuyết

nền

kinh
tế

hỗn

hợp


đã

được

Samuelson

đưa

ra/

Theo

ông

phát

triển

kinh

tế

phải

dựa
trên

hai

bàn


tay là



chế

thị

trường



nhà

nước:

“điều

hành

một

nền

kinh

tế không




cả

chính

phủ

lẫn

thị

trường

thì

cũng

như

định

vỗ

bằng

một

bàn



tay”. Tuy

nhiên

trong

hoàn

cảnh

nước

ta

thì

sự

can

thiệp

của

nhà

nước

còn
đóng vai


trò

giữ

cho

nền

kinh

tế

đi

theo

đúng

định

hướng



hội

chủ

nghĩa.

2.
Sự

cần

thiết

tồn

tại

kinh

tế

thị

trường:
Việt

Nam

đang

tồn

tại

đủ


các

điều

kiện

cần

thiết





sở

tồn

tại

của

nền kinh

tế

hàng

hoá.


Phân

công

lao

động

đang

phát

triển

cả

về

chiều

rộng

lẫn chiều

sâu. Nhiều

ngành

nghề


mới

đã

ra

đời,

đặc

biệt



những

ngành

công nghiệp



hàm

lượng

kỹ

thuật


kết

tinh

trong

sản

phẩm

cao

như

điện

tử,

tin học…

Bên

cạnh

đó

các

làng


nghề

cổ

truyền

cũng

đang

phát

triển

mạnh

mẽ. Các

sản

phẩm

của

ngành

đang

từng


bước

khẳng

định

thương

hiệu

trên

thị trường

trong

nước



quốc

tế.

Đây

chính




những

thế

mạnh

củaViệt

Nam trong

quá

trình

hội

nhập

kinh

tế

thế

giới. Sự
phát

triển

này


đã

kéo

theo

sự

phát triển

nhanh

chóng

của

lực

lượng

sản

xuất.
Kể

từ

sau


Đại

hội

Đảng

toàn

quốc

lần

VI.

Việt

Nam

đã

chính

thức

thừa
nhận

sự

tồn


tại

của

các

thành

phần

kinh

tế

ngoài

quốc

doanh.

Nhờ

đó
các thành

phần

kinh


tế

này

đã



những

điều

kiện

cần

thiết

để

phát

triển.

Từ

đó xuất

hiện


sự

khác

biệt

giữa

các

hình

thức

sở

hữu

về



liệu

sản

xuất


sản phẩm


lao

động.

Đây

chính



điều

kiện

đủ

để

nền

kinh

tế

hành

hoá






sở

ra đời.

Khác

biệt

về

sở

hữu

về



liệu

sản

xuất



sản


phẩm

lao

động

đã

tạo

ra động

lực

to

lớn

để

thúc

đẩy

kinh

tế

phát


triển

mặc



mặt

trái

của





sự phân

hoá

về

giàu



nghèo.



chế

thị trường

với

những

ưu

thế

không

thể

chối

cãi



một

sự

lựa

chọn


hợp





cần thiết.



chế

quản





cồng

kềnh,

kém

năng

lực

đã


không

còn

phù

hợp

với tình

hình

trong

nước



quốc

tế.

Những

căn

bệnh

đặc
trưng


của



chế



như bảo

thủ,

trì

trệ,

kém

năng

lực

hình

thành

nên

bộ


máy

quản



thiếu

chuyên môn

nghiệp

vụ

nhưng

lại



thái

độ

quan

liêu,

cửa


quyền

cần

phải

được

thay đổi.

Thực

tế

cho

thấy

trải

qua

gần

hai

mươi

năm


đổi

mới

gây

dựng

nhưng chúng

ta

vẫn

phải

thực

hiện

các

cuộc
chỉnh

đốn

Đảng,


cải

cách

bộ

máy

hành chính

chứng

tỏ

những

quan

niệm


sai

lầm

đã

ăn

sâu


bám

rễ

như

thế

nào. Việc

xoá

bỏ

hoàn

toàn

không

dễ

dàng,

không

thể

hoàn


thành

trong

một

sớm một

chiều

nhưng

đó



việc

cần

thiết

để

thúc

đẩy

kinh


tế

phát

triển.

Cùng

với cơ

chế



cũng



sự

bất

cập

khi

nhà

nước


can

thiệp

quá

sâu

vào

sản

xuất

kinh doanh, điều

hành

không

tuân

theo

các

qui

luật


kinh

tế



theo

cảm

tính

dẫn đến

sự

thất

bại

trong

thực

hiện

các

mục


tiêu

kinh

tế



hội

đã

đề

ra.

Chuyển sang



chế

mới

sẽ

tạo

điều


kiện

cho

các

thành

phần

kinh

tế

phát

triển

theo đúng

những

qui

luật

kinh

tế


khách

quan.
Thực

tiễn

những

năm

đổi

mới

chỉ

ra

rằng

việc

chuyển

đổi

sang





hình kinh

tế

thị

trường

của

Đảng

ta



hoàn

toàn

đúng

đắn.

Nhờ




hình

kinh
tế

đó chúng

ta

đã

bước

đầu

khai

thác

được

tiềm

năng

trong

nước


đi

đôi

với

thu

hút vốn



kỹ

thuật

nước

ngoài,

giải

phóng

được

năng

lực


sản

xuất

trong



hội, phát

triển

lực

lượng

sản

xuất,

góp

phần

quyết

định

bảo


đảm

nhịp

độ

tăng trưởng

GDP

bình

quân

hằng

năm

trong

những

năm

2000



7%.


Trong

đó nông

nghiệp

phát

triển

liên

tục,

đặc

biệt



sản

xuất

lương

thực

đưa


Việt

Nam
trở

thành

nước

thứ

ba

trên

thế

giới

về

xuất

khẩu

lương

thực.

Giá


trị

sản

xuất
công

nghiệp

tăng

bình

quân

hàng

năm

13,5%.

Hệ

thống

kết

cấu


hạ

tầng

kỹ thuật





hội

được

tăng

cường.

Đời

sống

nhân

dân

được

cải


thiện,

nâng

cao tích

luỹ



hội,

tạo

tiền

đề

cho

sự

phát

triển

trong

tương


lai
3.
Bản

chất

kinh

tế

thị

trường

định

hướng



hội

chủ

nghĩa:
Nền

kinh

tế


thị

trường

định

hướng



hội

chủ

nghĩa



nước

ta



một

số
điểm


như

sau:
Thứ

nhất

,

quá

trình

chuyển

nền

kinh

tế

nước

ta

sang

nền

kinh


tế

thị trường

đồng

thời

cũng



quá

trình

thực

hiện

nền

kinh

tế

mở,

nhằm


hoà

nhập với

thị

trường

thế

giới.
Thứ

hai,

bản

chất

của

quá

trình

chuyển

nền


kinh

tế

nước

ta

sang

nền
kinh

tế

thị

trường

theo

định

hướng



hội

chủ


nghĩa



quá

trình

chuyển

nền
kinh

tế

còn

mang

nặng

tính

chất

tự

cung


tự

cấp

sang

nền

kinh

tế

hàng

hoá

tiến
tới

nền

kinh

tế

thị

trường




qua

trình

chuyển



chế

tập

trung

quan

liêu

bao
cấp

sang



chế

thị


trường



sự

quản



của

nhà

nước.
Sự

phát

triển

của

chủ

nghĩa



bản


đã

khẳng

định

nền

kinh

tế

hàng

hoá
đã

làm

cho

thị

trường

dân

tộc gắn






hoà

nhập

với

thị

trường

thế

giới, Chính

giao

lưu

hàng

hoá

đã

làm


cho

quan

hệ

quốc

tế

được

mở

rộng

khỏi phạm

vi

quốc

gia,

thúc

đẩy

nền


kinh

tế

phát

triển

một

cách

nhanh

chóng.
Trong

quan

hệ

quốc

tế

chúng

ta




nhiều

đổi

mới

quan

trọng.

