Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Tiểu luận tìm hiểu về Doanh nghiệp nhà nước và Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.23 KB, 48 trang )

A. DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. Tổng quan về DNNN.
1. Doanh nghiệp NN
- Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995), DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các
mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Cũng theo luật này, DNNN nước tồn tại dưới các hình
thức: doanh nghiệp độc lập, tổng công ty, doanh nghiệp thành viên của tổng công ty.
- Và theo Luật Doanh nghiệp nhà nước (2003), DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu
toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, phấn góp vốn chi phối được tổ chức dưới hình thức công ty
nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Theo Điều 166 luật doanh nghiệp (2005), các doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo quy
định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 phải chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc công ty cổ phần theo lộ trình chuyển đổi hằng năm, nhưng chậm nhất là trong thời hạn
bốn năm kể từ ngày Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực (01/07/2006). Trong thời hạn chuyển
đổi, những quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 được tiếp tục áp dụng đối với
doanh nghiệp nhà nước nếu Luật này không có quy định.
- Do đó, theo khoản 22 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005, DNNN được định nghĩa “là doanh
nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ” và hiện được tồn tại dưới các hình thức
pháp lý sau:
• Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, là công ty TNHH do Nhà
nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ;
• Công ty TNHH hai thành viên trở lên do Nhà nước làm chủ sở hữu, là công ty TNHH
trong đó tất cả các thành viên đều là công ty của Nhà nước, do Nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ;
• CTCP nhà nước, là CTCP mà toàn bộ cổ đông đều là cổ đông nhà nước, do Nhà nước sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ;
• CTCP hoặc công ty TNHH hai thành viên trở lên mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước
chiếm trên 50% vốn điều lệ.
2. Thực trạng về chuyển đổi doanh nghiệp NN Việt Nam.
Cải cách DNNN là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt
Nam. Chủ trương này đã xuất hiện từ cuối những năm1970. Tuy nhiên, đến tận đầu những năm


1990, quá trình cải cách DNNN mới thực sự được thực hiện. Có thể chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1990-1993: Giai đoạn này tập trung giải quyết về xây dựng cơ chế, chính sách và tài
chính để sắp xếp, chấn chỉnh và tổ chức lại DNNN đã được thành lập tràn lan trong những năm
trước đó, sắp xếp lại những doanh nghiệp hoạt động thua lỗ kéo dài. Theo đó, số lượng DNNN
giảm đáng kể, từ 12.500 doanh nghiệp xuống còn khoảng hơn 6.000 doanh nghiệp. Căn cứ pháp
lý cho đợt này là Quyết định số 315-HĐBT (ngày 1/9/1990) về chấn chỉnh và tổ chức lại sản
xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế quốc doanh và Nghị định số 388-HĐBT của Hội đồng Bộ
trưởng (ngày 20/11/1991) ban hành quy chế về thành lập và giải thể DNNN. Cũng trong giai
đoạn này, việc chuyển đổi sở hữu DNNN bắt đầu được thí điểm từ khi Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng ban hành Quyết định số 143/HĐBT (ngày 10/5/1990) cho phép thí điểm, chuyển một số
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 1
DNNN thành công ty cổ phần, Chỉ thị số 202/CT (ngày 8/6/1992) về tiếp tục thí điểm chuyển
một số DNNN thành công ty cổ phần.
Giai đoạn 1994-2001: Đây là giai đoạn đẩy mạnh cải cách khung pháp lý đối với DNNN. Quốc
hội đã ban hành Luật DNNN năm 1995. Theo đó, DNNN được pháp luật thừa nhận là một pháp
nhân độc lập, có vốn và tài sản riêng, có quyền tự chủ kinh doanh. Chủ sở hữu nhà nước chịu
trách nhiệm hữu hạn với DNNN trong phạm vi vốn đầu tư của nhà nước tại doanh nghiệp và
DNNN yếu kém phải giải thể, phá sản như mọi doanh nghiệp khác.
Trong giai đoạn này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 90/TTg và 91/TTg (ngày
7/3/1994), Chỉ thị số 500/TTg (ngày 28/5/1995) tiếp tục sắp xếp tổng thể hệ thống DNNN, giải
thể những liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty có tính chất hành chính trung gian; qua đó, tạo điều
kiện thực hiện một bước tập trung hóa bằng việc tổ chức những tổng công ty có quy mô lớn theo
hướng tập đoàn kinh doanh (tổng công ty 91) và các tổng công ty 90 phù hợp với yêu cầu khách
quan, nâng cao khả năng tích tụ của các tổng công ty.
Cũng trong giai đoạn này, nhiều quy định về chuyển đổi sở hữu DNNN cũng được ban hành và
triển khai như cổ phần hóa DNNN (Nghị định số 28/CP; Nghị định số 44/1998/NĐ-CP), giao,
bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN (Nghị định số 103/1999/NĐ-CP). Với việc ra đời của
Luật Doanh nghiệp 1999 đã có những tác động gián tiếp nhưng mạnh mẽ đến cải cách DNNN
trên phương diện trở thành khung khổ pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hoá,
giao, bán, chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên.

