Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Hải dương học Biển Đông ( Lê Đức Tố ) - Chương 2 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.54 MB, 79 trang )


34

Chơng 2
Đặc điểm điều kiện tự nhiên Biển đông
2.1 ĐặC ĐIểM địA CHấT ĐịA MạO
Biển Đông nằm ở một vị trí đặc biệt trên bình đồ kiến trúc hiện đại của
hành tinh - đới chyển tiếp giữa các miền kiến trúc kiểu địa máng uốn nếp có
tuổi tạo lập khác nhau thuộc phần đông nam đại lục á - Âu và các miền động
hiện đại của các đai động hành tinh Tây Thái Bình Dơng và Địa Trung Hải -
Hymalaya. Vì vậy, đã từ nhiều thập kỷ nay, vùng biển kỳ thú này luôn hấp
dẫn sự quan tâm của nhiều nhà khoa học địa chất. Những hiểu biết cơ bản
hiện nay về cấu trúc thạch quyển và tiềm năng khoáng sản của lu vực Biển
Đông dựa vào các kết quả điều tra của các nớc trong khu vực là Việt Nam,
Trung Quốc, Philippin, Brunây, Indonesia, Malaysia, Thái Lan và phần rất
quan trọng là các kết quả nghiên cứu nhiều năm của CCop, ESCAP và một số
tổ chức quốc tế khác. ở phần này chúng tôi chỉ trình bày những nội dung cơ
bản về các thành tạo địa chất, đặc điểm kiến tạo, đặc điểm cấu trúc hình thái
và các hoạt động động đất của Biển Đông
2.1.1. Các thành tạo địa chất
Cấu trúc địa chất của biển Việt Nam đợc đặc trng bởi các thành tạo
địa chất đa nguồn, đợc sinh thành trong suốt lịch sử phát triển lâu dài khoảng
3 tỉ năm từ Tiền Cambri sớm đến nay. Các nhóm thành tạo tuổi trớc Kainozoi
bao gồm các hệ tầng trầm tích phun trào, biến chất và các phức hệ macma
xâm nhập phân bố chủ yếu trên đới duyên hải, các đảo và quần đảo của thềm
lục địa Việt Nam. Còn các thành tạo tuổi Kainozoi phủ trên toàn bộ phần còn
lại của đới duyên hải, thềm lục địa, vùng đáy biển và các quần đảo biển khơi.
Các đá trớc Kainozoi
Các thành tạo này lộ chủ yếu trên hệ thống đảo ven bờ. Tuy nhiên một
số đảo ven bờ còn đợc cấu tạo bởi đá trầm tích và đá phun trào bazan tuổi
Neogen và Đệ tứ. Chúng ta sẽ xem xét đặc điểm các thành tạo trớc Kainozoi


cho các vùng biển Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan, vùng biển miền Trung và
Đông Nam Bộ.
Trong vịnh Bắc Bộ các đá thuộc hệ tầng Tấn Mài (0 - S) phân bố từ

35

phía nam đứt gãy lớn Tiên Yên - Móng Cái đến quần đảo Cô Tô, trên các đảo
Vĩnh Thực, Cái Chiên, Tràng Tây, Thanh Lân, Cô Tô, phần dới là cát kết
tufogen, đá phiến sét - silic, cát kết và phần trên là đá phiến thạch anh xerixít,
cát bột kết.
Điệp Đồ Sơn (D
1
) phân bố trên vòng cung các đảo từ Hạ Mai, Nất Đất,
Phợng Hoàng, Thợng Mai đến Cảnh Cớc, Cao Lô, Sậu Nam, Thoi Xanh,
Vĩnh Thực, gồm các trầm tích lục nguyên hạt thô : cuội sạn kết, cát bột kết,
cát kết dạng quaczit và phiến sét màu tín đỏ.
Các trầm tích Devon thuộc điệp Dỡng Động (D
1,2
) gồm các bột kết,
thấu kính đá vôi - sét và đá vôi gặp trên các đảo Cao Lô, Cái Lim, Trà Bản,
Vạn Cảnh, Ngọc Vừng. Hệ tầng Lỗ Sơn (D
2
) phân bố trên các đảo Cái Bầu,
Cái Lim, Soi Đán, Trà Bản với thành phần chủ yếu là đá vôi màu xám đen, đá
vôi Đolomit, đá vôi silic, trên cùng là đá phiến silic.
Các trầm tích Paleozoi thợng (C - P) phân bố rộng rãi. Hệ tầng Cát Bà
(C
1
) chiếm diện tích chủ yếu của đảo Cát Bà, đa số các đảo đá trong vịnh Hạ
Long, Bái Tử Long và quần đảo Long Châu gồm đá vôi màu đen, đá vôi silic,

đá vôi sét, cát bột kết. Hệ tầng Quang Hanh (C-P) phân bố ở trung tâm đảo
Cát Bà và trên một số đảo nhỏ (đảo Hang Trại, Đầu Bê, Cống Đỏ ) gồm đá
vôi xám trắng, đá vôi đolomit, đá vôi silic và đá vôi trứng cá.
Các thành tạo Mesozoi là các đá trầm tích tuổi T
3
và J
1-2
có chứa than.
Điệp Hòn Gai (T
3
n-r hg) phân bố ở phần đông nam đảo Cái Bầu và trên các
đảo Vạn Vợc, Vạn Mạc, phần dới là cuội kết, sạn cát kết, bột sét kết, đá
phiến, sét than và than đá ; phần trên có cuội kết, cát kết thạch anh, bột kết và
ít đá phiến sét đen. Hệ thống Hà Cối (J
1-2
) phân bố thành dải hẹp trên các đảo
Vĩnh Thực, Cái Chiên, Vận Mặc Vạn Vợc, Cái Bầu và một số đảo nhỏ khác.
Phần dới của hệ tầng gồm cuội kết, cát bột kết, sét vôi, đá phiến sét than,
thấu kính than; phần trên gồm cát bột kết, sét kết và thấu kính đá vôi.
Đảo Bạch Long Vĩ đợc cấu tạo bởi đá sét kết, cát bột kết xen cuội kết
tuổi Neogen.
Trong vịnh Thái Lan các đảo và quần đảo đợc cấu tạo bởi các đá có
tuổi Cổ sinh. Trung sinh và Tân sinh. Theo kết quả lập bản đồ địa chất và hiệu
đính tỉ lệ 1 : 200.000 của Liên đoàn Địa chất 6 (1993) có thể tóm tắt các đặc
điểm chính nh sau :

36

Cổ nhất là các đá thuộc hệ tầng Hòn Chông (D
2

- C
1
) phân bố trên các đảo
Hòn Heo và Hòn Đội Trởng (quần đảo Bà Lụa), gồm : cát kết thạch anh
xen phiến sét.
Tiếp đến là hệ tầng Hòn Ngang (C), phân bố khá rộng rãi trên các đảo
thuộc quần đảo Hải Tặc, Bà Lụa, Nam Du, gồm porfia thạch anh xen cát
kết,phiến sét, chuyển lên đá fenzit, đá silic sét, đôi nơi có lớp phun trào
axít.
Hệ tầng Hòn Mấu (C
1
- P
1
) có diện tích bó hẹp ở phía bắc Hòn Mấu gồm
aglomerat, phiến silic xen phun trào andezit.
Đã đợc xếp vào hệ tầng Hà Tiên (P) lộ không nhiều ở quần đảo Bà Lụa
(Đá Lửa, Lò Cốc ) và phía bắc Hòn Tre Lớn, gồm đá vôi màu xám sáng,
xám tối dạng khối hoặc phân lớp dày.
Thuộc các thành tạo Meôi có hệ tầng Hòn Nghệ (T
2
), hệ tầng Phú Quốc
(K
1
) và hệ tầng Nha Trang (K
2
).
Hệ tầng Hòn Nghệ (T
2
) lộ ở tây bắc đảo Hòn Nghệ gồm đá vôi xám
sáng, chuyển lên đá phiến sét, bột kết, cát kết.

Hệ tầng Phú Quốc (K
1
) phân bố tại đảo Phú Quốc, quần đảo An Thới,
Thổ Chu và một số đảo nhỏ khác, gồm cát kết dạng quaczit, sét bột kết,
chuyển lên cát cuội sạn kết và cát kết.
Hệ tầng Nha Trang (K
2
) gồm các đá phun trào axit kiềm lộ ra ở đảo
Hòn Nghệ, Hòn Trung, Hòn Trớc, Nam Du.
Trên các đảo còn gặp các đá Macma xâm nhập tuổi khác nhau. ở Hòn
Tre, Đá Bạc phân bố các đá granodiorit, monzodiorrit, thuộc phức hệ Định
Quán, tuổi J
3
- K
1
. Đảo Hòn Rái cấu tạo bởi đá granit hạt lớn, granosienit,
thuộc phức hệ Đèo Cả, tuổi K
2
.
Các đảo ven bờ Trung Bộ và Đông Nam Bộ phân bố rải rác, có thành
phần khác nhau. ở phía bắc, ven bờ Thanh Hoá và Nghệ An các đảo cấu tạo
chủ yếu bởi đá trầm tích, khi ở phía nam chủ yếu là các đá macma và trầm
tích phun trào.
Hòn Mê (Thanh Hoá) phía đông bắc là các đá bazan andezit tuổi P
2
,
phía tây nam đảo là các trầm tích cuội kết, cát sạn kết, bột kết màu đỏ, tuổi
T
3
- Hòn Nghi Sơn cũng cấu tạo bởi các đá màu đỏ tơng tự. Tại Hòn Ng và