Chúng

ta
đã

chuyển

quan

hệ

quốc

tế

từ

đơn


phương

sang

đa

phương,

quan

hệ

với

tất

cả
các

nước

không

phân

biệt

chế

độ


chính

trị,

theo

nguyên

tắc

đôi

bên

cùng


lợi



không

can

hệ

vào


chuyện

nội

bộ

của

nhau.
4.
Đặc

trưng

của

kinh

tế

thị

trường

định

hướng




hội

chủ

nghĩa ở

nước
ta:
Mục

đích

của

nền

kinh

tế

thị

trường

định

hướng




hội

chủ

nghĩa

là phát

triển

lực

lượng

sản

xuất,

phát

triển

kinh

tế

để

xây


dựng



sở

vật

chất

kỹ thuật

của

chủ

nghĩa



hội,

nâng

cao

đời

sống


nhân

dân

lao

động



tất

cả

các thành

viên

trong



hội.

Phát

triển

lực


lượng

sản

xuất

hiện

đại

gắn

liền

với xây

dựng

quan

hệ

sản

xuất

mới

phù


hợp

trên

cả

ba

mặt:

sở

hữu,

quản



và phân

phối.
Về

sở

hữu

sẽ

phát


triển

theo

hướng

còn

tồn

tại

nhiều

hình

thức

sở

hữu khác

nhau,

nhiều

thành

phần


kinh

tế

khác

nhau

trong

đó

kinh

tế

nhà

nước

giữ vai

trò

chủ

đạo.

Tiêu


chuẩn

căn

bản

để

đánh

giá

hiệu

quả

xây

dựng

quan

hệ
sản

xuất

theo


định

hướng



hội

chủ

nghĩa



thúc

đẩy

phát

triển

lực

lượng sản

xuất,

cải


thiện

đời

sống

nhân

dân



thực

hiện

công

bằng



hội

nên

phải từng

bước


xác

lập



phát

triển

chế

độ

sở

hữu

công

cộng

về



liệu

sản


xuất chủ

yếu

một

cách

vững

chắc,

tránh

nóng

vội

xây

dựng



ạt



không


tính

đến hiệu

quả

như

trước

đây.
Về

quản



trong

kinh

tế

thị

trường

địng

hướng




hội

chủ

nghĩa

phải


sự

quản



của

nhà

nước



hội

chủ


nghĩa.

Nhà

nước



hội

chủ

nghĩa

sẽ quản



nền

kinh

tế

bằng

pháp

luật,


chiến

lược,

kế

hoạch,

chính

sách

đồng thời

sử

dụng



chế

thị

trường,

các

hình


thức

kinh

tế



phương

thức

quản

lý kinh

tế

thị

trường

để

kích

thích

sản


xuất,

giải

phóng

sức

sản

xuất,

phát

huy tính

tích

cực



hạn

chế

những

mặt


tiêu

cực,

khuyết

tật

của



chế

thị

trường, bảo

vệ

lợi

ích

nhân

dân

lao


động



toàn

thể

quần

chúng

nhân

dân.
Về

phân

phối

kinh

tế

thị

trường

định


hướng



hội

chủ

nghĩa

thực

hiện
phân

phối

chủ

yếu

theo

kết

quả

lao


động



hiệu

quả

kinh

tế,

đồng

thời

phân
phối

theo

mức

đóng

góp

vốn




các

nguồn

lực

khác

vào

sản

xuất

kinh

doanh


thông

qua

phúc

lợi




hội.



chế

phân

phối

này

vừa

tạo

động

lực

kích thích

các

chủ

thể

kinh


tế

nâng

cao

hiệu

quả

hoạt

động

sản

xuất

kinh

doanh, đông

thời

hạn

chế

những


bất

công

trong



hội. Thực

hiện

tăng

trưởng

kinh

tế gắn

liền

với

công

bằng




hội

ngay

trong

từng

bước

phát

triển.
Tính

định

hướng



hội

chủ

nghĩa

của

nền


kinh

tế

thị

trường

nước

ta còn

thể

hiện



chỗ

tăng

trưởng

kinh

tế

phải


đi

đôi

với

phát

triển

văn

hoá,

giáo dục

xây

dựng

nền

văn

hoá

Việt

Nam


tiên

tiến,

đậm

đà

bản

sắc

dân

tộc,

làm cho

chủ

nghĩa

Mác

Lênin,



tưởng


Hồ

Chí

Minh

giữ

vai

trò

chủ

đạo

trong đời

sống

tinh

thần

của

nhân

dân,


nâng

cao

dân

trí,

giáo

dục



đào

tạo

con nguời,

xây

dựng



phát

triển


nguồn

nhân

lực

của

đất

nước.
Chủ

trương

xây

dựng



phát

triển

nền

kinh


tế

thị

trường,

định

hướng


hội

chủ

nghĩa



sự

quản



của

nhà

nước


thể

hiện

trình

độ



duy



vận
dụng

của

Đảng

ta

về

qui

luật


sự

phù

hợp

giữa

quan

hệ

sản

xuất

với

tính

chất


trình

độ

phát

triển


của

lực

lượng

sản

xuất.

Đây





hình

kinh

tế

tổng

quát
của

nước


ta

trong

thời

kỳ

quá

độ

lên

chủ

nghĩa



hội.

II.
THỰC

TRẠNG

VIỆC

HÌNH


THÀNH



PHÁT

TRIỂN

NỀN
KINH

TẾ

THỊ

TRƯỜNG

ĐỊNH

HƯỚNG



HỘI

CHỦ

NGHĨA


Ở NƯỚC

TA:
1.
Trước

đổi

mới:
Từ

năm

1975

đất

nước

Việt

Nam

hoàn

toàn

độc

lập




thống

nhất,

cách mạng

Việt

Nam

hoàn

toàn

chuyển

sang

giai

đoạn

mới,

cả

nước


xây

dựng

chủ nghĩa



hội.

Đất

nước

đi

lên

chủ

nghĩa



hội

từ

điểm


xuất

phát

rất

thấp

lại chịu

ảnh

hưởng

nặng

nề

do

chiến

tranh

kéo

dài.