Giai đoạn từ năm 2002- 2006: Đây là giai đoạn đẩy mạnh chuyển đổi sở hữu. Luật DNNN năm
2003 thay thế Luật DNNN 1995 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh cải cách DNNN. Luật
đã xác định rõ hơn các loại hình DNNN, không chỉ bao gồm các doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước mà còn có những doanh nghiệp đa sở hữu dưới hình thức công ty cổ phần, công ty TNHH.
Quan hệ giữa Nhà nước với DNNN được quy định cụ thể hơn. Với tư cách quản lý nền kinh tế,
Nhà nước quan hệ với DNNN như mọi loại hình doanh nghiệp khác. Với tư cách là chủ sở hữu,
Nhà nước có các quyền và nghĩa vụ như các chủ sở hữu khác đầu tư vào doanh nghiệp. Đặc biệt,
Luật DNNN đã luật hóa các biện pháp chuyển đổi sở hữu. Các DNNN không thuộc diện nhà
nước nắm giữ 100% vốn điều lệ phải chuyển thành doanh nghiệp đa sở hữu.
Để đẩy mạnh chuyển đổi sở hữu, Chính phủ ban hành Quyết định số 58/2002/QĐ-TTg (ngày
26/4/2002), sau đó là Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg (ngày 24/8/2004) ban hành tiêu chí, danh
mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc TCTNN. Theo
đó, thu hẹp những ngành, lĩnh vực Nhà nước nắm giữ 100% vốn, nắm giữ cổ phần chi phối trên
50% vốn điều lệ và quy định những ngành, lĩnh vực đa dạng hóa sở hữu dưới các hình thức cổ
phần hóa, giao hoặc bán; quy định phương thức xử lý như sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản
đối với những công ty không thuộc lĩnh vực nhà nước nắm giữ 100% vốn, hoạt động thua lỗ kéo
dài, không thực hiện được chuyển đổi sở hữu; quy định các điều kiện tồn tại đối với TCTNN và
những TCTNN không đáp ứng đủ các điều kiện sẽ được sắp xếp lại theo hướng sáp nhập, hợp
nhất hoặc giải thể sau khi sắp xếp lại công ty thành viên.
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 2
Từ năm 2007 đến nay: chuyển đổi sở hữu DNNN có xu hướng chững lại, đặc biệt là cổ phần
hóa (số lượng doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa trong bốn năm 2007 - 2010 chỉ bằng 2/3 số
doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa năm 2006). Trong giai đoạn này, nội dung cải cách DNNN
chủ yếu tập trung vào hình thành các TĐKTNN, chuyển đổi TCTNN và công ty nhà nước theo
mô hình công ty mẹ- công ty con. Từ ngày 1/7/2010, toàn bộ DNNN phải chuyển thành công ty
cổ phần, công ty TNHH hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, chấm dứt tình trạng chia cắt pháp
luật về doanh nghiệp theo hình thức sở hữu. Về nguyên tắc, các DNNN đã hoạt động trong cùng
một khung pháp lý với các doanh nghiệp khác. Cụ thể:
Vào thời điểm 2001, ở nước ta có 5.655 DNNN. Số doanh nghiệp đã cổ phần hoá là 4.000. Tính
đến thời điểm trước 1/7/2010, nhà nước còn nắm giữ 100% vốn ở 1.206 doanh nghiệp, trong đó:

- Chuyển đổi khoảng hơn 900 doanh nghiệp thành công ty TNHH một thành viên;
- 40 doanh nghiệp đã tiến hành cổ phần hoá trước ngày 1/7/2010 mà đã xác định
xong giá trị doanh nghiệp, nhóm này sẽ tiếp tục tiến hành cổ phần hóa;
- Khoảng 30 doanh nghiệp đến ngày 01/7/2010 tuy chưa xác định xong giá trị
doanh nghiệp nhưng dự kiến trong tháng 7 sẽ xác định xong thì trong năm 2010
sẽ hoàn thành thực hiện cổ phần hóa, cũng sẽ không phải chuyển đổi thành công
ty TNHH một thành viên;
- Khoảng 40 doanh nghiệp không đủ điều kiện theo quy định tại Nghị định
25/2010/NĐ-CP để chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên, nhóm này sẽ
phải tiến hành cơ cấu lại nợ để chuyển thành CTCP hoặc công ty TNHH hai thành
viên trở lên, nếu không sắp xếp được thì tiến hành bán doanh nghiệp hoặc cho phá
sản.
- Còn khoảng 182 doanh nghiệp phải chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên và về cơ
bản đã được chuyển đổi hết trong tháng 7/20102.
Các nghị định điều chỉnh chuyển đổi:
 Đối với DNNN thành Công ty Cổ phần:
- Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 của Chính phủ về
chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần
- Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 quy định về việc chuyển
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần
- Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2011 của Chính phủ về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
- Các nghị định ban hành sau thay thế cho các nghị định ban hành trước đó
 Đối với DNNN chuyển đổi thành Công ty TNHH 1 thành viên.
- Nghị định số 95/2006/NĐ-CP ngày 8/9/2006 của Chính phủ về chuyển đổi công
ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
- Nghị định số 25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 của Chính phủ về chuyển đổi công
ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và tổ chức quản lý
công ty TNHH một thành viên do NN làm chủ.
Ý nghĩa - hạn chế - đề xuất của việc chuyển đổi

 Về việc chuyển đổi thành công ty TNHH 1 thành viên.
o Ý nghĩa
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 3
Việc chuyển đổi các công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
(TNHH) tuy không mang tính đột phá như cổ phần hóa, nhưng là cần thiết và có ý nghĩa nhất
định:
- Một là, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định các công ty nhà nước thực hiện theo lộ trình
chuyển đổi, nhưng trước ngày 1-7-2006 phải chuyển thành công ty TNHH hoặc công ty
cổ phần.
- Trên thực tế từ năm 2001 các DNNN (gọi là công ty nhà nước từ năm 2003 theo Luật
DNNN) bắt đầu chuyển thành công ty TNHH một thành viên theo Nghị định số
63/2001/NĐ-CP.
- Hai là, với việc chuyển đổi doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn thành công ty
TNHH một thành viên, bên cạnh mục tiêu để thực hiện thống nhất một Luật Doanh
nghiệp, còn nhằm mục đích đổi mới tổ chức quản lý, cơ chế hoạt động, tạo sự bình đẳng
với các loại hình doanh nghiệp khác. Đây là quá trình “công ty hóa” các công ty nhà
nước, tạo vị thế “công ty” cho công ty nhà nước – có địa vị pháp lý của một pháp nhân
kinh tế, có tài sản độc lập với cá nhân và tổ chức khác, kể cả với Nhà nước, có quyền
nhân danh công ty tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
- Ba là, việc chuyển đổi sang Luật Doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế, tạo mặt bằng pháp lý với các thành phần kinh tế khác, thực hiện cam kết WTO là
Nhà nước thực hiện các quyền chủ sở hữu tương tự như các chủ doanh nghiệp hay cổ
đông khác không phải Nhà nước.
o Hạn chế
Khi chuyển đổi sang hình thức công ty TNHH, nhưng luật doanh nghiệp 2005 quy định về việc
quản lý kiểm soát công ty TNHH còn nhiều lỗ hỗng, sẽ tạo điều kiện cho các giao dịch tư lợi
trong công ty.
Ví dụ: Quy định về kiểm soát viên
• Ban kiểm soát trong công ty cổ phần không được giữ các chức vụ quản lý công ty nhưng
kiểm soát viên trong công ty TNHH một thành viên là tổ chức thì có thể kiêm nhiệm các