37

Hòn Mát (ở ven bờ Nghệ An) chủ yếu phân bố các đá cát bột kết tuf phun trào
tuổi T
2
.
Các đá macma xâm nhập chiếm lĩnh đa số các đảo ven biển Trung Bộ
và đông Nam Bộ Cù Lao Chàm (Quảng Nam - Đà Nẵng), cù lao Cỏ (Bình
Định), cù lao Xanh (đông Cù Mông), Hòn Lớn (vịnh Văn Phong - Khánh
Hoà), Hòn tre (Nha Trang), đảo Bình Ba (Cam Ranh), đảo Cái Hòn (Bình
Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu) và Hòn Khoai (Minh Hải). Đó là các
đá granit granodiorit, diorit, granosyenit, tuổi từ trớc Carbon (cù lao Chàm)
(cù lao Cỏ, cù lao Xanh), Jura-Creta (Côn Đảo, Hòn Trứng Lớn ) đến Creta -
Paleogen (Hòn Lớn, Hòn Tre, Côn Đảo). Bên cạnh các đá xâm nhập, trên một
số đảo (Hòn Tre, Côn Đảo) còn gặp các đá ryolit, đaxit, tuf và cát cuội kết
tuổi Creta.
Cũng cần lu ý là ngoài các đá trớc Kainozoi, các đảo ven biển miền
Trung còn đợc đặc trng bởi các thành tạo trẻ hơn do các hoạt động núi lửa.
Đó là các đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị), Lý Sơn (Quảng Ngãi) và vùng đảo Phú
Quý (Bình Thuận), cấu tạo bởi đá bazan và trầm tích biển tuổi N-Q.
Các thành tạo Kainozoi
Các thành tạo Kainozoi đóng vai trò rất quan trọng trong cấu trúc địa
chất vùng biển và các miền kế cận. Chúng tạo nên kiến trúc vỏ phủ của thềm
lục địa, các quần đảo Trờng Sa và Hoàng Sa, trũng nớc sâu Biển Đông và
các đồng bằng lớn ven biển (sông Hồng, sông Cửu Long ) của Việt Nam.
Các thành tạo Kainozoi thờng nằm phủ bất chỉnh hợp trên các thành tạo có
tuổi cổ hơn. Cấu trúc mặt cắt của các thành tạo Kainozoi bao gồm các phân vị
địa tầng có tuổi Paleogen (chủ yếu Neogen và Oligoxen), Neogen, Đệ tứ và
các thành tạo phun trào bazan Neogen - Đệ tứ.

Trên phạm vi vùng biển và đồng bằng ven biển Việt Nam, các thành tạo
Paleogen hiện biết đợc ở một số mặt cắt ở phần sâu của trũng Sông Hồng,
trũng Cửu Long và Nam Côn Sơn gồm các trầm tích kiểu molas lục địa, tích tụ
trong các bồn trũng giữa núi. Chúng đợc phân chia thành các hệ tầng Phù
Tiên (ở trũng Sông Hồng) và cù lao Dung (ở trũng Cửu Long), có tuổi
Oligoxen.
Các thành tạo trầm tích Oligoxen đợc phân chia thành các hệ tầng với
các tên gọi địa phơng khác nhau là hệ tầng Đình Ca (miền võng Hà Nội), hệ
tầng Trà Cú (ở đồng bằng sông Cửu Long), hệ tầng Trà Tân (trũng Cửu Long),

38

và hệ tầng Cau (trũng Nam Côn Sơn).Chúng đặc trng bởi các trầm tích lục
địa và tam giác châu ven biển hoặc biển nông.
Các thành tạo Neogen phân bố rộng rãi trong các bồn trũng Kainozoi.
Chúng đã đợc phân chia chi tiết thành các phân vị có tuổi tơng ứng là
Mioxen sớm, Mioxen giữa, Mioxen muộn và Plioxen với các tên gọi địa
phơng khác nhau.
Trầm tích Mioxen sớm đợc phân chia thành các hệ tầng nh : hệ tầng
Phong Châu (miền võng Hà Nội), hệ tầng Bạch Hồ (trũng Cửu Long) và hệ
tầng Dừa (trũng Nam Côn Sơn). Mặt cắt chủ yếu bao gồm sét kết và các kết
tớng tam giác châu (trầm tích biển châu thổ).
Trầm tích Mioxen giữa đợc đặc trng bởi phần dới là các tập sét và
chuyển lên trên là cát kết xen kẽ với sét kết và bột kết thuộc tờng biển nông.
Kết thúc mặt cắt là cãc trầm tích tờng biển lùi, tam giác châu. Chúng đợc
phân chia ra các hệ tầng : Phú Cừ (miền võng Hà Nội), Côn Sơn (trũng Cửu
Long), Thông và Mãng Cầu (trũng Nam Côn Sơn).
Trầm tích tuổi Mioxen muộn phát triển rất rộng rãi trong các trũng
Kainozoi vùng biển Việt Nam, bao gồm hệ tầng Tiên Hng (miền võng Hà
Nội), hệ tầng Đồng Nai (trũng Cửu Long) và hệ tầng Nam Côn Sơn (trũng

Nam Côn Sơn). Hệ tầng Tiên Hng đặc trng bằng trầm tích châu thổ chứa
than, trong khi đó hệ tầng Đồng Nai chủ yếu là các trầm tích biển, còn hệ tầng
Nam Côn Sơn lại gồm các thành tạo đá vôi, sét vôi ở phần trung tâm và cát
gắn kết yếu ở phần rìa.
Các thành tạo tuổi Plioxen phát triển rất rộng rãi trong phạm vi các bồn
trũng thềm lục địa và các đồng bằng ven biển sông Hồng và Cửu Long. Chúng
chủ yếu là các trầm tích biển.
Trên phạm vi trũng Nam Côn Sơn và trũng Cửu Long phân bố rộng rãi
các trầm tích biển tuổi Plioxen (hệ tầng Biển Đông) gồm sét, bột, cát.
Các trầm tích Đệ tứ phân bố hết sức rộng rãi trên phạm vi thềm lục địa,
các quần đảo Trờng Sa và Hoàng Sa và lòng chảo nớc sâu Biển Đông,
nhng mức độ nghiên cứu còn thấp và không đều.
Trên phạm vi thềm lục địa đông nam, các trầm tích Đệ tứ có chiều dày
đáng kể, đạt tới 600m ở trũng Nam Côn Sơn và 250m ở trũng Cửu Long (Võ
Dơng, Nguyễn Văn Đức, 1982), Lê Văn Cự (1986) đã chia ra các phân vị :

39

hệ tầng Định An tuổi Plioxen - Pleistoxen sớm, hệ tầng U Minh tuổi
Pleistoxen giữa, hệ tầng Đồng Tháp tuổi Pleistoxen giữa muội và hệ tầng Hậu
Giang tuổi Holoxen. Trên phạm vi một số vùng của thềm lục địa Việt Nam đã
phát hiện các trầm tích Pleistoxen lộ ngay trên bề mặt đáy biển.
Các quần đảo Trờng Sa và Hoàng Sa cấu tạo bởi san hô, mảnh vụn
sinh vật và đá bazan. ở quần đảo Trờng Sa mới biết đợc phần trên cùng
của mặt cắt có tuổi Pleistoxen muộn - Holoxen (Đỗ Tuyết, 1978). Còn ở quần
đảo Hoàng Sa đã xác định đợc các thành tạo từ Pleistoxen dới đến Holoxen
trên (Trần Tuấn Nhân, 1978). Tuổi các phân vị này đợc xác định khá tốt
nhờ các di tích hoá thạch phong phú.
Một trong những thành tạo địa chất quan trọng của Kainozoi là phun
trào bazan, phân bố trên vùng duyên hải Trung Bộ và trên thềm lục địa kế cận

(đảo Cồn Cỏ, cù lao Ré, đảo Tro, cù lao Thu ). Một số diện phân bố bazan
trên bề mặt đáy biển thềm lục địa đợc khoanh định đa vào các dị thờng
kiến trúc trên các mặt cắt địa chấn.
Đá bazan này thờng là các loại bazan olivin, bazan olivin kiềm, dolerit
olivin kiềm, ít hơn là bazan trachyt, bazanit, thờng có màu xanh, xám xanh,
xám nâu nhạt, cấu tạo đặc xít và bọt lỗ rỗng xen kẽ lẫn nhau. ở các khu vực
phân bố các đá bazan này thờng còn thấy bảo tồn tốt các kiến trúc núi lửa
phễu, miệng, họng núi lửa với các thành tạo đặc trng cho tớng bùng nổ nh
bom, dăm núi lửa, bọt núi lửa xen lẫn trong các dòng dung nham . Một đặc
điểm khác dễ nhận thấy của các bazan olivin tuổi này là kiến trúc nứt khối
dạng cột lăng trụ điển hình.
Thành phần khoáng vật chủ yếu của các đá bazan này (tuổi Q
II, IV
) gồm
có plagioclaz từ 10 đến 50-60%, olivin từ vài phần trăm đến 60-70%, trung
bình từ 15-30%, qugit từ vài đến 15-20%, thờng có nền vi tỉnh hoặc thuỷ
tỉnh. Đặc biệt trong các đá bazan kiềm cao và á kiềm gặp các bảo thể đá siêu
bazic có thành phần chủ yếu là peridotit, thứ đều là dunit trong các bazan trên
rìa lục địa, và lerzolit- spinel, thứ đều là pyroxenit trong các bazan trên thềm
lục địa. Kích thớc trung bình của các bao thể đạt vài cemtimét, lớn nhất đạt
tới 40cm nh ở đảo Tro. Thành phần hoá học nhìn chung so với các đá bazan
tuổi N-Q
1
có hàm lợng SiO
2
và Al
2
O
3
thấp hơn, còn TiO