Trong


15

năm

nhân

dân

ta

đã không

ngừng

phấn

đấu

vựot

qua

bao

khó

khăn

thử


thách

mới

giành

được

độc lập

thống

nhất

đất

nước.

Chúng

ta

đã



nhiều

cố


gắng

trong
việc

hàn

gắn

vết thương

chiến

tranh,

khôi

phục

nền

kinh

tế

bị

tàn


phá

nặng

nề,

từng

bước

xác lập

quan

hệ

sản

xuất

mới

bước

đầu

xây

dựng




sở

vật

chất

kỹ

thuật

của

chủ nghĩa



hội,

phát

triển

sự

nghiệp

văn


hoá

giáo

dục

y

tế,

thiết

lập

củng

cố chính

quyền

nhân

dân

trong

cả

nước.


Tuy

nhiên,

nền

kinh

tế

vẫn



trong

tình trạng

kém

phát

triển,

sản

xuất

nhỏ




phổ

biến



nặng

nề

tính

tự

cung

tự

cấp. Trình

độ trang

thiết

bị

kỹ


thuật

trong

sản

xuất

cũng

như

trong

kết

cấu

hạ

tầng kinh

tế

văn

hoá




hội

lạc

hậu,

mất

cân

đối,

chưa

tạo

được

tích

luỹ

trong

nước và

lệ

thuộc


nhiều

vào

bên

ngoài.



chế

quản



tập

trung

quan

liêu

bao

cấp để

lại


nhiều

hậu

quả

tiêu

cực

do

đó

nền

kinh

tế

hoạt

động

với

hiệu

quả


thấp. Khủng

hoảng

kinh

tế



hội

diễn
ra

nhiều

với

đặc

trưng

sản

xuất

chậm à

không


ổn

định,

lạm

phát

lên

đến

774,7%

năm

1986.

Tài

nguyên

thiết

bị

lao động




tài

năng

mới

được

sử

dụng

thấp.

Đời

sống

nhân

dân

thiếu

thốn,

nếp sống

văn


hoá

tinh

thần



đạo

đức

kém

lành

mạnh,

trật

tự

an

toàn



hội không


được

đảm

bảo,

tham

nhũng

nhiều



tệ

nạn



hội

phát

triển.
Trên

thực


tế

nền

kinh

tế

nước

ta

từ

nghị

quyết

hội

nghị

lần

thứ

6

ban chấp


hành

Trung

ương

khoá

IV

(năm

1979)

các

quan

hệ

hàng

hoá

tiền

tệ

đã được


chấp

nhận

nhưng

mới



mức

độ

thứ

yếu.

Đó



do

qua

nhiều

thập


kỷ qua,



tưởng

kinh

tế



hội

chủ

nghĩa

mang

nặng

thành

kiến

coi

quan


hệ hàng

hoá





chế

thị

trường



biểu

hiện

thuộc

tính

của

chế

độ




hữu



tư bản.

Mặt

khác



do

chúng

ta

xây

dựng

chủ

nghĩa




hội

theo



hình

dập khuôn

giáo

điều

chủ

quan

duy

ý

chí

các

mặt

bố


trí



cấu

kinh

tế

thiếu

về

phát triển

công

nghiệp

nặng,

quy



lớn

với


xoá

bỏ

các

hình
thức

kinh

tế

dựa

trên chế

độ



hữu

về



liệu

sản


xuất,

phát

triển

kinh

tế

quốc

doanh



kinh

tế

tập thể,

nặng

nề

hình

thức


phủ

nhận

nền

kinh

tế

hàng

hoá

theo



chế

thị

trường, bộ

máy

quan

liêu


cồng

kềnh

kém

hiệu

quả.

Những

sai

lầm

đó

đã

dẫn

đến

việc kìm

hãm

lực


lượng

sản

xuất



nhiều


động

lực

phát

triển,

cuộc

cải

cách

kinh tế

bị


đẩy

lùi.



tưởng

Lênin

trong

chính

sách

kinh

tế

Mác

bị

xem

như

bước lùi


tạm

thời

bất

đắc

dĩ.
2.
Sau

đổi

mới:
Khi

chuyển

sang

kinh

tế

thị

trường

chúng


ta

đứng

trước

thực

trạng


đất

nước

đã



đang

từng

bước

quá

độ


lên

chủ

nghĩa



hội,

từ

một



hội

vốn


thuộc

địa

nửa

phong

kiến,


trình

độ

phát

triển

của

lực

lượng

sản

xuất



hội thấp.

Không

những

thế,

đất


nước

ta

lại

trải

qua

hàng

chục

năm

chiến

tranh, hậu

quả

để

lại



cùng


nặng

nề,

những

tàn



thực

dân

phong

kiến

còn
nhiều, lại

chịu

ảnh

hưởng

nặng


nề

của



chế

tập

trung

quan

liêu

bao

cấp.
Từ

những

đặc

điểm

trên

ta




thể

nhận

xét

rằng:

nền

kinh

tế

nước

ta không

còn

hoàn

toàn



nền


kinh

tế

tự

cung

tự

cấp

nhưng

cũng

chưa

phải

là nền

kinh

tế

hàng

hoá


theo

ý

nghĩa

đầy

đủ.

Mặt

khác

do



sự

đổi

mới

về

mặt kinh

tế


nền

kinh

tế

nước

ta

khi

chuyển

sang

kinh

tế

thị

trường



nền

kinh


tế hàng

hoá

kém

phát

triển,

còn

mang

nặng

tính

chất

tự

cấp



ảnh

hưởng


nặng
nề

của



chế

tập

trung

quan

liêu

bao

cấp.

Thực

trạng

đó

được


thể

hiện



các
mặt

sau:
-Thứ

nhất,

kinh

tế

hàng

hóa

kém

phát

triển,

nền


kinh

tế

còn

mang

nặng
tính

tự

cung

tự

cấp,



cấu

kinh

tế

còn

mất


cân

đối



kém

hiệu

quả,

chưa


thị

trường

theo

đúng

nghĩa

của






năng

suất

lao

động



hội



thu

nhập
quốc

dân

tính

theo

đầu

người


còn

thấp.
Nền

kinh

tế

nhiều

thành

phần



nước

ta

đã

được

hình

thành




phát triển,



vậy

thị

trường

nước

ta

cũng

được

hình

thành



phát

triển.


Xem

xét khái

quát

về

thị

trường

nước

ta

trong

những

năm

qua

vẫn

thấy

còn




thị trường



trình

độ

thấp,

tính

chất

của



vẫn

còn

hoang

sơ,
dung

lượng


còn yếu





phần

rối

loạn.

Chúng

ta

mới



thị

trường

hàng

hoá

nói


chung, trước

hết



thị

trường

hàng

tiêu

dùng

thông

thường

với

hệ

số

giá

cả




quan hệ

mua

bán

bình

thường.

Về



bản

chúng

ta

chưa



thị

trường


sức

lao

động, thị

trường

tiền

vốn

trong

khu

vực

kinh

tế

nhà

nước.

Thực

trạng


này

của

thị trường

nước

ta



do

kết

quả

của

nhiều

nguyên
nhân

khác

nhau.