chức vụ quản lý điều hành công ty vì Luật Doanh nghiệp không cấm việc kiêm nhiệm
này trong công ty TNHH một thành viên là tổ chức.
• Hay theo quy định của Điều 75 Luật Doanh nghiệp, khi có một giao dịch tư lợi (được
giao kết giữa công ty với chủ sở hữu, thành viên Hội đồng thành viên/ Chủ tịch công ty,
Giám đốc, Kiểm soát viên) thì phải được thành viên Hội đồng thành viên/ Chủ tịch công
ty, Giám đốc/ Tổng giám đốc và Kiểm soát viên xem xét quyết định theo nguyên tắc đa
số, mỗi người có một phiếu biểu quyết. Và khi biểu quyết một giao dịch như vậy, người
có liên quan không bị loại trừ quyền biểu quyết.
• Những quy định trên về kiểm soát viên tạo ra một lỗ hổng rất lớn trong việc kiểm soát
các giao dịch tư lợi trong công ty TNHH một thành viên là tổ chức, tạo nguy cơ gây ra
thất thoát tài sản của chủ sở hữu như trường hợp một người kiêm nhiệm cả 3 vị trí trong 1
công ty.
Nhìn vào thực tế có thể thấy, việc các DNNN chuyển thành công ty TNHH một thành viên theo
NĐ25 vừa qua chỉ là tạo ra những chiếc “bình mới” cho một “chất rượu” cũ mà thôi:
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 4
• Các DNNN sau khi chuyển đổi sẽ chưa (hoặc không) có sự thay đổi đáng kể nào về quản
trị doanh nghiệp – khâu quyết định đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Nhận định trên là dựa vào chính những quy định trong NĐ25.
• Các công ty TNHH một thành viên ra đời từ NĐ25 phải được gọi đúng tên là công ty
TNHH nhà nước một thành viên. Bởi lẽ, Nhà nước vẫn là chủ sở hữu 100% vốn điều lệ
của những công ty đó.
• Cụm từ “Nhà nước một thành viên” đã được sử dụng để đặt tên cho một số DNNN trước
đây. Song, trong lần chuyển đổi này, cụm từ trên đã không được sử dụng để tránh vi
phạm nguyên tắc “thương mại không phân biệt đối xử” – một trong những nguyên tắc cơ
bản của WTO mà Việt Nam là thành viên. Vì “Nhà nước vẫn là chủ sở hữu 100% vốn
điều lệ” cho nên các “nút thắt” trong công tác quản trị các DNNN vẫn còn nguyên vẹn
đối với các công ty TNHH một thành viên hình thành sau chuyển đổi.
Ai là chủ sở hữu của công ty?
• Điều 3 NĐ25 quy định: “Nhà nước là chủ sở hữu đối với công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên do mình nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ. Chính phủ thống nhất tổ chức thực

hiện quyền và nghĩa vụ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước
nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ”. Song, nhà nước luôn luôn là một danh từ chung, không chỉ
cụ thể là ai. Vì vậy, trong trường hợp này, chủ sở hữu vẫn không được xác định.
• NĐ25 có chỉ rõ hơn: “Mỗi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được chuyển đổi
từ công ty nhà nước hoặc thành lập mới chỉ do một tổ chức được phân công, phân cấp
dưới đây thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu (sau đây gọi tắt là chủ sở hữu)
…”.
• Và các tổ chức đó là: Thủ tướng Chính phủ hoặc một tổ chức được Chính phủ phân công;
bộ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là ủy ban nhân
dân cấp tỉnh); công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ – công ty con, công ty mẹ của tập
đoàn kinh tế nhà nước và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) trong
một số trường hợp. Rõ ràng, việc xác định “chủ sở hữu của công ty” vẫn như trước đây,
tức là, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước lại là “chủ sở hữu” của các đơn vị kinh
doanh!
Chủ sở hữu là con người cụ thể nào?
• Chủ sở hữu một công ty không thể là một cơ quan, tổ chức mà phải là một con người cụ
thể. Quy định tại NĐ25 cho thấy tùy theo từng công ty, chủ sở hữu sẽ là Thủ tướng Chính
phủ; bộ trưởng; chủ tịch UBND cấp tỉnh; người được công ty mẹ hoặc SCIC giao quyền.
• Câu hỏi được đặt ra là, liệu các quan chức trong bộ máy công quyền (Thủ tướng Chính
phủ, các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh) có đủ điều kiện (ít nhất là về thời gian) để
thực hiện các quyền của chủ sở hữu hay không? Câu trả lời là không!
• Chẳng hạn, một vị chủ tịch UBND cấp tỉnh với hàng trăm cuộc họp mỗi tháng và phải
chịu trách nhiệm đối với mọi hoạt động trên địa bàn tỉnh thì lấy đâu ra thời gian để “thực
hiện quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu công ty”?
• Hơn nữa, quản lý một công ty kinh doanh liên quan đến rất nhiều vấn đề từ kinh tế, kỹ
thuật đến lao động, đất đai, pháp luật và tập quán quốc tế… Do đó, không phải cứ xin ý
kiến là chủ sở hữu có thể “cho ý kiến” được ngay. Tất yếu phải có các cơ quan tham mưu,
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 5
nghiên cứu và trình lên ý kiến giải quyết. Và không loại trừ trường hợp khi ý kiến chấp
thuận được thông báo thì thời cơ kinh doanh đã… mất!