2
, MgO, CaO và tổng
kiềm cao hơn. Về mặt trật tự thời gian thì hoạt động phun trào bazan ở rìa lục
địa đã kết thúc vào khoảng đầu Holoxen, trong khi đó các hoạt động núi lửa

40

bazan ở thềm lục địa đặc biệt là phần phía nam còn tiếp tục cho tới hiện đại.
Trầm tích tầng mặt đáy biển
Trầm tích tầng mặt đáy biển Việt Nam bao gồm các kiểu chủ yếu là :
tảng, cuội sỏi, cát, cát chứa bùn, sét, cát vỏ sò ốc và kiểu không xác định(theo
nguyên tắc phân loại của Polk R.L.) (hình 6).
Các trầm tích tảng thờng gặp ở các chân đảo, các mũi nhô đá gốc và
một số nơi trên bề mặt đáy biển : ở ngoài khơi Vũng Tàu ở độ sâu nớc 30m,
ở vùng biển Khánh Hoà, vùng Hòn Lớn Nha Trang và trong vùng biển Ninh
Thuận - Minh Hải.
ở thềm lục địa phía bắc (vịnh Bắc Bộ và bắc Trung Bộ), tảng chỉ gặp rải
rác ở những nơi địa hình đặc biệt nh vùng cửa sông, eo biển và giữa các chân
đảo (cửa sông Hà Cối, eo biển Cửa Đại, vùng Tiên Yên, Trà Cổ, Đầm Hà ).
Nếu trong thành phần của các tảng ở phía nam giàu cacbonat và đá vôi thì ở
phía bắc tảng lại có thành phần chủ yếu là đá phun trào axits, cát kết, cát bột
kết giàu silic; độ mài tròn và hình dạng, kích thớc của đá tảng ở phía bắc
cũng khác biệt so với phía nam.
Nhìn chung, trên bề mặt thềm lục địa Việt Nam, tảng chỉ có mặt ở
những nơi có địa hình phức tạp, đặc biệt chúng thờng ở gần hoặc ngay trong
các điểm lộ đá.
ở phần phía nam, cuội sỏi gặp ở những nơi có địa hình phức tạp, ven
bờ, chân đảo và gần nơi có điểm lộ đá gốc. Theo thành phần chúng là các đá
giàu cacbonat, đá vôi. Sự có mặt của kiểu trầm tích này trớc đây đã đợc
nhiều tác giả xác nhận và sau đó Phạm Văn Thơm (1980) đã mô tả chi tiết.

ở phần phía bắc, trầm tích cuội sỏi có mặt rải rác ở các vùng ven bờ,
cửa sông, có biển và giữa các đảo. Cuội sỏi ở đây tơng đối đồng đều về kích
thớc (cửa sông Hà Cối).
Trầm tích cát chiếm hầu hết diện tích bề mặt đáy biển thềm lục địa phía
nam Việt Nam, trong khi đó ở vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan, cát chỉ có diện
phân bố không đáng kể so với các kiểu trầm tích khác.
ở vùng biển phía nam, trầm tích cát phân bố thành một đới dài từ Cà
Ná mở rộng về phía nam. Có thể phân chia chi tiết các loại cát lớn, cát trung
và cát nhỏ. Loại cát lớn và cát trung chỉ chiếm một diện nhỏ hẹp và tạo thành
một dải cát bờ Phan Thiết - Hàm Tân và vùng Bạc Liêu, chúng chủ yếu có

41

thành phần là thạch anh, fenspat, chứa rất ít hoặc không có mảnh xác sinh
vật, độ chọn lọc và mài mòn tơng đối tốt.
Cát nhỏ là kiểu trầm tích u thế trong vùng. Theo thành phần có thể
phân ra hai khu vực khác nhau rõ rệt với ranh giới nằm ngang vĩ tuyến Vũng
Tàu. ở khu bắc Vũng Tàu trong thành phần cát nhỏ lợng cacbonat đạt trên
10%, đôi khi đến 30%. Trong khi đó ở khu nam Vũng Tàu, cát có hàm lợng
cacbonat ít hơn rõ rệt (5 - 10%) và độ chọn lọc tốt hơn nhiều. Nhìn chung, cát
nhỏ có màu xám vàng, hầu nh không chứa hoặc có chứa rất ít bùn cát. Trong
thành phần vật chất, có các vỏ xác sinh vật, chủ yếu là các loại thân mềm
(Mollusca), một ít Foraminifera và Diatomea. Thành phần chính của phần vô
cơ là thạch anh trong suốt (70 - 80%), fenspat và các màng đá khác (5-10%).
Các khoáng vật nặng nh inmenit, magnetit, zircon và muscovít có hàm lợng
rất thấp (Trịnh Thế Hiếu, 1981).
ở phần phía bắc (chủ yếu là ở trong vịnh Bắc Bộ), cát có diện phân bố
hẹp và thờng tạo thành các đới ở trung tâm vịnh và bao quanh vùng tây nam
đảo Hải Nam. Nhìn chung, cát ở đây có thành phần chủ yếu là thạch anh và
fenspat. Chủ yếu là cát lớn - cát trung hoặc cát lớn lẫn cát trung. Màu sắc của

cát so với phần phía nam cũng khác biệt, màu chủ yếu là vàng hơi nâu đến hơi
đỏ, có lẽ do nguồn tiếp vật liệu chính là laterit.
Trong vịnh Thái Lan, các trầm tích cát tạo thành hai diện nhỏ: một ở
phía đông đảo Phú Quốc và một ở phía tây nam ngoài khơi đảo này. Về kích
thớc chúng thuộc loại cát lớn (gần đảo Phú Quốc), cát trung (ngoài khơi tây
nam đảo Phú Quốc) cả hai loại cát này đều có màu hơi nâu.
Trên thềm lục địa Việt Nam, kiểu trầm tích cát chứa bùn đợc vạch
định tơng đối tốt ở phía bắc, rất khó ở phía nam. Trong vịnh Bắc Bộ, cát chứa
bùn có mặt ở trung tâm tạo thành một dải dạng elíp lớn bao quanh dải cát lớn -
trung Bạch Long Vĩ. Ngoài ra còn ba dải khác : một dải ngoài khơi biển
Thanh Hoá, dải thứ hai chạy sát bờ biển từ Nghệ An vào Quảng Nam, dải
khác chạy ôm theo đới cát lớn phía tây nam đảo Hải Nam.
Trong thành phần kiểu trầm tích này, tỉ lệ cát/bùn là 2/1, lợng sinh vật
trung bình chiếm khoảng 10-20%, màu sắc thay đổi theo khu vực địa lý từ
xám xanh (vịnh Bắc Bộ) chuyển sang xám vàng (ven bờ Quảng Nam-Đà
Nẵng).
Trầm tích bùn chứa cát phân bố rất hạn chế ở phía bắc cũng nh phía

42

nam thềm lục địa. ở vịnh Bắc Bộ kiểu trầm tích này tạo thành một lỡi nhỏ từ
phía nam Hải Phòng vơn xuống phía nam và một vài diện nhỏ ở trung tâm
vịnh Bắc Bộ. ở miền Trung, kiểu trầm tích này tạo thành một dải chạy sát bờ
từ Đà Nẵng vào đến Nha Trang - Khánh Hoà.
ở thềm lục địa phía nam rất khó phân biệt diện tích riêng của bùn chứa
cát hoặc cát chứa bùn. Chỉ ở ngoài khơi trớc cửa sông Tiền, sông Hậu bùn
chứa cát tạo thành một diện tích hẹp. Trong thành phần kiểu trầm tích này, tỉ
lệ giữa bùn/cát là 3/1. Loại này có màu vàng phớt nâu, đây có thể là vật liệu
phong hoá từ các mũi nhô và từ bờ đa ra.
Bùn-cát là kiểu trầm tích có tỉ lệ bùn/cát xấp xỉ 1/1. Kiểu này ít phổ

biến trên bề mặt đáy thềm lục địa Việt Nam. Trong phạm vi phần phía nam
chúng chỉ có mặt ngoài khơi xa với diện phân bố không lớn với lợng mảnh
xác sinh vật thờng tơng đối cao (20 - 30%), màu sắc chủ yếu là xám xanh
hơi nâu vàng.
Cát chứa bùn sét có màu xám xanh, độ chọn lọc trung bình, độ ớt cao.
Tỉ số cát/bùn sét gần 1/1 kiểu này tạo thành một dải hẹp ngoài khơi từ Phan
Thiết xuống phía nam, ranh giới trong tiếp giáp cới vùng cát nhỏ rộng lớn của
phần phía nam thềm lục địa Việt Nam, phía ngoài là ranh giới của kiểu trầm
tích sét biển khơi Biển Đông. Ranh giới trong của kiểu trầm tích cát chứa
bùn sét gần trùng với đờng đẳng sâu 200m.
Bùn sét và sét bùn kiểu trầm tích này về thành phần tơng đối giống
nhau. Tuỳ thuộc vào tỉ lệ cấp hạt lớn hơn 0.005mm và nhỏ hơn 0.005 mm để
phân ra bùn sét hay sét bùn (hàm lợng cấp hạt 0.05 - 0,005mm nhiều là bùn
sét ; 0.005 - 0,001 nhiều là sét bùn).
ở thềm lục địa phía bắc, bùn sét và sét bùn có màu xám xanh chứa
mảng xác sinh vật chiếm hầu hết diện tích bề mặt đáy biển và có xu thế vơn
xuống phía nam với diện phân bố càng thu hẹp lại.
Điểm đặc biệt là dải sét bùn tiền delta (avandelta) của hệ thống sông
Hồng và của hệ thống sông Mê Kông có bề rộng và sự phân bố gần tơng tự
nhau (ranh giới ngoài ở độ sâu 20 - 22m).
ở phần phía nam, các kiểu trầm tích bùn sét và sét bùn chiếm diện tích
phân bố rất nhỏ, trừ một hố và rãnh sâu ở vùng biển khơi Ninh Thuận - Minh
Hải. Bắt đầu từ Vũng Tàu chạy gần song song với đờng bờ biển Nam Bộ ranh

