Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Danh nhân lịch sử: LÝ THÁI TÔNG potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.95 KB, 9 trang )

LÝ THÁI TÔNG (LÝ PHẠT MÃ) 1028-1054
Vua Lý Thái Tông tên là Lý Phật Mã và có tên khác là Lý Đức Chính, là con
trai trưởng của vua Thái tổ Lý Công Uẩn, lên ngôi vào đúng tuổi thanh niên
cường tráng: 28 tuổi (ông sinh nǎm 1000 lên ngôi nǎm l028). Người thời bấy
giờ thường hay truyền tụng những sự việc lạ lùng về con người này và về
những chuyện lạ xảy ra trong tuổi thiếu thời của ông. Họ nói rằng sau gáy ông
có đến 7 cái nốt ruồi tụ lại như chòm sao thất tinh (Sao Bắc Đẩu). Như thế là
ông có tướng lạ. Lúc bé, chơi đùa với bọn trẻ trong cung, ông thường bắt
chúng dàn hàng tả hữu trước sau để làm quân hầu hộ vệ cho mình. Ông cho
một vị đạo sĩ cái áo. Đạo sĩ treo cái áo trong quán, nửa đêm thấy rồng vàng
hiện ra. Người ta tin rằng đó là điềm báo hiệu ông rất xứng đáng nối ngôi thiên
tử.
Nhà vua Lý Công Uẩn cũng rất chú ý đến người con trai của mình và có ý thức
gây dựng cho con ngay từ khi mới trưởng thành. Ông cho Phật Mã được chính
thức có danh hiệu là Đông Cung Thái tử, phong làm Khai Thiên vương, lập
phủ ở phía ngoài nội cung để phật Mã được làm quen với các quan lại và dân
chúng. Lúc ấy, Phật Mã mới có 13 tuổi (1012) . Nǎm 20 tuổi, Phật Mã đã được
giao làm nguyên soái, cầm quân vào Nam đánh Chiêm Thành, tiến mãi đến núi
Long Tị (nay thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình). Nǎm 24 tuổi, lại
cầm quân đi đánh Phong Châu. Hai nǎm sau, đi đánh Diễn Châu. Nǎm 1027 lại
lên phía Bắc, đánh châu Thát Nguyên (nay là huyện Tràng Định, Lạng Sơn).
Suốt thời gian ở tuổi thanh niên, Lý Phật Mã đã được rèn luyện trên trường
chinh chiến và đã bộc lộ tài nǎng thao lược của mình: đánh đâu thắng đó . Ông
đã là võ tướng trước khi là Hoàng đế.
Nǎm Mậu Thìn ( 1028) vua Lý Thái Tổ mất. Theo đúng di chiếu thì Đông cung
Thái tử Lý Phật Mã được lên ngôi. Anh em trai trong gia đình Lý Công Uẩn
cũng khá đông, và người nào cũng có tài vũ dũng. Khi còn sống, Lý Thái Tổ
không chỉ giao cho Phật Mã đi chỉ đạo các chiến dịch, mà các em của Phật Mã
cũng đều được cho đi lập các chiến công. Vì vậy, Vua Thái Tổ vừa mất chưa
làm lễ tế táng, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông
Chính Vương đã mang quân bản bộ đến vây thành để tranh ngôi của Thái tử.