Về

mặt

khách quan



do

trình

độ

phát

triển

của

phân

công
lao

động



hội


còn

thấp,

nền kinh

tế

còn

mang

nặng

tính

tự

cấp

tự

túc.

Về

mặt

chủ


quan



do

những

nhận thức

chưa

đúng

đắn

của

nền

kinh

tế



hội

chủ


nghĩa,



do

sự

phân

biệt

duy

ý chí

giữa

thị

trường



tổ

chức




thị

trường

tự

do.
Điều

cần

thiết

phải

rút

ra

từ

thực

trạng

của

thị


trường

trên

đây

là:

với

tất
cả

tính

phức

tạp



các

mặt

tiêu

cực

xảy


ra

trên

thị

trường,

việc

chuyển


nền kinh

tế

nước

ta

sang

kinh

tế

thị


trường

vẫn

đưa

tới

mức

tiến

bộ

về

mật

kinh

tế hơn

hẳn

trước

đây




tạo

khả

năng

dẫn

tới

bước

ngoặt

quyết

định.

Nhiệm

vụ đặt

ra

hiện

nay




phải

tiếp

tục

thúc

đẩy

quá

trình

hình

thành



phát

triển

của thị

trường

ngày


càng

đầy

đủ



thông

suốt,

thống

nhất

trên

phạm

vi

cả

nước, phải

gắn

thị


trường

trong

nước

với

thị

trường

quốc

tế.
Thứ

hai

về

thực

trạng

của

nền

kinh


tế

nước

ta

khi

chuyển

sang

nền

kinh
tế

thị

trường



ảnh

hưởng

của




hình

kinh

tế

chỉ huy

với



chế

tập

trung

quan

liêu

bao

cấp.

Hai




chế

kinh

tế



và mới

(



chế

tập

trung

quan

liêu

bao

cấp




thị

trường)



nhiều

đặc

điểm khác

nhau,

điểm

khác

nhau


bản

nhất

là:




chế



hình

thành

trên



sở

thu hẹp

hoặc

gần

như

xoá

bỏ

quan

hệ


hàng



tiền

tệ,

làm

cho

nền

kinh

tế

bị

“ hiện

vật

hoá”

còn




chế

mới

hình

thành

trên



sở

mở

rộng

quan

hệ

hàng

hoá tiền

tệ.
Quy


luật

tồn

tại

trong



chế

giao

nộp



cấp

phát

chỉ



hình

thức,


việc
mở

rộng

sản

xuất



lưu

thông

hàng

hoá



một

tất

yếu

lịch

sử


cho

nên

hạn chế

quuan

hệ

hàng

hoá

tiền

tệ



quy

luật

giá

trị

trở


thành

sự

cản

trở

tiến

bộ kinh

tế,

kìm

hãm

nhân

tố

mới.

Do

đó

làm


cho

nhà

nước

không

thể

làm

chủ những

quá

trình

kinh

tế

khách

quan

mặc




trong

tay

nhà

nước


thực

lực kinh

tế

to

lớn.



vậy,

đại

hội

lần


thứ

VII

Đảng

ta

đã

khẳng

định:

Xoá

bỏ

triệt để



chế

quản



tập


trung

quan

liêu

bao

cấp

hình

thành



chế

thị

trờng

có sự

quản



của


nhà

nước

bằng

pháp

luật,

kế

hoạch

chính

sách



các

công

cụ khác.

Xây

dựng




phát

triển

đồng

bộ

hàng

tiêu

dùng,

vật

tư,

dịch

vụ

sức

lao động…

thực


hiện

kinh

tế

thông

suốt

trong

cả

nước



với

thị

trường

thế

giới.
Xuất

phát


từ

nhiệm

vụ

bao

trùm

về

chính

sách

đối

ngoại



quan

điểm:
“Việt

Nam


muốn



bạn

của

tất

cả

các

nước

trong

cộng

đồng

thế

giới,

phấn đấu




hoà

bình,

độc

lập



phát

triển”,

chính

sách

knh

tế

đối

ngoại

của

nền kinh


tế

hàng

hoá

nước

ta

hiện

nay được

thực

hiện

theo

những

định

hướng sau:
Đa

dạng

hoá,


đa

phương

hoá

kinh

tế

với

mọi

quố

gia,

mọi

tổ

chức

kinh
tế

không


phân

biệt

chế

độ

chính

trị

trên

nguyên

tắc

tôn

trong

độc

lập

chủ quyền

bình


đẳng



cùng



lợi.

Củng

cố



tăng

cường

vị

trí

của

Việt

Nam


ở các

thị

trường

quen

thuộc



với

bạn

hàng

truyền

thống,

tích

cực

thâm

nhập



tạo

chỗ

đứng



thị

trường

mới,

phát

triển

các

mối

quan

hệ

dưới

mọi


hình
thức.
Kinh

tế

đối

ngoại



một

trong

các

công

cụ

kinh

tế

bảo

đảm


cho

việc
thực

hiện

các

mục

tiêu

kinh

tế





hội

đề

ra

cho


từng

giai

đoạn

lịch

sử

cụ

thể


phục

vụ

đắc

lực

mục

tiêu

độc

lập


dân

tộc



chủ

nghĩa



hội,

thực

hiện

công

nghiệp

hoá

hiện

đại

hoá


theo

định

hướng



hội

chủ

nghĩa.
Tăng

cường

hội

nhập

vào

nền

kinh

tế


thế

giới,

phát

huy

ý

chí

tự

lực

tự cường;

kết

hợp

sức

mạnh

dân

tộc


với

sức

mạnh

thời

đại,

dựa

vào

nguồn

lực trong

nước



chính,

đi

đôi

với


tranh

thủ

tối

đa

nguồn

lực



bên

ngoài.
Theo

những

định

hướng

trên,

mấy

năm


qua,

hoạt

động

kinh

tế

đối
ngoại



nước

ta

đã

lập

lại

quan

hệ


bình

thường

với

các

quan

hệ

tài

chính,

tiền
tệ

quốc

tế,

bước

đầu

đã

thu


đựoc

những

thành

tựu

quan

trọng

về

kinh

tế

đối
ngoại.
Ngoài

ra

nền

kinh

tế


thị

trưòng

phát

triển

theo

định

hướng



hội

chủ nghĩa

cần



sự

quản








của

nhà

nước.