43

giới ngoài của dải bùn sét này gần trùng với đờng đẳng sâu 20-22m. Đây là
kiểu trầm tích tiền delta điển hình. Càng xuống phía nam bùn sét và sét bùn
mở rộng dần diện phân bố, đặc biệt là bùn sét.
Trong vịnh Thái Lan, khoảng 4/5 bề mặt đáy biển đợc phủ bởi trầm

tích mịn là bùn sét và sét bùn (Emery, Niimo). Nếu so sánh giữa bùn sét và sét
bùn trên toàn bộ bề mặt đáy biển Việt Nam thấy rằng phía bắc (vịnh Bắc Bộ)
và trong vịnh Thái Lan lợng mảnh xác sinh vật nhiều hơn ở ven bờ thềm lục
d địa phía nam. Về màu sắc, kiểu trầm tích này có màu gần tơng tự nhau là
xám xanh hoặc xám xanh hơi đen. Còn ở dải avandelta sông Mê Kông và
Đồng Nai màu xám hơi vàng. Về cấp hạt, trầm tích trong vịnh Thái Lan mịn
hơn trong vịnh Bắc Bộ.
Sét là kiểu trầm tích có kích thớc hạt nhỏ nhất, đồng thời là kiểu trầm
tích chủ yếu của đáy biển khơi thềm lục địa Việt Nam. Chúng có màu xám
hơi nâu vàng, phớt đỏ, lợng mảnh xác sinh vật rất ít (khoảng 5-7%)., thành
phần chủ yếu là các khoáng vật sét.
Ngoài các kiểu trầm tích đợc trình bày ở trên, trong phạm vi tầng mặt
đáy thềm lục địa Việt Nam còn có một số kiểu trầm tích mà diện phân bố của
chúng hoặc rất hẹp hoặc chỉ là các vệt lẫn trong vùng phân bố của các kiểu
trầm tích khác. Đó là: cát vỏ sò ốc (Trịnh Thế Hiếu, 1981), đá trầm tích Đệ
tam (Phạm Văn Thơm, 1985) và kiểu không xác định (Nguyễn Hữu Sửu,
1990).
Cát vỏ sò ốc tạo thành từ vỏ sò ốc vỡ vụn, hàm lợng cacbonat khá cao
(50-79%), gặp ở khu vực phía bắc vịnh Phan Thiết và ngoài khơi Phan Rang.
Trầm tích có thành phần không xác định chủ yếu là các mảng đá, mảng
san hô, sò ốc hỗn hợp, đặc biệt lợng cacbonát khá cao, kích thớc hạt các vật
liệu thu đợc cũng rất hỗn hợp. Chính vì vậy mà chúng đợc phân thành một
kiểu trầm tích riêng biệt kiểu không xác định (Nguyễn Hữu Sửu, 1990). Đã
phát hiện chúng ở gần cù lao Thu, Hòn Tranh trong khu vực quần đảo Katvich
và gần quần đảo Hoàng Sa.
Ngoài ra, ở ngoài khơi vùng thềm lục địa nam Việt Nam ở độ sâu tơng
đối lớn đôi nơi gặp vết lộ đá trầm tích Đệ tam.




44



Hình 6 Sơ đồ mẫu trầm tích tầng mặt thềm lục địa Việt Nam
và vùng kế cận ( theo Nguyễn Hữu Sửu,1990)






45

Hình 7 Sơ đồ tân kiến tạo biển Việt Nam và các miền kế cận
(Theo Lê Duy Bách, Ngô Gia Thắng, 1990)
1. Đờng đẳng trị biến dạng tân kiến tạo trên lục địa 4. Đứt gẫy giới hạn các địa hào và rift
2. Đờng đẳng trị bề dày trầm tích Kainozoi vùng biển 5. Trục giãn đáy đại dơng đã tắt
3. Đứt gẫy không phân chia 6. Trục giãn đáy đại dơng dự kiến



46


2.1.2. Đặc điểm kiến tạo
Các kiến trúc kiến tạo chính
Theo cách phân vùng phối hợp giữa nguyên tắc truyền thống theo tuổi
uốn nếp kết thúc với quan điểm động lực mới về tiến hoá thạch quyển, bình đồ
kiến trúc hiện đại của Biển Đông và các vùng kế cận bao gồm các yếu tố kiến

trúc cơ bản là (hình 7).
1. Xecment Việt Nam của hệ uốn nếp Caledoni Việt - Trung.
2. Đới khâu kiến tạo Sông Hồng.
3. Hệ địa máng uốn nếp Việt - Lào.
4. Địa khối Indonesia.
5. Hệ địa máng uốn nếp Đà Lạt - Campuchia.
6. Khối Tiền Cambri Cardamon (Pursat).
Trải qua lịch sử tiến hoá lâu dài từ Tiền Cambri sớm đến nay, bình đồ
kiến trúc của thạch quyển lục địa Việt Nam và các miền kế cận đã ngày càng
phức tạp bởi các thế hệ kiến trúc chủng loại khác nhau, đợc nảy sinh trong
các kiến trúc sinh kế khác nhau. Careli, Baicali, Caledoni, Hecxini, Kimmeri
và Alpi. Căn cứ vào các đặc điểm cấu trúc và tiến hoá của các thế hệ kiến trúc
kể trên có thể phân chia chúng thành hai loại cơ bản : loại kiến trúc Tiền
Cambri và loại kiến trúc Phanerozoi.
Thềm lục địa Việt Nam có móng uốn nếp đa sinh, hợp thành từ các kiến
trúc uốn nếp có tuổi sinh thành khác nhau từ Proterozoi đến cuối Trias. Cấu
trúc của móng uốn nếp này có đặc tính khối khảm rõ rệt, đợc phản ánh ngay
trong bình đồ cấu trúc của loại kiến trúc Kainozoi nằm chồng phía trên. Quá
trình hình thành các kiến trúc sau địa máng thuộc các chủng loại khác nhau ở
mỗi đới kiến trúc uốn nếp cụ thể đã bắt đầu vào các thời điểm khác nhau. Với
các tài liệu hiện có, có thể ghi nhận những pha kịch phát vào đầu Mesozoi,
vào đầu Jura và vào cuối Creta-Pleogen.
Bức tranh toàn cảnh của cấu trúc Kainozoi thềm lục địa Việt Nam đợc
phản ánh trong hình hài các đờng đồng bề dày trầm tích Kainozoi, có thể
hình dung là một chuỗi các bồn trũng có qui mô khác nhau và định hớng
khác nhau trải trên móng uốn nếp đa sinh và khuôn lấy bờ biển hình chữ "S'

47

của Việt Nam, chuỗi bồn trũng này bị cắt đôi thành hai phần bởi đới khâu

kiến tạo kế thừa Sông Hồng đợc thể hiện trực tiếp trong phạm vi thềm lục
địa và oằn võng sâu vịnh Bắc Bộ phơng tây bắc - đông nam. Đến lợt mình,
các bồn trũng Kainozoi lại đợc ngăn cách bởi những kiến trúc nâng (hay sụt
tơng đối) có qui mô bé hơn nhiều và thờng chỉ là các kiến trúc rìa nhng lại
có cấu trúc nội tại rất phức tạp. Theo kết quả nghiên cứu hiện nay, các bồn
trũng kể trên tuy lệ thuộc các kiểu nguồn gốc khác nhau nhng cũng có chung
một cơ chế sinh thành là căng dãn và sụt lún,và dờng nh đều trải qua ba thời
kỳ phát triển : Paleogen, Mioxen và Plioxen - Đệ tứ. Sự phát triển của chúng
nằm trong mối tơng quan chặt chẽ với qúa trình phát triển của kiến trúc Biển
Đông kế cận.
Các kiến trúc Kainozoi của thềm lục địa đợc chia thành hai nhóm
chính với đới khâu kế thừa Sông Hông làm ranh giới, Nhóm kiến trúc thứ nhất
nằm kề phía đông bắc của đới khấu Sông Hồng. Cấu trúc nội tại của nó bao
gồm các bồn trũng Kainozoi có qui mô khác nhau là Tây Lôi Châu và Nam
Hải Nam. Các bồn trũng kể trên thành tạo trên móng uốn nếp tuổi Paleogen bị
lún chìm của miền uốn nếp Katazia đã bị cải biến mạnh bởi các hoạt động hồi
sinh macma - kiến tạo Mecozoi.
Trên phạm vi thềm lục địa đới khâu Sông Hồng thể hiện là một oằn
võng bù trừ sâu đợc giới hạn bởi các đới đứt gãy sâu có phơng tây bắc -
đông nam và chuyển dần về phơng kinh tuyến thềm lục địa miền Trung. Cho
đến nay vấn đề cấu trúc nội tại của oằn võng sâu này vẫn cha đợc sáng tỏ.
Căn cứ vào các tài liệu địa vật lý (địa chấn và trọng lực) có thể dự đoán bề dày
các trầm tích Kainozoi ở đây đạt trên 12 km (có thể đến 14 km). Sự phân dị
kiến trúc theo đờng phơng cũng thể hiện khá đậm nét. Đây là một đối tợng
địa chất quan trọng của thềm lục địa Việt Nam nói chung.
Phía tây nam của đới khâu Sông Hồng là một dải thềm lục địa hẹp
thuộc phần rìa phía tây của vịnh Bắc Bộ. Trên hầu hết diện tích dải này có
biểu hiện các đơn nghiêng sụt lún với biên độ đạt đến 6-7km. Nằm kề sát phía
nam của dải này là bốn trũng Phú Khánh chủ yếu có phơng kinh tuyến. Cấu
trúc nội tại của bồn này bao gồm các trũng hẹp có chiếu sâu đến 5-6km. Có