Đông Chính Vương phục ở Long Thành, Dực Thánh Vương và Võ Đức Vương
phục cửa Quảng Phúc. Họ quyết chờ khi Phật Mã xuất hiện thì cùng xông ra
đánh úp, nếu thắng lợi thì tính đến việc chia quyền cho nhau.
Phật Mã biết âm mưu của mấy người em phản loạn ấy. Ông vội vàng tổ chức
việc phòng giữ cung cấm, rồi cho gọi các tướng tá bộ hạ của mình vào bàn
cách đối phó. Ông không muốn giữa lúc vua cha từ trần, anh em một nhà lại
quay ra xung đột, tranh giành quyền lực với nhau. Ông nói: Ta lấy làm xấu hổ
là tiên đế mới mất chưa quàn, mà cốt nhục đã giết nhau, há chẳng để cho,
muôn đời chê cười sao?
Thực hiện ý định của mình, ông cho người ra khuyên các em nên hạ khí giới,
cùng vào chịu tang cha, thực hiện di chiếu, không nên gây bạo loạn. Nhưng ba
vị vương tử kia nhất định không nghe. Họ vẫn tiếp tục bao vây cung điện, xua
quân tràn vào gấp gáp và mãnh liệt. Lý Phật Mã vừa lo vì nhiệm vụ, vừa buồn
vì tình anh em, không biết giải quyết thế nào. Những tướng tá tâm phúc của
ông đều ào lên, nhất định đòi ông phải đích thân ra tay trừng trị bọn phản
nghịch.
Có người nói:
- Không nghĩ nghĩa cha con, không nghĩ tình cốt nhục, chỉ chǎm chǎm việc
cướp ngôi, những người như thế đã trở thành giặc rồi, sao có thể xem là anh
em được nữa?
Lý Phật Mã vẫn kiên trì:
- Ta muốn thuyết phục các vương cho họ tự ý rút quân thì họ sẽ không gây ra
tội ác, chứ kéo quân ra giao chiến với nhau thì còn mặt mũi nào!
Thấy Lý Phật Mã cứ dùng dằng mà quân tướng của ba hoàng tử kia thì đánh
vào cung gấp lắm, các tướng Lê Nhân Nghĩa, Quách Thịnh, Dương Bình.v.v
cùng đứng lên, kiên quyết giục phải ra quân. Trước tình thế này Lý Phật Mã
không biết làm thế nào. Ông lắc đầu nói : - Ta chỉ đành vào làm lễ thành phục
trước linh cữu của tiên đế thôi, mọi việc làm thế nào do các tướng định liệu
lấy.


Ông vừa dứt lời một võ tướng đã rút gươm chạy như bay ra ngoài cung, xông
thẳng vào chỗ Võ Đức Vương đang đứng. Viên tướng ấy thét lên:
Các hoàng tử muốn tranh giành ngôi báu, không nghĩ đến Hoàng đế vừa lâm
chung, không vâng lời di chiếu, rõ ràng đã là quân phản nghịch. Tôi xin dâng
các ngài thanh kiếm này.
Lưỡi kiếm vung lên, đầu Võ Đức Vương đã rơi xuống. Bọn tướng sĩ của phe
phản nghịch bỏ chạy tán loạn. Mấy đội phục binh khác cũng hoảng hốt, vội
vàng tháo lui, bị giết vô số . Hai hoàng tử kia là Đông Chính Vương và Dực
Thánh Vương đều trốn được.
Viên tướng ấy chính là Lê Phụng Hiểu, người Bǎng Sơn (thôn Bưng, huyện
Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Lý Phật Mã rất cảm ơn các tướng.
Ông lên ngôi đã thưởng cho tất cả mọi người. Riêng Lê Phụng Hiểu được một
đặc ân. Về quê nhà mình, Lê Phụng Hiểu đứng trên núi Bǎng Sơn quǎng con
dao ra. Dao rơi xuống đâu, thì ông được lấy đất ở đó làm nơi lập nghiệp của
mình. Dao ném xa đến hơn mười dặm, ruộng thưởng cho Lê Phụng Hiểu kéo
dài đến thôn Đa Mi, lệ thưởng này gọi là lệ thác đao điền, bắt đầu từ sự việc
này.
Phật Mã chính thức lên ngôi, lấy niên hiệu là Thiên Thành khi ông vừa tròn 28
tuổi. Thấy tình hình mưu phản vừa qua của bọn em út mình, Lý Phật Mã nghĩ
ngay đến việc phải có một hình thức thích hợp, một hiệu pháp tâm linh để ràng
buộc mọi người, cố kết nhân âm. Và đây là việc làm đầu tiên của ông khi vừa
lên ngôi báu. Ông cho dựng miếu thờ thần Đồng Cỏ (vị thần trống đồng ở núi
Đan-nê Thanh Hóa). Miếu đặt ở bên hữu thành Đại La, sau chùa Thánh Thọ
(Yên Thái-Hà Nội). Vua cho đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội
ngũ, treo gươm giáo ở trước thần vị đọc lời thề rằng: "Làm con phải hiếu, làm
tôi phải trung, ai bất hiếu, bất trung xin thần làm tội". Các quan từ cửa đông đi
vào, đến trước thần vị cùng uống máu ǎn thề, từ đó thành lệ, hàng nǎm vào dịp
đầu xuân, vua quan các triều đại đều phải dự lễ thề này.
Đã trở thành vua, sử gọi ông là Lý Thái Tông, song ông vẫn tiếp tục phát huy
sở trường chiến đấu của mình. Suốt 27 nǎm ở ngôi - khi mất chưa vào lớp