Đây



đặc

điểm



bản

nhất

của kinh

tế

thị


trường



nước

ta

khác

với

nền

sản

xuất

hàng

hoá

giản

đơn

trứoc đây,

cũng


như

khác

với

nền

kinh

tế

thị

trường



các

nước



bản
chủ

nghĩa. Đặc


điểm

này

cũng

chính





hình

kinh

tế

khái

quát

trong

thời

kỳ

quá


độ lên

chủ

nghĩa



hội



nước

ta.



hình

kinh

tế

đó



những


đặc

trưng

riêng

, làm

cho



khác

với

kinh

tế

thị

trường



các

nước




bản

chủ

nghĩa.
3.
Hạn

chế

trong

phát

triển

kinh

tế
Măc



nước

ta

đã


đạt

được

nhưng

thành

tựu

nhất

định

trong

phát

triển kinh

tế



ổn

định

tình


hình

chính

trị



hội

nhưng

không

phải

không

còn nhưng

tồn

tại

cần

được

giải


quyết

nhất



những

tồn

tại

trong

việc

điều

hành nền

kinh

tế



giải

quyết


các

vấn

đề

thương

mại

.Tuy

những

khó

khăn

này

chỉ là

tạm

thời

nhưng

chúng


ta

vẫn

phải

giải

quyết

để

làm

lành

mạnh

hoá

nền kinh

tế



đẩy

nhanh


công

cuộc

phát

triển

kinh

tế

nước

nhà

.
Một

trong

những

hạn

chế

lớn


hiện

nay



Việt

Nam

còn

thiếu

quá

nhiều thông

tin

,

đặc

biệt



thông


tin

trong

lĩnh

vực

kinh

tế.

Không



các

thông

tin cần

thiết

về

thị

trường


,

về

Luật

kinh

tế

dẫn

đến

nhiều

thất

bại.

Đáng

chú

ý

là vấn

đề


thương

hiệu



gần

đây



những

khó

khăn

trong

việc

thâm

nhập

thị
trường

Mỹ.


Chính

từ

hai

nguyên

nhân

này



Việt

Nam

thất

bại

trong

vụ

kiện



ba

sa.Về

mặt

nào

đó

vụ

kiện

này



mặt

thiên

vị

cho

Hiệp

hội


chủ

trại

cá nheo

Mỹ

nhưng

phải

thừa

nhận

chúng

ta

đã

không



nhưng

thông


tin

cần thiết



cũng

không

tiến

hành

những

hoạt

động



đáng

ra

chúng

ta


phải

thực hiện

trước

khi

thâm

nhập



thành

công

trên

thị

trường

khó

tính

này.


Một

hạn chế

khác



chúng

ta

vẫn

còn

tồn

tại

những

nghành

kinh

tế

còn


quá

yếu

kém khi



chúng

ta

đã



đang

dỡ

bỏ

một

số

hạn

ngạch


thuế


quan

cho

một

số

mặt hàng

để

chuẩn

bị

cho

quá

trình

tham

gia

tổ


chức

thương

mại

quốc

tế

WHO. Nguyên

nhân

của

sự

khó

khăn

này

một

phần




do

còn



nhưng

ngành

kinh tế

hoạt

động

không

hiệu

quả

đặc

biệt

trong

sử


dụng

vốn.

Một

phần



do

một phần

những

ngành

khác



tỷ

lệ

nội

địa


hoá

thấp.

Ngoài

ra

vẫn

phải

thừa

nhận là

các

ngành

kinh

tế

Việt

Nam

phát


triển

phần

lớn



dựa

vào

sự

tăng

lên

về vốn.

Theo

thống



gần

đây


thì

trong


cấu

một

đồng

sản

phẩm

tăng

lên

thì có

tới

74%



do


tăng

về

vốn

,

14%

do

lao

động



chỉ



12%



do

sự


tăng lên

về

năng

suất

thôi.

Trong

những

nghành



tỷ

lệ

nội

địa

hoá

thấp


thì



thể kể

đến

ngành

ô





công

nghệ

tin

học,

phần

lớn

hàng


hoá

sản

xuất

trong nước

mới

dừng



mức

lắp

ráp

sản

phẩm

linh

kiện

nhập


từ

nước

ngoài

về.Ví dụ

ngành

ô



tỷ

lệ

nội

địa

hoá

mới



mức


8%,

cao

nhất



Toyota

Việt

Nam tỷ

lệ

này

cung

chỉ

đạt

14%.

Hiện

nay


một

trong

những

vấn

đề



các

nhà quản



không

thể

giải

quyết

mâu

thuẫn


giữa

việc

giảm

để

kích

thích

tiêu dùng

các

loại

hàng

hoá

đồng

thời

phải

tăng


thuế

để

buộc

các

doanh

nghiệp tăng

tỷ

lệ

nội
địa

hoá.
Đó



trên

sân

nhà,


còn

trên

thị

trường

thế

giới

thì

sao?

Nói

chung

hàng hoá

Việt

Nam

vẫn

còn


chủ

yếu

cạnh

tranh

bằng

giá.

Nói

chung

công

nghệ

sản xuất

của

Việt

Nam

còn


khá

lạc

hậu

nên

hàng

hoá



giá

trị

thấp,

hàm

lượng khoa

học

không

cao.


Kết

quả

dễ

thấy



lợi

nhuận

sẽ

thấp.

Trong

khi

đó,

Việt Nam

lại

chưa


vươn

tới

những

thị

trường

dễ

tính

như

châu

Phi,

Đông

Âu…

mà chủ

yếu

hàng


hoá

xuất

sang

EU,

Nhật



Mỹ

vốn



những

thị

trường

khó

tính đòi

hỏi


những

tiêu

chuẩn

khắt

khe.

Các

tham

tán

thương

mại

cũng

chưa

hoạt động

hiệu

quả


trong

việc

hỗ

trợ

doanh

nghiệp

tìm

kiếm

thị

trường.

Một

vấn

đề nữa



hàng


hoá

Việt

Nam

vẫn

hay

bị

một

số

nước

mua

lại,

dán

nhãn

mác khác

để


bán

ra

thị

trường.

Đây



một

thiệt

thòi

lớn

cho

chúng

ta

không

chỉ


là lợi

nhuận



còn

liên

quan

đến

những

quyền

lợi


tài

sản



hình

khác.

Không

chỉ

vậy,

trong

lĩnh

vực

quản



nhà

nước

chúng

ta

cũng

còn

tồn
tại


không

ít

những

hạn

chế

đặc

biệt

trong

lĩnh

vực

quản



hành

chính




chế
độ

tài

chính

công.

Phải

thừa

nhân

rằng

bộ

máy

hành

chính

của

Việt


Nam

còn
rất

cồng

kềnh



còn

quá

nhiều

khâu

trùng

lặp.

Mặc



chúng

ta


đã



những
cải

cách

trong

rút

gọn

thủ

tục

hành

chính

nhưng

vẫn

còn


khá

phức

tạp,

chưa thực

sự

thông

thoáng.

Tiêu

biểu



việc

cải

thiện

chế

độ


hải

quan

tại

các

cảng biển

nước

ta.

Theo

đánh

giá

của

các

nhà

kinh

doanh


nước

ta

đây



một

tiến bộ

lớn

nhưng

sau

một

thời

gian

kiểm

điểm

lại


chính

chúng

ta

cũng

phải

thừa nhận

những

khiếm

khuyết

vẫn

còn

tồn

tại.

Đồng

thời


với

việc
nặng

nề

trong

thủ

tục

hành

chính

thì

vấn

đề

liên

hệ

giữa

các


thành

phàn tham

gia

giải

quyết

cũng

chưa

thông

suốt.