những trũng kéo dài sang phạm vi sờn lục địa và bị chắn phía đông bởi đới
đứt gãy kinh tuyến Hai Nam- eo biển Sunda. ở phía nam, bồn trũng Phú
Khánh tiếp giáp với đớt sụt tơng đối Phan Rang đồng thời cũng là hội điểm

48

phía bắc của các bồn trũng lớn Cửu Long (Vũng Tàu) và Nam Côn Sơn. Bồn
trũng Cửu Long có phơng đông bắc và cấu tạo phức tạp với nhiều hệ thống
đứt gãy khác phơng. Bề dày trầm tích ở đây đạt đến 8km. Dải nâng Côn Sơn
đóng vai trò ranh giới của hai trũng Cửu Long và Nam Côn Sơn. Bồn trũng
Nam Côn Sơn chiếm diện tích rộng lớn phía đông và nam dải nâng Côn Sơn.
Cấu trúc của nó bao gồm một số các trũng bậc cao đợc giới hạn chủ yếu
bằng các đứt gãy phơng kinh tuyến và đông gắc - tây nam. Biên độ sụt lún ở
đây đạt cực đại hơn 10 km. Về phía đông, một sống lồi rìa ngăn cách bồn
trũng Nam Côn Sơn với kiến trúc lòng chảo nớc sâu Biển Đông. Về phía nam
bồn trũng Nam Côn Sơn chia thành hai nhánh đới nâng Natuma. Nhánh phía
tây kéo dài và bồn trũng tây Natuna. Còn nhánh phía đông tiếp tục kéo xuống
phía nam và nhập vào bồn trũng Kainozoi khổng lồ Sarawan.
Càng đi về phía nam thì thềm lục địa Việt Nam càng mở rộng và hoà
vào các thềm lục địa Sunda. Nh đã biết, kiến trúc cơ bản của thềm lục địa
này là những bồn trũng Kainozoi rộng đợc lấp đầy các trầm tích có bề dày
lớn (từ 4-5 đến 9-10 km) với tiềm năng lớn về tích tụ dầu khí trong sự thành
tạo đa số các bồn trũng dẫn đầu là các đứt gãy của móng. Điều đó nói lên bản
chất rift của chúng.
Trong phạm vi vịnh Thái Lan phân chia đợc hai vòng nguồn rift :
Pattani phơng kinh tuyến và Malay phơng tây bắc - đông nam. Võng Malay
phơng tây băc - đông nam. Võng Malay phân cách với rìa nam của thềm lục
địa tây Biển Đông bởi một yên ngựa. Rìa nam này uốn thành vòng cung lồi về
phía nam và có biên độ sụt lún đến 4-5 km. Trong cấu trúc của hệ thống giáp
nối này có các trũng Peniu và Tây Natuna. Về phía bắc hệ thống này kề với

vùng nớc nông của thềm lục địa Việt Nam có chiều dày trầm tích Kainozoi
bé (tối đa đến 2 km) và có điểm lác đác các hòn đảo nhỏ thuộc phạm vi thềm
lục địa Sunda (trong văn liệu hiện nay thờng gọi là đới nâng Korat).
Về phía đông thềm lục địa Việt Nam tiếp giáp với biển với biển rìa
Đông Việt Nam qua một đới khâu kiến tạo khổng lồ, thể hiện là một đới phá
huỷ kiến tạo bao gồm các hệ thống đứt gãy chủ yếu có phơng kinh tuyến
nhng có đặc tính cấu trúc và hình động học khác nhau. Đới khâu này trải dài
theo dải kinh tuyến 109 - 110
0
, bắt đầu từ phía nam của địa khối Tiền Cambrri
Nam Hải qua suốt sờn lục địa phía đông nớc ta và kéo xuống phía nam dọc
mạn sờn phía tây đảo Kalinantan đến eo biển Sunda ngân cách các đảo

49

Sumatra và Java của Indonesia. Trên bình đồ đới khâu này phân cắt rõ rệt cả
các kiến trúc kiểu lục địa lẫn các kiến trúc kiểu đại dơng. Điều đó nói lên
bản chất nguồn sâu của nó.
Mô hình phân vùng kiến tạo của vực đáy Biển Đông bao gồm các yếu tố
kiến trúc chủ yếu sau :
1. Lòng chảo nớc sâu với vỏ đại dơng mà trên đó đã bắt đầu hình thành vỏ
phủ trầm tích từ Kainozoi với bề dày tầng cao.
2. Các khối bị lún chìm có vỏ lục địa tuổi Paleozoi Trờng Sa (Spratly -
Reed) và Hoàng Sa (Paracel-Macclefield) đang bị huỷ hoại và tách dãn
cùng với việc thành tạo các hệ tầng Kainozoi có bề dày phân dị lớn.
3. Hệ thống bờ của biển rìa bao gồm các võng rìa sâu và vàch kiến tạo trong
phạm vi sờn lục địa.
Các kiểu kiến trúc kể trên hợp thành một loại kiến trúc thống nhất kiểu
huỷ hoại - gây dựng (destruction- construction) rất đặc trng cho các miền
động kiểu địa máng rìa lục địa.

Lòng chảo nớc sâu Biển Đông trên bình đồ lòng chảo nớc sâu trung
tâm Biển Đông có dạng một địa hào, thu hẹp lại trên hớng tây nam giữa hai
khối vỏ lục địa lún chìm Hoàng Sa và Trờng Sa. ở phía tây nam tiếp cận với
sờn lục địa, kiến trúc này bị cắt ngang bởi đứt gãy kinh tuyến Hải Nam - eo
biển Sunda. Lòng chảo nớc sâu Biển Đông ngăn cách với biển Sulu bởi tiểu
lục địa Palawan-Mindoro, tiểu lục địa này tiếp tục kéo dài về phía tây nam
bằng cung đảo Plawan-Sabah. ở phía bắc lòng chảo này tiếp giáp với thềm lục
địa Nam Trung Quốc qua đới đứt gãy có phơng á vĩ tuyến với các địa hào
hẹp kèm theo. Trong các địa hào này có mặt các thành tạo macma mafic và
các hệ tầng trầm tích Kainozoi khá dày.
Vỏ Trái đất của lòng chảo nớc sâu Biển Đông thuộc kiểu đại dơng
với chiều dày 4 - 8km và bề mặt Moho nằm ở độ sâu 8 - 12km tơng ứng.
Phần phía đông rộng nhất của lòng chảo này là nơi đợc nghiên cứu chi tiết
nhất. ở đây các dị thờng từ mang tính chất tuyến đối xứng với phơng á kinh
tuyến. Theo các dị thờng từ này nhận biết đợc pha dãn đáy biển mạnh nhất
diễn ra vào khoảng 32 đến 17 triệu năm về trớc với tốc độ là 2,5cm một năm.
Bề dày của vỏ phủ trầm tích ở đây tăng dần từ trục dãn đáy về phía các bờ đặc
biệt là về phía bờ bắc và dao động trong khoảng 0,2 đến 2km.