người sáu chục tuổi, ông sẵn sàng thân chinh ra nhiều mặt trận. Nǎm 33 tuổi,
ông đi đánh Châu Định Nguyên, nǎm 35 tuổi đánh Châu ái, nǎm 39 tuổi đánh
Nông Tồn Phúc, nǎm 42 tuổi đánh Nùng Trí Cao, nǎm 44 tuổi vào tận phía
Nam đánh Chiêm Thành. Mỗi lần đánh trận, là mỗi lần ông ghi thêm những
chiến công chói lọi. Trong cuộc sống ông luôn luôn tỏ ra là một con người trẻ
trung với phong cách và đức tính của một thanh niên. Người ta thường nghĩ
rằng tuổi trẻ là tuổi thường độ lượng hào phóng. Nếu điều đó đúng, thì quả là
hợp với Lý Thái Tông. Sử sách ngày xưa cho rằng vào thời kỳ đạo Phật đang
được thịnh hành ở nước ta nên nhiều ông vua đã thiên về nhân đạo, về lòng từ
bi mà có những việc làm nhân nghĩa khiến cho người đời sau phải khâm phục.
Lý Thái Tông thực sự là một ông vua có một tấm lòng bao dung, nhân hậu đối
với anh em, bạn bè và cả đối phương nữa.
Vừa có tấm lòng bao dung, ông luôn chú ý đến luật pháp để giữ vững kỷ cương
nề nếp. Đặc biệt, vào thế kỷ XI, Lý Thái Tông đã chú ý đến luật pháp và cho
hình thành vǎn bản hẳn hoi: Sử ghi rõ việc ban Hình luật: "Trước kia việc kiện
tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật vǎn, cốt làm
cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương
xót sai trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế,
chia ra môn loại, biến thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều
đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy
làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng, cho nên mới đổi niên
hiệu là Minh Đạo, và đúc tiền Minh Đạo".
Ông biết tìm kiếm những người phò tá trung thành, do đó mới thu hoạch được
nhiều thắng lợi.
Cũng trong biện pháp dùng người, có thể nói Lý Thái Tông thực sự là sáng
suốt. Những viên quan được ông sử dụng, không ai lơ là trách nhiệm của mình,
và đều giúp cho ông thành công trong mọi chủ trương. Sử còn chép một sự
kiện chứng tỏ ông nhận xét người rất tài tình sáng suốt. Một viên tướng trong
kinh có âm mưu làm phản. Ông quan sát người này và ngầm nói với các phi
tần rằng người ấy thể nào cũng làm phản. Quả nhiên, sau chiến dịch ở ái Châu,