Hệ

thống

luật

Việt

Nam

cũng


chưa thực
sự

hoàn

thiện



thiếu

sự

ổn

định.

Đặc

biệt



hệ

thống

luật


kinh

tế

nói
chung

luôn

thay

đổi

gây

không

ít

khó

khăn

cho

doanh

nghiệp.

Gần


đây

các phương

tiện

thông

tin

đại

chúng

liên

tục

đưa

ra

những

kiến

nghị

của


các doanh

nghiệp

xung

quanh

vấn

đề

mua

hoá

đơn

GTGT.

Theo

ý

kiến

của

các chuyên


gia

nước

ngoài

tham

gia

giúp

đỡ

Việt

Nam

trong

việc

soạn

thảo

các văn

bản


luật

thì

nguyên

nhân

chính



do

Việt

Nam



quá

nhiều

văn

bản chồng

chéo.


Ngoài

luật

còn



thông

tư,

chỉ

thị,

hướng

dẫn.Đôi

khi

chính những

văn

bản

này


lại

hạn

chế

lẫn

nhau,

mâu

thuẫn

với

nhau.

Bộ

máy

hành chính

còn

cồng

kềnh


cũng

hạn

chế

khả

năng

hoạt

động

của

các

nhà

đầu

tư. Cái

khó

nhất




đây



bộ

máy

hành

chính

càng

cồng

kềnh

càng

tạo

ra

nhiều khâu

trung

gian,


càng

làm

mất

thời

gian

của

doanh

nghiệp

trong

khi

đó

có không

ít

khâu

còn




sự

chồng

chéo

nhau

không

phân

định



phạm

vi

hoạt động.
III.
MỘT

SỐ

GIẢI


PHÁP



BẢN

TIẾP

TỤC

PHÁT

TRIỂN

KINH TẾ

THỊ

TRƯÒNG

ĐỊNH

HƯỚNG



HỘI

CHỦ


NGHĨA:
Muốn

phát

triển

nền

kinh

tế

thị

trường

định

hướng



hội

chủ

nghĩa



Việt

Nam,

cần

thực

hiện

đồng

bộ

nhiều

giải

pháp.
1.
Thực

hiện

nhất

quán

chính


sách

kinh

tế

nhiều

thành
p
hần:
Thừa

nhận

trên

thực

tế

tồn

tại

nhiều

thành


phần

kinh



trong

thời

kỳ quá

độ



một

trong

những

điềukiện



sở

để


thúc

đẩy

kinh

tế

hàng

hoá

phát triển,

nhờ

đó



sử

dụng



hiệu

quả


sức

mạnh

tổng

hợp

của

mọi

thành
phần kinh

tế.
Cùng

với

việc

đổi

mới,

củng

cố


kinh

tế

nhà

nước



kinh

tế

hợp

tác,
thừa

nhận

việc

khuyến

khích

các

thành


phần

kinh

tế



thế,



nhân

phát

triển


nhận

thức

quan

trọng

về


xây

dựng

chủ

nghĩa

trong

thời

kỳ

quá

độ.

Theo
hướng

đó



khu

vực

kinh


tế

nhà

nước,

kinh

tế

tập thể,

kinh

tế



thể



các
hình

thức

kinh


tế

hỗn

hợp

khác

đều

được khuyến

khích

phát

triển

theo

định

hướng

tiến

lên

chủ


nghĩa



hội.

Tất

cả

các thành

phần

kinh

tế

đều

bình

đẳng

trước

pháp

luật,


tuy

vị

trí,

quy

mô,

tỷ

trọng, trình

độ



khác

nhau

nhưng

tất

cả

đều




nội

lực

của

nền

kinh

tế

phát

triển theo

định

hướng



hội

chủ

nghĩa.
2.

Mở

rộng

phân

công

lao

động,

phát

triển

kinh

tế

vùng,

lãnh

thổ, tạo

lập

đồng


bộ

các

yếu

tố

thị

trường:
Phân

công

lao

động





sở

của

việc

trao


đổi

sản

phẩm.

Để

đẩy

mạnh

phát

triển

kinh

tế

hàng

hoá,

cần

phải

mở


rộng

phân

công

lao

động



hội,
phân

bố

lại

lao

động



dân




trong

phạm

vi

cả

nước

cũng

như

từng

địa phương,

từng

vùng

theo

hướng

chuyên

môn


hoá,

hợp

tác

hoá

nhằm
khai

thác mọi

nguồn

lực,

phát

triển

mọi

ngành

nghề,

sử

dụng




hiệu

quả



sở

vật

chất
-

kỹ

thuật

hiện





tạo

việc


làm

cho

người

lao

động.

Cùng

với

mở

rộng
phân

công

lao

động



hội

trong


nước,

phải

tiếp

tục

mở

rộng

quan

hệ

kinh

tế với

nước

ngoài

nhằm

gắn

phân


công

lao

động

trong

nước



phân

công

lao động

quốc

tế,

gắn

thị

trường

trong


nước



thị

trường

quốc

tế.

Nhờ

đó



thị trường

trong

nước

từng

bứơc

được


mở

rộng,

tiềm

năng

về

lao

động,

tài nguyên,



sở

vật

chất

hiện



được


khai

thác



hiệu

quả.

Thị

trường

được khai

thông

trên

khắp

mọi

miền

của

đất


nước,

gắn

liền

với

thị

trường

thế

giới.
Cần

phải

tiếp

tục

phát

triển

mạnh


thị

trường

hàng

hoá



dịch

vụ,

hình
thành

thị

trường

sức

lao

động



tổ


chức,

quản



chặt

chẽ

đất

đai


thị trường

nhà

cửa,

xây

dựng

thị

trường


vốn,

từng

bước

hình

thành

thị

trường chứng

khoán.
Để

khai

thác



hiệu

quả

tiềm

năng


về

vốn,

sức

lao

động,

công

nghệ,

tài
nguyên,

thực

hiện

mở

rộng

phân

công


lao

động



hội,

cần

phải

từng

bước hình

thành

đồng

bộ

các

loại

thị

trường


tiền

tệ,

vốn,

sức

lao

động,

chất

xám, thông

tin,



liệu

sản

xuất






liệu

tiêu

dùng…

Điều

này

sẽ

đảm

bảo

cho việc

phân

bố



sử

dụng

các


yếu

tố

đầu

vào,

đầu

ra

của

quá

trình

sản

xuất

phù hợp

với

nhu

cầu


của

sự

phát

triển

kinh

tế

thị

trường

định

hướng



hội

chủ nghĩa.
3.
Đẩy

mạnh


công

tác

nghiên

cứu

ứng

dụng

khoa

học

công

nghệ,đẩy

mạnh

công

nghiệp

hoá,

hiện


đại

hoá
Trong

kinh

tế

thị

trường,

các

doanh

nghiệp

chỉ



thể

đứng

vững

trong cạnh


tranh

nếu

thưòng

xuyên

đổi

mới

công

nghệ

để

hạ

chi

phí,

nâng

cao

chất lượng


sản

phẩm.