50

Các khối tảng có vỏ lục địa bị lún chìm phần lớn của diện tích Biển
Đông thuộc về các kiến trúc khá đặc thù, về phía đông bắc là kiến trúc Hoàng
Sa, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và cồn nổi Macclefield và các phần kéo dài
dới nớc của chúng về phía tây nam, còn về phía nam là kiến trúc Trờng Sa
bao gồm quần đảo Trờng Sa và cổn nổi Reed.
Khối Hoàng Sa theo một số tài liệu mới thì móng của các đảo Hoàng Sa
đợc cấu tạo từ đá biến chất Tiền Cambri và các hệ tầng phun trào - trầm tích
bị biến chất tuổi Paleozoi-Mesozoi. Vào giai đoạn trớc Neogen, móng này bị
nâng lên cao trên mặt biển đợc chứng minh bằng việc phát hiện vỏ phong

hoá (dày đến 20m) có chứa bào tử và phấn hoa gốc lục địa. Sự lún chìm của
khối này bắt đầu vào Oligoexen muộn - Mioxen và sau đó thành tạo các hệ
tầng đá vôi ám tiêu Mioxen-Plioxen dày đến 1.000m. Với những dao động
nhất định, khuynh hớng sự lún của khối Hoàng Sa tiếp tục kéo sang
Pleistoxen, điều đợc ghi nhận bởi các ám tiêu san hô dày đến 200-260m.
Quan sát đợc các biểu hiện phun trào bazan tập trung trong hai pha
Pléitoxen sớm và muộn.
Các tài liệu địa vật lý cho thấy phần lớn vùng quần đảo Hoàng Sa bị che
phủ bởi các trầm tích Kainozoi có chiều dày đáng kể, đôi nơi đến trên 4 km
(phía nam đảo Tri Tôn). Hình dáng các đờng đồng bể dày phản ánh khá nổi
bật cấu trúc khối tảng của móng quần đảo. Cấu trúc khối tảng này bị phân cắt
bởi các đới đứt gãy chủ yếu có phơng đông bắc và tây bắc. Theo các tuyến
đứt gãy phơng đông bắc ghi nhận đợc các đới địa hào - rift hẹp có các biểu
hiện macma mafic và có chiều dày trầm tích Kainozoi không lớn. Chính bằng
các kiến trúc này mà khối Hoàng Sa thoạt đầu tách khỏi rìa thềm lục địa Nam
Hai Nam và sau đó thì cồn nổi Macclesficld tách khỏi chính khối tảng Hoàng
Sa.
Khối Hoàng Sa ngăn cách với sờn lục địa bằng các kiến trúc oằn võng
địa hào có phơng đông bắc. Kiến trúc này trải dọc phía bắc Hoàng Sa và có
dạng sút lún không đều với biên độ tăng dần về phía sờn lục địa và đặt xấp
xỉ 4.000m.
ở cánh đông nam và nam, khối Hoàng Sa tiếp giáp với trũng nớc sâu
Biển Đông bằng một hệ thống các nếp oằn bị đứt gãy làm phức tạp thêm kiến
trúc.
Khối Trờng Sa trong phạm vi kiến trúc có vỏ lục địa thoái hoá Trờng

51

Sa, ở phần tây nam của cồn nổi Reed đã khoan thấy trầm tích lục địa tuổi
Mesozoi (Creta) bị chìm dới các trầm tích Kainozoi ở độ sâu hơn 5.000m.

Các hệ tầng Kainozoi bắt đầu bằng các trầm tích Paleoxen thợng tớng biển
nông, sau đó tiếp tục một hệ tầng dày các trầm tích Eoxen biển sâu. Sau một
gián đoạn trầm tích ngắn, từ Eoxen đến giữa Oligoxen muộn tiếp tục trầm
đọng các hệ tầng tớng ven biển, cuối cùng phủ trên các hệ tầng vừa mô tả với
gián đoạn là các hệ tầng đá vôi ám tiêu (dày đến 2.000m) tuổi Oligoxen muộn
- Đệ tứ.
Các tài liệu địa vật lý hiện có thờng cho một khái niệm về móng âm
học (mà không phải lúc nào cũng rõ về bản chất địa chất) các trầm tích trớc
biến dạng và sau biến dạng. Hiện đang tồn tại nhiều giả thiết khác nhau về
tuổi của các trầm tích này. Phần đông đều nghiêng về lập luận cho rằng các
trầm tích (dù trớc hay sau biến dạng) chủ yếu có tuổi Kainozoi. Theo hình
thái và đặc điểm kiến trúc của địa hình đáy, có thể xác định đợc nhiều yếu
tố kiến trúc phá huỷ đứt gãy có phơng khác nhau. Bề dày trầm tích Kainozoi
trong phạm vi của khối này nhiều nơi đạt trị số lớn. Có thể phân chia đợc
một số trũng qui mô khác nhau và định hớng cũng khác nhau : trũng bãi Suối
Ngà (bề dày trầm tích đến 6.000m), các bồn trũng Nam Yết, Bình Nguyên,
Kỷ Vân (đều có bề dày trầm tích trên 5.000m) Nhìn chung, bề dài trầm
tích giảm theo chiều tăng dần của độ sâu đáy biển. Theo kết quả khoan nêu ở
trên thì rõ ràng là thời gian sụt hạ của vùng này đã xảy ra vào khoảng cuối
Paleoxen. Đặc điểm này chứng tỏ khối Trờng Sa đang trải qua sự lún chìm
phân dị. Toàn bộ sờn phía nam và đông nam của khối này tiếp giáp với kiến
trúc oằn võng sâu kiểu địa hào - hẻm vực biển Palawan và phần kéo dài của nó
về phía đông bắc. Hẻm vực biển này đóng vai trò giới hạn giữa khối Trờng
Sa và vách kiến tạo trong phạm vi sờn lục địa bắc Kalimantan.
Nếu so với khối Hoàng Sa thì địa hình kiến tạo khối Trờng Sa có mức
độ phân dị cao hơn nhiều. Điều đó phản ánh sự dịch chuyển các khối móng
theo các phơng khác nhau. Dờng nh trong lịch sử, khối Trờng Sa đã từng
có liên hệ về phía đông bắc với khối tiểu lục địa Palawan-Mindoro trợt
xuống một ít về phía nam.
Các tài liệu trình bày ở trên chứng tỏ rằng hai kiến trúc Hoàng Sa và

Trờng Sa khá giống nhau và phân biệt rất rõ với kiểu kiến trúc đại dơng
ngăn cách chúng - lòng chảo nớc sâu Biển Đông. Bản chất lục địa của các

52

kiến trúc này ngày càng đợc chứng minh bằng các tài liệu mới. Rất có thể
những khối kiến trúc Hoàng Sa và Trờng Sa đã từng là những hợp phần của
lục địa châu á, nằm ở vùng kết thúc phía đông của hệ thống địa máng uốn nếp
Việt- Lào. Chúng đã bị đập vỡ mạnh và biến dạng kiến trúc phân dị, rồi sau đó
bị lôi cuốn vào sụt lún trong qúa trình hình thành trũng nớc sâu Biển Đông.
Vị trí kiến trúc hiện nay của chúng đợc xác định bởi pha tách dẫn cuối cùng
của đáy biển này trong Kainozoi muộn.
Lòng chảo nớc sâu trung tâm Biển Đông và hai khối tảng có vỏ lục địa
bị lún chìm Hoàng Sa và Trờng Sa đợc phân cách với các thềm lục địa kế
cận bởi một kiểu kiến trúc khá độc đáo đợc đặt tên là "Hệ thống bờ của miền
nớc sâu Biển Đông".
Hệ thống bờ của miền nớc sâu Biển Đông có những yếu tố kiến trúc
chủ yếu là :
Sờn lục địa, trong đa số trờng hợp đợc thể hiện bằng vách kiến tạo
có kèm theo các kiểu phá huỷ khác nhau (đứt gãy hoặc nếp oằn có thể
nằm sâu).
Các oằn võng sâu bù trừ dạng địa hào thuộc nhiều kiểu nguồn gốc.
Vách kiến tạo trong phạm vi sờn lục địa là một kiểu kiến trúc ranh
giới mang đặc tính tổng hợp. Móng của kiến trúc này vẫn là thực thể của các
kiến trúc lục địa nằm kế cận, nhng các hoạt động tích đọng ở đây khá mạnh
và nhiều nơi đạt chiều dày khá lớn. Ranh giới trên của kiến trúc này đợc
vạch trong khoảng độ sâu từ 200 - 500m, còn ranh giới dới khá phức tạp
thờng nằm ở độ sâu từ 1.000 - 2.000m. Nhiều đoạn của kiến trúc thể hiện là
các đốt đứt gãy (nh vùng rìa ngoài thềm lục địa Quảng Ngãi - Bình Thuận)
kiểu các rìa động. Nhiều nơi chúng là sự ùn đống những nón phóng tích khổng

lồ.
Vách kiến tạo nhận biết đợc trong địa hình đáy biển thờng là nhờ
vào sự tăng dày các đờng cùng độ sâu ở các rìa thềm lục địa. Điều này trùng
với đới tăng cao gradient chiều dày trầm tích Kainozoi và tơng ứng nh vậy
với đới giảm ráo riết bề dày vỏ Trái đất chủ yếu do sự vát nhọn nhanh lớp
granít - biến chất.
Các oằn võng sâu bù trừ dạng địa hào ở phía bắc, nơi giáp với thềm lục
địa Nam Trung Quốc (kể cả Nam Hải Nam) vách kiến tạo này có kèm theo về