viên quan có tên là Nguyễn Khánh ấy đã cùng với đồng đảng lộ rõ hình tích,
đều bị ông bắt giam trị tội, các phi tần đều ca ngợi Lý Thái Tông: "Thánh nhân
thấy được chỗ chưa hiện hình, biết trước việc chưa xảy ra, nay chính nhà vua
cũng như bậc thánh ấy".
Tuổi thanh niên là tuổi yêu vǎn nghệ, giàu sáng tạo . Ông vua trẻ Lý Thái Tông
cũng không kém mọi người về phương diện này. Sử có chép là khi đánh Chiêm
Thành thắng trận, nhà vua rút quân về có đem theo các cung nữ nước này
thành thạo hát múa khúc điệu Tây Thiên. Chưa rõ những điệu ca vũ này như
thế nào, nhưng Tây Thiên là danh từ riêng chỉ ấn Độ. Đến nước người, biết học
tập nghệ thuật của người - dù nước ấy là nước chiến bại, - đó là một thái độ,
một quan niệm đúng. Sau này, ảnh hưởng nhạc Chiêm Thành vào Việt Nam sẽ
được đậm hơn, và giờ đây ta còn phải ra công tìm hiểu, nhưng công lao trước
nhất là phải kể từ Lý Thái Tông với những bước đi ban đầu. " Công lao đối với
nghệ thuật Việt Nam của Lý Thái Tông, không chỉ dừng ở đó. Giờ đây, chúng
ta thường nhắc đến Chùa Một Cột, xem đó là một niềm tự hào của kiến trúc
Việt Nam, là một biểu tượng của những nét diệu kỳ đất Việt. Không nên quên
rằng, Chùa Một Cột được xây dựng là do sáng kiến của Lý Thái Tông. Nhà vua
kể rằng, -trong một giấc chiêm bao, ông thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa
sen dắt vua lên tòa. Sau đó vua đã cho dựng cột đá, làm tòa sen đặt lên như đã
thấy trong mộng. Cột đá tòa sen ấy đã trở thành ngôi chùa, lúc đó (nǎm 1049)
được lấy tên là chùa Diên Hựu. Cứ cho giấc mộng ấy là có thật đi nữa, song từ
đó mà hình dung ra cách thức của một ngôi chùa với hình dáng độc đáo ấy, thì
quả là sáng tạo (Gần 100 nǎm sau, lần trùng tu nǎm 1105, ta mới đào hồ Liên
Hoa đài ở chung quanh cột) . Nhưng công đầu thuộc về vua Lý Thái Tông: Sử
sách còn cho biết thêm rằng, ông vua trẻ Lý Thái Tông, dù ở ngôi cao, vẫn
luôn luôn gắn bó với sản xuất, với lao động. Vào nǎm ông 38 tuổi, tháng 2, ông
ngự ở cửa Bồ Hải cày ruộng tịch điền. Vua thân tế Thần Nông, tế xong tự cầm
cày xuống ruộng. Các quan ta hữu có người can rằng: "Đó là công việc của
nông phu, bệ hạ cần gì làm thế?" Vua nói: "Trẫm không tự cày thì lấy gì làm
xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo?". Nói xong đẩy cày ba lần rồi thôi.

Vào nǎm 1040, ông dạy cho cung nữ dệt được gấm vóc. "Tháng ấy, (tức là
tháng hai cùng nǎm) xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho
ra để may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào bằng gấm, từ
cửu phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc". Phát hết như vậy, để trong kho không
còn vải vóc ngoại quốc nữa, từ nay chuyên dùng vải của nước mình, không
dùng gấm vóc của nước Tống nữa.
Cả hai việc trên đây, sử gia Ngô Sĩ Liên đã đánh giá rất cao. Ông cho rằng nhà
vua đã nêu gương cho thiên hạ, có đức tính kiệm ước, dẫn đến dân đông, của
giàu: "Trong cái tốt lại còn cái tốt nữa".
Vua Lý Thái Tông trị vì được 27 nǎm, đến nǎm Giáp Ngọ (1054) thì mất thọ
55 tuổi.


×