Muốn

vậy

phải

đẩy

mạnh

công

tác

nghiên

cứu



ứng

dụng các

thành


tựu

mới

của

cuộc

cách

mạng

khoa

học

vào

quá

trình

lưu

thông

hàng hoá.

So


với

thế

giới,

trình

độ

công

nghệ

sản

xuất

của

ta

còn

thấp
kém,

không đồng


bộ

do

vậy

khả

năng

cạnh

tranh

của

hàng

hoá

nước

ta

so

với

hàng


hoá nước

ngoài

trên

thị

trường

cả

nội

địa



thế

giới

còn

kém.

Bởi

vậy,


để

phát triển

kinh

tế

hàng

hoá,

chúng

ta

phải

đẩy

mạnh

công

nghiệp
hoá

hiện

đại


hoá.Hệ

thống

kết

cấu

hạ

tầng



sở



dịch

vụ

hiện

đaị,

đồng



bộ

cũng

đóng vai

trò

quan

trọng

cho

sự

phát

triển

kinh

tế



hội.

Hệ


thống

đó



nước

ta

đã quá

lạc

hậu,

không

đồng

bộ

mất

cân

đôí

nghiêm


trọng

nên

đã

cản

trở

nhiều đến

quyết

tâm

của

các

nhà

đầu



trong

cả


nước

lẫn

nước

ngoài,

cản

trở

phát triển

hàng

hoá



mọi

miền

đất

nứơc.




thế

cần

gấp

rút

xây

dựng



củng

cố các

yếu

tố

của

hệ

thống

kết


cấu

đó.

Trước

mắt,

nhà

nước

cần

tập

trung

ưu

tiên xây

dựng

nâng

cấp

một


số

yêu

tố

thiêt

yếu

như

đường

sá,

cầu

cống,

bến

cảng, sân

bay,

điện,

nước


hệ

thống

thông

tin

liên

lạc,
ngân

hàng

dịch

vụ

bảo

hiểm…
4.
Giữ

vững

ổn

định


chính

trị,

hoàn

thiện

hệ

thống

luật

pháp,

đổi mới

các

chính

sách

tài

chính

tiền


tệ

giá

cả
Sự

ổn

định

chính

trị

bao

giờ

cũng



nhân

tố

quan


trọng

để

phát

triển. Nó



điều

kiện

để

các

nhà

sản

xuất

kinh

doang

trong


nước



nước

ngoài

yên tâm

đầu

tư.

Giữ

vững

ổn

định

chính

trị



nước


ta

hiện

nay



giữ

vững

vai

trò lãng

đạo

của

Đảng

Cộng

sản

Việt

Nam,


tăng

cường

hiệu

lực



hiệu

quả

quản lý

của

nhà

nước,

phát

huy

đầy

đủ


vai

trò

làm

chủ

của

nhân

dân.
Hệ

thống

pháp

luật

đồng

bộ



công

cụ


rất

quan

trọng

để

quản



nền kinh

tế

hàng

hoá

nhiều

thành

phần.



tạo


nên

hành

lang

pháp



cho

tất

cả mọi

hoạt

động

sản

xuất,

kinh

doanh

của


các

doanh

nghiệp

trong



ngoài nước.

Với

hệ

thống

pháp

luật

đồng

bộ



pháp


chế

nghiêm

ngặt,

các

doanh nghiệp

chỉ



thể

làm

giàu

trên



sở

tuân

thủ


luật

pháp.
Đổi

mới

chính

sách

tài

chính

tiền

tệ,

giá

cả

nhằm

mục

tiêu


thúc

đẩy
phát

triển,

huy

động



sử

dụng



hiệu

quả

các

nguồn

lực,

bảo


đảm

quản


thống

nhất

nền

tài

chính

quốc

gia,

giảm

bội

chi

ngân

sách,


góp

phần

khống
chế



kiểm

soát

lạm

phát;

xử



đúng

đắn

mối

quan

hệ


giữa

tích

luỹ



tiêu
dùng.
5.
Xây

dựng



hoàn

thiện

hệ

thống

điều

tiết


kinh

tế



mô,

đào tạo

đội

ngũ

quản



kinh

tế



các

nhà

kinh


doanh

giỏi:
Hệ

thống

điều

tiết

kinh

tế





phải

được

kiện

toàn,

phù

hợp


với

nhu cầu

kinh

tế

thị

trường,

bao

gồm

điều

tiết

bằng

chiến

lược



kế


hoạch

kinh

tế, pháp

luật

chính

sách



các

đòn

bẩy

kinh

tế,

hành

chính

giáo


dục,

khuyến khích,

hỗ

trợ



cả

răn

đe,

trừng

phạt,

ngăn

ngừa,

điều

tiết

thông


qua

bộ

máy nhà

nước,

các

đoàn

thể…
Mỗi



chế

quản



kinh

tế




đội

ngũ

cán

bộ

quản



kinh

doanh

tương
ứng.

Chuyển

sang

phát

triển

nền

kinh


tế

hàng

hoá

nhiều

thành

phần

theo

định hướng



hội

chủ

nghĩa

đòi

hỏi

chúng


ta

phải

đẩy

mạnh

sự

nghiệp

đào

tạo

và đào

tạo

lại

đội

ngũ

quản




kinh

tế,

cán

bộ

kinh

tế,

cán

bộ

kinh

doanh


cho

phù hợp

với

mục


tiêu

phát

triển

kinh

tế

trong

thời

kỳ

mới.

Đội

ngũ

đó

phải

có năng

lực


chuyên

môn

giỏi,

thích

ứng

mau

lẹ

với



chế

thị
trường,

dám

chịu trách

nhiệm.

chịu


rủi

ro



trung

thành

với

con

đường


hội

chủ

nghĩa

mà Đảng



nhân


dân

ta

đã

chọn.

Song

song

với

đào

tạo



đào

tạo

lại,

cần

phải



phương

hướng

sử

dụng,

bồi

dưỡng,

đãi

ngộ

đúng

đắn

với

đội

ngũ

đó,

nhằm

kích

thích

hơn

nữa

việc

không

ngừng

nâng

cao

trình

độ

nghiệp

vụ,

bản

lĩnh quản


lý,

tài

năng

kinh

doanh

của

họ.



cấu

của

đội

ngũ

cán

bộ

cần


phải

được chú

ý

đảm

bảo



cả

phạm

vi





cũng

như

lẫn

cả


vi

mô,

cả

cán

bộ

quản

lý cũng

như

kinh

doanh.
6.
Thực

hiện

chính

sách

đối


ngoại



lợi

cho

phát

triển

kinh

tế

thị trường

định

hướng



hội

chủ

nghĩa
Thực


hiện



hiệu

quả

kinh

tế

đối

ngoại

chúng

ta

phải

đa

dạng

hoá

hình

thức,

đa

phương

hoá

đối

tác.

Phải

quán

triệt

nguyên

tắc

đôi

bên

cùng




lợi,
không

can

thiệp

vào

nội

bộ

của

nhau



không

phân

biệt

chế

độ

chính


trị

-

xã hội.