53

phía biển sâu một oằn võng khá rộng dạng địa hào phơng đông bắc đợc lấp
đầy bởi các trầm tích Kainozoi dày đến 6 km và có biển hiện các macma
mafic. Trên địa hình đáy biên oằn võng này thể hiện nh một "eo biển" với độ
sâu đến 2.000m.
Một kiến trúc khác cũng sâu nh vậy và đi kèm vách kiến tạo về phía
biển sâu đợc nhận định ở phía nam Biển Đông - ở đới khớp nối Trờng Sa
với thềm lục địa Kalimantan. Kiến trúc này đợc nhắc nhiều trong văn liệu
với tên gọi là "hẻm vực biên Palawan". Hẻm vực biển này hình thành trên một
đới benhop đã thôi hoạt động vào Mioxen muộn. Còn bản thân kiến trúc
Palawan đợc lấp đầy bởi các trầm tích Kainozoi khá dày đến 6km. Trên bình
đồ hẻm vực biển Palawan có dạng một oằn võng vát nhọn về phía đông bắc và
chuyển dạng thành đới đứt gãy đổ nghiêng dới đảo Palawan.
Một yếu tố kiến trúc nữa của các hệ thống của Biển Đông là oằn võng
dạng rift trớc thềm lục địa Đông Việt Nam có phơng á kinh tuyến trên bình
đồ kiến trúc có dạng vát nhọn ở phía bắc và mở rộng ở phía nam. Có thể oằn
võng nàylà phần kéo dài của đới rift lục địa Sông Hòng, hiện đã bị di chuyển
dọc theo đứt gãy kinh tuyến Hải Nam - eo biển Sunda. Những tài liệu hiện có
cha cho phép phân tích cặn kẽ cấu trúc nội tại của oằn võng này. Tuy vậycó
thể nêu ra một số nét cặn kẽ cấu trúc nội tại của oằn võng này. Tuy vậy có thể

nêu ra một số nét chính về kiến trúc của nó. Trên địa hình đáy biển, kiến trúc
này đợc thể hiện nh một bậc thang chuyển tiếp nhô cao ở phía bắc và
nghiêng nhẹ về phía nam, tức về phía lòng chảo nớc sâu. Bậc thang này cắt
qua các kiến trúc trẻ khác, điều đợc phản ánh rõ trong sự phân bố bề dày các
trầm tích Kainozoi, đạt cực đại đến 6km ở cận với vách kiến tạo. ở phía nam,
vào khoảng vĩ tuyến Vũng Tàu, kiến trúc oằn võng đang mô tả khớp nối với
đoạn cuối phía tây nam của lòng chảo của kiến trúc này có các dữ kiện nh
sau : thứ nhất là sự xuất hiện của núi lửa ngầm, trong số đó có biểu hiện cách
đây không lâu (Hòn Tro) trên lãnh thổ thềm lục địa Nam Trung Bộ, thứ hai là
tính hoạt động đất nâng cao rõ rệt với các chấn tiêu động đất nằm ở độ sâu 10
- 20km.
Đặc điểm biến dạng tân kiến tạo
Khái niệm biến dạng tân kiến tạo đợc đề cập ở đây bao hàm các nội
dung về các quy luật đặc thù của các chuyển động tân kiến tạo và các thế hệ
kiến trúc do những chuyển động này tạo ra, về các biểu hiện của chế độ địa

54

động lực của thạch quyển trong lịch sử hiện đại và ảnh hởng của chúng đến
các qúa trình địa chất bề mặt.
Các đặc điểm chủ yếu của tân kiến tạo Biển Đông Việt Nam nằm trong
mối quan hệ nguồn gốc khăng khít với các bối cảnh địa động lực đã từng tồn
tại trong lịch sử Kainozoi của toàn miền Đông Nam á. Bởi vậy, để xác lập
đợc các qui luật cơ bản về tân kiến tạo của lãnh thổ nớc ta, trớc tiên cần
dừng lại xem xét và tổng kết những quy luật về phát triển kiến tạo của lãnh
thổ Đông Nam á. Bởi vậy, để xác lập đợc các qui luật cơ bản về tân kiến tạo
của lãnh thổ nớc ta, trớc tiên cần dựng lại xem xét và tổng kết những quy
luật về phát triển kiến tạo của lãnh thổ Đông Nam á nói chung trong giai
đoạn tân kiến tạo.
Hiện nay những khuynh hớng cơ bản trong sự phát triển kiến tạo

Kainozoi của khu vực Đông Nam á đợc biết khá rõ. Mô hình biến dạng trẻ
tổng quát của thạch quyển Đông Nam á đặc trng bởi một loại các đặc điểm.
Một là, xác lập đợc một cách rõ rệt vai trò của tính kế thừa trong sự hình
thành bình đồ kiến trúc mới đợc thể hiện ở chỗ những chuyển động kiến tạo
trẻ nhìn chung kế thừa ở dạng khái quát những yếu tố lớn của kiến tạo và
đợc phản ánh một cách tơng phản bởi sự sụt võng của bề mặt Moho. Hai là,
đã và đang diễn ra qúa trình rift mạnh và rộng khắp trên phông chung của qúa
trình sinh nút lặp lại ở dạng các đới năng vòm khối tảng với biên độ vừa phải
bao quát hầu khắp các kiến trúc có vỏ lục địa cố kết sớm hơn. Nhờ đó đã xuất
hiện một tổ hợp các đới rift nội lục và các trờng bazan cộng sinh với chúng,
các lòng chảo nớc sâu biển ven cũng nh các tiểu lục địa ở rìa sau lng các
hệ thống cung đảo và trên các rìa của các khối tảng lục địa do kết quả của
hoạt động sâu trên phông chung của phát triển ngày càng mạnh qúa trình địa
máng ở đới chuyển tiếp từ đại lục Âu-á đến các đại dơng. Ba là, diễn ra các
dịch chuyển qui mô lớn có định hớng khác nhau theo các đới Benhop và các
đứt gãy bằng có thể nằm sâu. Sự phối hợp hai dạng phá huỷ này đã xác định
việc tách biệt các miền kiến trúc tân kiến tạo có cấu trúc phân khối tảng và
chế độ kiến tạo riêng của mình.
Mô hình biến dạng này đã nảy sinh trong qúa trình tơng tác phức tạp
của ba mảng thạch quyển lớn Âu-á, Thái Bình Dơng và Indo-Australia, của
hai lục địa là châu á, châu úc và ba đại dơng - Tetis, ấn Độ Dơng và Thái

55

Bình Dơng. Bối cảnh địa động lực này đã quy định tính chất phức tạp lịch sử
hình thành và phát triển kiến trúc thạch quyển Đông Nam á hiện đại.
Những tổng kết vừa nêu trên cho toàn vùng Đông Nam á đã cung cấp
các nhận thức hết sức cơ bản và mang tính chất nguyên tắc về những quy luật
phát triển kiến trúc thạch quyển Việt Nam vào giai đoạn tân kiến tạo.
Kết quả những công trình nghiên cứu lập bản đồ kiến tạo Việt Nam đã

chứng tỏ rằng ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ đất nớc ta đều có các biểu hiện
của các chuyển động tân kiến tạo. Các biểu hiện này đã đợc lu lại trong các
thế hệ kiến trúc đa dạng và đợc phản ảnh trong địa hình hiện đại của hệ mặt
trái đất. Căn cứ vào những đặc điểm về đờng hớng phát triển cờng độ biểu
hiện và tính chất của các thực thể kiến trúc, có thể phân chia lãnh thổ thành
hai địa kiến trúc tân kiến tạo cơ bản : địa kiến trúc có vỏ trái đất kiểu lục địa
và địa kiến trúc có vỏ trái đất kiểu chuyển tiếp. Địa kiến trúc có vỏ trái đất
kiểu lục địa chiếm toàn bộ diện tích đất liền và thềm lục địa bao qanh. Còn địa
kiến trúc có vỏ trái đất kiểu chuyển tiếp thì ứng với lu vực Biển Đông ngoài
thềm lục địa, trong đó kể cả các vùng quần đảo Hoàng Sa và Trờng Sa (hình
3).
Hai địa kiến trúc kể trên khác nhau trớc tiên ở kiểu vỏ trái đất - lục địa
và chuyển tiếp, và các đặc điểm của chuyển động tân kiến tạo cũng nh đờng
hớng chung của sự phát triển. Biên độ biến dạng tổng quát theo chiều thẳng
đứng của lãnh thổ dạng xem xét đạt đến 13-17 km (kể cả nâng và sụt), với
biên độ nâng cực đại gần 3 km ở các công trình núi trên lục địa và biên độ sụt
lún cực đại hơn 14 km ở các bồn trũng thềm lục địa. Còn biên độ dịch chuyển
ngang thì dao động trong phạm vi rộng, từ vài km dọc theo các đứt gãy nghịch
chờm đến hàng chục và hàng trăm kilômét trong các đới rift và các đứt gãy
bằng lớn. thậm chí đến hàng nghìn km trong phạm vi lòng chảo nớc sâu Biển
Đông. Dạng cơ bản của biến dạng tân kiến tạo khu vực này là sự dịch chuyển
phân dị của khối tảng của móng đa sinh, đợc phản ánh tơng phản trong mô
hình sụt lún của mặt đáy vỏ trái đất (ranh giới Moho). Nhìn chung, những
chuyển động tân kiến tạo có khuynh hớng kế thừa bình đồ kiến trúc cổ hơn,
đồng thời chúng phản ánh cấu trúc phân lớp khối của vỏ địa cầu. Còn những
hình thái kiến trúc lớn (bậc thấp) lại phản ánh đờng hớng của các qúa trình
diễn ra trong lòng trái đất, nơi đã sản sinh ra các cơ chế của các chuyển động
kiến tạo.

56


Địa kiến trúc có vỏ trái đất kiểu lục địa bao gồm nhiều kiến trúc bậc
cao, phân biệt với nhau bởi những đặc điểm về đờng hớng phát triển chủ
đạo, cờng độ chuyển động tân kiến tạo, tính chất kiến trúc và sự phát triển
các thực thể địa chất móng. Những kiến trúc đợc phân chia cụ thể là : địa
khối kiểu nền Kon Tum, các đới sinh núi trẻ lặp lại trong phạm vi các miền
uốn nếp khác tuổi (Đông Bắc Việt Nam và Đà Lạt), đới khâu kế thừa Sông
Hồng, võng chồng Cửa Long và miền lún chìm thềm lục địa Việt Nam. Không
dừng lại ở việc trình bày chi tiết các đặc điểm biến dạng tân kiến tạo của các
kiểu kiến trúc kể trên, ở đây cần đặc biệt nhấn mạnh rằng : trong suốt giai
đoạn tân kiến tạo, phần lớn lãnh thổ phần lục địa của Việt Nam đã bị lôi cuốn
vào qúa trình sinh núi lập lại mạnh mẽ trên phông chung của một thế hệ kiến
trúc uốn nếp có phát triển vỏ trái đất kiểu lục địa trởng thành. Quá trình này
liên quan mật thiết về nguồn gốc với qúa trình huỷ hoại vỏ lục địa và nảy sinh
các kiến trúc kiểu đại dơng mới thuộc lu vực Biển Đông. Các thế hệ kiến
trúc tân kiến tạo đã xác định những đờng nét cơ bản của cấu trúc địa hình
hiện đại bề mặt trái ddất. Những đờng nét cơ bản này cần đợc hiểu là độ
tơng phản bề cao của địa hình và bình đồ kiến trúc hình thái.
Các đặc trng kiến trúc cơ bản của miền lún chìm thềm lục địa Việt
Nam đã đợc trình bày trong phần trên, ở đây chỉ dừng lại ở một số luận điểm
chủ yếu:
Hầu hết các kiến trúc tân kiến tạo của thềm lục địa Việt Nam đều đợc
tiền khởi bởi các hoạt động huỷ hoại kiểu nội lục tróc khi bắt đầu kiến
sinh tân kiến tạo. Các hoạt động này nằm trong thời kỳ cuối cùng của thời
đại hoạt hoá macma - kiến tạo Mesozoi muộn hết sức mạnh mẽ và bao quát
cả một lãnh thổ rộng lớn phía đông và đông nam đại lục châu á, dẫn đến
sự hình thành đai núi lửa - pluton rìa lục địa khổng lồ Đông á và cộng ứng
với nó là các hệ thống rift nội lục quy mô khác nhau.
Thời điểm khởi đầu giai đoạn tân kiến tạo ở Việt Nam đợc xác định vào
giữa Oligoxen. Mốc lịch sử này đã đợc xác định bởi hàng loạt các di chỉ

tàn d của bề mặt san bằng trên lục địa và các phức hệ vật chất - kiến trúc
cùng tuổi trong cấu trúc nội tại của các bồn trũng Kainozoi thềm lục địa.
Cơ chế động lực chỉ đạo trong hình thành các kiến trúc tân kiến tạo của
thềm lục địa Việt Nam là trợt bằng - tách dãn tổ hợp với trờng xoay theo

57

chiều kim đồng hồ dọc theo các đới phá huỷ sâu là đới khâu kiến tạo kế
thừa Sông Hồng, đớt đứt gãy kinh tuyến Hải Nam - eo biển Sunda và các
đới đứt gãy Mê Kông - vịnh Thái Lan. Cơ chế động lực này hoạt động cùng
nhịp thời gian với các cơ chế động lực ở miền địa kiến tạo tân kiến tạo có
vỏ kiểu chuyển tiếp Biển Đông.
Trên phạm vi địa kiến trúc có vỏ kiểu chuyển tiếp (vùng Biển Đông
ngoài thềm lục địa) đã và đang xảy ra các hoạt động kiến tạo có bản chất khác
với những hoạt động tân kiến tạo ở phạm vi địa kiến trúc có vỏ kiểu lục địa
vừa nêu ở trên. Các chuyển động tơng ứng với giai đoạn tân kiến tạo ở đây đã
góp phần đẩy nhanh những qúa trình động lực đã diễn ra trớc đó và thể hiện
rõ trong việc tăng cao tính tơng phản của địa hình đáy biển và phát triển
ngày càng rõ nét bình đồ kiến trúc hình thái khu vực với sự tham gia cơ bản
của các dịch chuyển ngang trong vỏ địa cầu. Nói cách khác, chế độ kiến tạo ở
đây đặc trng cho các miền động hiện đại , nơi đang diễn ra qúa trình hình
thành các kiến trúc kiểu đại dơng và huỷ hoại các kiến trúc kiểu lục địa.
Để kết thúc, cần đặc biệt nhận xét rằng trên bình đồ kiến trúc hiện đại
của Biển Đông Việt Nam và các miền kế cận, các hệ thống đứt gãy bằng lớn
thờng đóng vai trò độc lập. Chúng là các đứt gãy có thể nằm sâu và thờng
có tuổi khá cổ, đã trải qua nhiều lần hồi sinh, đặc biệt là trong giai đoạn tân
kiến tạo. Đi đôi với các hệ thống đứt gãy này là các kiến trúc kiểu rift đã đợc
hình thành trong suốt Kainozoi và đang ở trong các giai đoạn khác nhau trong
tiến hành phát triển của mình. Trong số các kiến trúc rift phân chia đợc một
số kiểu chính. Kiểu đầu tiên là các rift nội lục mà kiến trúc Sông Ba là một ví

dụ điển hình. Kiểu thứ hai phát triển ở rìa lục địa và thể hiện là các kiến trúc
địa hào thềm lục địa đợc lấp đầy bởi các hệ tầng Kainozoi có bề dầy lớn (6-
14km). Kiểu thứ ba là xuyên lục địa, có nhiều dải lớn và cấu trúc nội tại rất
phức tạp - rift Sông Hồng. Thuộc về kiểu thứ t là các kiến trúc tách dẫn xuất
hiện trong các thời kỳ đầu của qúa trình hình thành các kiến trúc đại dơng
trong phạm vi Biển Đông nằm ở phía ngoài thềm lục địa. Tính chất chung nhất
của các kiểu kiến trúc rift vừa nêu thể hiện chính ở sự thành tạo chúng trong
các điều kiện tách dẫn ngang có nguồn gốc sâu. Ngay trớc khi nảy sinhchúng
đã từng diễn ra biến hoạ Mesoqoi muộn mạnh mẽ, bao quát cả diện tích rộng
lớn của Việt Nam và Đông Nam á và các qúa trình tăng trởng vỏ lục địa
trong phạm vi các cung đảo và các rìa động của đại lục á châu. Mặt khác,

58

những kiến trúc tách dẫn này phản ánh xu thế tiến hoá của vỏ lục địa trong
qúa trình huỷ hoại, đã bắt đầu ở đây vào cuối Mesozoi - đầu Kainozoi và còn
tiếp tục đến ngày nay.
Vài nét về lịch sử phát triển kiến tạo
Sự tồn tại các phức hệ vật chất kiến trúc đợc hình thành từ Tiền
Cambri đến Đệ tứ trong bình độ kiến trúc hiện đại của thềm lục địa Việt Nam
và các vùng kế cận là minh chứng hùng hồn cho những chặng đờng phát
triển lâu dài và phức tạp của thạch quyển vùng nghiên cứu. Để thuận lợi cho
việc nhận thức các quy luật động lực tiến hoá theo thời gian trọng điểm là
thềm lục địa, mục này sẽ trình bày lịch sử phát triển kiến tạo thành hai phần là
trớc Kainozoi và Kainozoi.
Lịch sử phát triển kiến tạo trớc Kainozoi đợc đặc trng bởi chế độ
kiến tạo động nối tiếp nhau xen kẽ các đợt bình ổn ngắn từ Arkei đến Creta.
Phân định đợc các giai đoạn phát triển chủ yếu là: Tiền Cambri, Caledoni,
Hecxini và Kimmeri.
Kiến sinh Tiền Cambri kéo dài từ nửa cuối Arkei đến khoảng ranh giới

Rifei - Vend. Vai trò chủ yếu của kiến sinh này là tạo lập ra các kiến trúc có
vỏ lục địa đầu tiên của lãnh thổ nghiên cứu và tiền định hình hài các kiến trúc
động Phanerozoi. Sau thời kỳ bình ổn tơng đối ngắn ngủi vào cuối Rifei và
đầu Vend, thạch quyển Việt Nam lại bị lôi cuốn vào qúa trình sôi động của
các đai động Phanerozoi.
Căn cứ vào các biểu hiện của phức hệ Ophiolit, có thể xác định khởi
đầu của giai đoạn Caledoni trùng vào cuối Vend hoặc sớm hơn một ít, còn
thời điểm kết thúc của giai đoạn này đợc xác định vào ranh giới của Silua và
Devon. Kiến sinh Caledoni đã tạo ra những phức hệ vật chất - kiến trúc lớn
của miền Việt - Trung, tăng trởng các khối vỏ lục địa của miền Việt - Lào và
thúc đẩy qúa trình huỷ hoại vỏ lục địa cổ ở rìa phía nam của địa khối
Indosinia.
Giai đoạn Hecxini về căn bản tiếp tục thừa kế chế độ hoạt động của giai
đoạn trớc trên phạm vi các đới động, còn trên các khu vực đã cố kết thì tạo
thành các phức hệ vật chất - kiến trúc sau địa máng. Vai trò nổi bật của giai
đoạn này là tạo lập các kiến trúc uốn nếp cơ bản của hệ địa máng Việt-Lào (kể
cả móng uốn nếp của các quần đảo Trờng Sa và Hoàng Sa).

×