Cải

cách



chế

quản



xuất

khẩu,

thu

hút

rộng

rãi


nguồn

vốn

đầu



từ nước

ngoài,

thu

hút

kỹ

thuật,

nhân

tài



kinh

nghiệm


quản

lý.
7.
Giải

quyết

những

hạn

chế

còn

tồn

tai

của

kinh

tế

thị

trường:

Thị

trường

Việt

Nam

hiện

nay

hoạt

động

còn

yếu,



chưa

đủ

mức

độ
để


báo

hiệu

những

co

hội

mới.

Khu

vực



nhân

còn

thiếu

kỹ

năng




kinh
nghiệm

cần

thiết

để

đáp

ứng

các

tín

hiệu

về

thời





họ


nhận

được.

Do

đó
sự

liên

lạc



hiệu

quả

giữa

nhà

nước





nhân




cần

thiết,

làm

cho

các
chién

lược

phát

triển

nền

kinh

tế

nước

nhà




thể

thực

hiện

được.
Nhà

nước

ta

cần

xây

dựng

được

hệ

thống

pháp

luật


hoàn

chỉnh



có tính

đồng

bộ

.

Hệ

thống

pháp

luật

cần

được

bổ

sung




hoàn

thiện

trên

các lĩnh

vực:

sử

dụng,

chuyển

nhượng



cho

thuê

đất

đai,


thị

trường

bất

động sản,

thị

trường

vốn…

Bổ

sung,

điều

chỉnh

bộ

luật

thuế

tránh


bị

chồng
chéo, khuyến

khích

đầu



trong

nước,

xác

định



thẩm

quyền



trách


nhiệm

của


nhân,

xây

dựng

bộ

luật

thương

mại,

luật

ngân

sách,

luật

hành

chính


nhà
nước
Cải

cách

gằn

liền

với

đổi

mới

kinh

tế



một

nhân

tố

quyết


định

đảm
bảo

nền

kinh

tế

tăng

trưởng

nhanh



ổn

định,

bền

vững




nước

ta.

KẾT LUẬN
Tóm

lại

để

đưa

đất

nước



thể

đuổi

kịp

các

nước

phát


triển

trên

thế giới

trong

một

tương

lai

không

xa

đồng

thời

cũng

không

để

chệch


hướng

theo con

đường



hội

chủ

nghĩa



Đảng



nhân

dân

ta

đã

chọn


thì

nhất

thiết chúng

ta

phải

xây

dựng

được

một

nền

kinh

tế

thị

trường

vững


mạnh

theo

định hướng



hội

chủ

nghĩa



mang

bản

sắc

của

người

Việt

Nam.


Những

vấn

đề đựơc

đề

cập

trên

đây

mới

chỉ



một

vài

biện

pháp




chúng

ta

cần

làm

trong thời

gian

trước

mắt

để

tiếp

tục

ổn

định



khắc


phục

những

hạn

chế

của

nền kinh

tế

thị

trường



sau

này

trong

quá

trình


phát

triển

lâu

dài

của

đất

nước.
Nhất



trong

quá

trình

hội

nhập

nền


kinh

tế

thế

giới

theo

xu

hướng

toàn
cầu

hoá

nền

kinh

tế

thế

giới

thì


khi

đó

sẽ

mở

ra

rất

nhiều



hội

cũng

như
những

thách

thức

đòi


hỏi

chúng

ta

phải

thật

sáng

suốt

nếu

không

muốn

bị

lâm
vào

tình

thế

bị


động

trước

những

diễn

biến

của

nền

kinh

tế

thị

trường.




thể

gây


ra

những

hậu

quả

nghiêm

trọng

như:

sự

phân

hoá

giàu

nghèo

ngày
càng

lớn,

tệ


nạn



hội

ngày

càng

tăng



phức

tạp,

các

truyền

thống

bị
thương

mại


hoá,

nạn

lạm

phát

gia

tăng…
Chính



vậy,

chúng

ta

cần

phải

trau

dồi

kiến


thức

cho

thật

tốt,

bên

cạnh
đó



nhân

phẩm

của

một

người

sinh

viên,




tầng

lớp

trí

thức

trong



hội

sẽ
đi

đầu

trong

mọi

việc



Đảng




nhà

nước

tiến

hành

để

góp

phần

vào

việc
hoàn

thiện

nền

kinh

tế


thị

trường

tiến

tới

việc

xây

dựng

thành

công

chủ

nghĩa


hội



Việt

Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo

trình

kinh

tế

chính

trị_Đại

học

Kinh

tế

Quốc

dân
2) Xây

dựng

nền

kinh


tế

thị

trường

địng

hướng



hội

chủ
nghĩa_Nguyễn

Nhâm
3) Giáo

trình

Kinh

tế

chính

trị


Mác-Lênin

_

NXB

Chính

trị

quốc

gia
4) Vai

trò

của

nhà

nước

trong

nền

kinh


tế

thị

trường

định

hướng


hội

chủ

nghĩa



Việt

Nam_GS

-

TS

Chu

Văn


Cấp.
5) Kinh

tế

thị

trường

định

hướng



hội

chủ

nghĩa

mâu

thuẫn


phướng

giảI


quyết_TS

Nguyễn

Tấn

Hùng
6)

Dự

thảo

các

văn

kiện

trình

đại

hội

IX

của


Đảng.

Mục Lục


 !"##$%&'()*+,-./)*%/0
$1234356784849341:;:1<:=>?4@0
AB4:13;::C4:D39341:;:1<:=>?4@0
EF4B1G:9341:;:1<:=>?4@<411>H4@IJ1K3B1L4@1MN0
'OB:=>4@BLN9341:;:1<:=>?4@<411>H4@IJ1K3B1L4@1MN4>HB:N0
%P%QR"ST%U"UVW%%QX#$%&%(%Q)Y'()*+,
-./)*%/0
%=>HBZ36H30
NZ36H30
D4B1;:=[4@\12::=3]49341:;
%^_VWVE_%&V%`VW%%QX$%&%(%Q)a'()*+,
-./0
%1AB135441G:b24B1c41d2B19341:;4138:1e41\140
=K4@\1f4Bg4@hN[K4@i\12::=3]49341:;7j4@ihJ41:1Zi:D[hk\C4@lKB2Bm;:n:1<
:=>?4@0
'om6D41Bg4@:2B4@13p4Bqq4@rs4@91[N1tBBg4@4@15iom6D41Bg4@4@135\1[2i
1354D31[2
3u7u4@Z4<41B1c41:=<i1[e4:135415:1n4@hk:\12\iZ36H3B2BB1c41d2B1:e3B1c41
v84:5@32BF
+fmrA4@7e1[e4:135415:1n4@38v;:9341:;7M6gie[:D[K34@wbF4hx9341:;7eB2B
41e9341r[N41@3y30
%1AB1354B1c41d2B1n34@[D3Bzh{3B1[\12::=3]49341:;:1<:=>?4@<411>H4@IJ1K3B1L
4@1MN
3F3bm;:41u4@1D4B1;B|4:C4:N3BLN9341:;:1<:=>?4@0
$&%!

%US%/$_}



×