• Với những “chủ sở hữu” không phải là quan chức mà là đại diện của công ty mẹ hoặc
SCIC thì câu hỏi đặt ra lại là họ có dám “cho ý kiến” không? Vốn của công ty là vốn nhà
nước. Do dó, nếu “cho ý kiến” kịp thời nhưng gặp rủi ro, kinh doanh thua lỗ, liệu họ có
tránh khỏi tội “cố ý làm trái, gây hậu quả nghiêm trọng”? Vì vậy, để chắc chắn, đến lượt
mình, họ lại đi “xin ý kiến” cấp trên trước khi “cho ý kiến” với người “xin ý kiến”!
Những quy trình “xin” và “cho” ý kiến nêu trên là xa lạ đối với hoạt động kinh doanh
trong kinh tế thị trường!
Ai sẽ chịu trách nhiệm khi công ty mất vốn?
• Theo NĐ25, tham gia quản lý điều hành công ty TNHH một thành viên có: chủ sở hữu,
hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty trong mô hình không có hội đồng thành viên.
Câu hỏi được đặt ra là nếu do quản lý yếu kém, công ty bị mất vốn thì ai chịu trách
nhiệm và chịu trách nhiệm như thế nào?
• Theo Luật Doanh nghiệp, chủ sở hữu sẽ là người chịu trách nhiệm toàn diện và cao nhất
là mất hết số vốn đầu tư của mình. Song, trong công ty TNHH nhà nước một thành viên,
vốn của công ty là vốn của Nhà nước – là tiền đóng thuế của nhân dân. Số vốn đó không
thuộc sở hữu của một cá nhân nào. Do đó, những “chủ sở hữu” của công ty chẳng có gì
để mất. Khi công ty thua lỗ và mất vốn, cao lắm, các “chủ sở hữu” được yêu cầu “kiểm
điểm, rút kinh nghiệm” hoặc kỷ luật hành chính.
• Hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty cũng sẽ vô can. Bởi lẽ, trước khi thực hiện
những việc quan trọng, họ đã “xin” ý kiến chủ sở hữu và được chấp thuận. Việc không
thành công là do khách quan, do năng lực có hạn và hàng ngàn lý do khác đầy sức thuyết
phục! Hơn nữa, họ cũng chỉ là người được chủ sở hữu “thuê quản lý” không có hợp đồng.
Căn cứ pháp lý nào để quy trách nhiệm cho họ phải bồi thường thiệt hại cho công ty?
• Như vậy, có thể thấy, khi còn là DNNN, doanh nghiệp mất vốn, phá sản đã không có ai
chịu trách nhiệm, vậy mà khi chuyển sang công ty TNHH nhà nước một thành viên cũng
sẽ không có ai chịu trách nhiệm chuyện công ty bị mất vốn. Chỉ có nhân dân – những
người đóng thuế – là bị mất mà không biết kêu ai?
o Đề xuất
Có thể khẳng định rằng, khi còn duy trì nguyên tắc “Nhà nước làm chủ sở hữu” của công ty thì
không có câu trả lời triệt để cho những câu hỏi đã nêu. Bởi lẽ, vốn nói chung, hay vốn trong kinh

doanh của mọi doanh nghiệp chỉ được bảo toàn và sử dụng có hiệu quả khi có một chủ sở hữu
đích thực. Vì vậy, xin kiến nghị vài giải pháp trong tương lai:
• Nhanh chóng thực hiện cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê những công ty TNHH nhà
nước một thành viên sau chuyển đổi. Chuyển đổi hình thức sở hữu DNNN nhằm thu hút
vốn đầu tư trong nhân dân, nâng cao năng lực quản trị và sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp là mục tiêu đã được đặt ra từ lâu của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước đã nêu rõ
chỉ giữ và góp vốn chi phối trong khoảng 400 doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh
vực có liên quan đến an ninh quốc phòng và lợi ích công cộng. Vì vậy, không có một lý
do gì để trì hoãn quá trình này.
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 6
• Để quản lý phần vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
trong những trường hợp cần thiết, cần mạnh dạn bỏ cơ chế chủ quản như hiện nay. Không
thể và không nên giao cho một quan chức, công chức trong bộ máy công quyền làm “chủ
sở hữu” hoặc “đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp”.
• Nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật Quản lý vốn nhà nước đầu tư vào các doanh
nghiệp, luật về thuê quản lý doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, tổ chức lại SCIC thành một
doanh nghiệp có chức năng nhận ủy thác đầu tư của Nhà nước để đầu tư vào các doanh
nghiệp khác. Đồng thời, cho phép các doanh nghiệp khác trong cả nước được phép nhận
ủy thác đầu tư vốn của Nhà nước để đầu tư vào các doanh nghiệp, công trình, dự án nếu
đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật.
Với những doanh nghiệp do quản lý, điều hành yếu kém, dẫn đến bờ vực phá sản cần xử lý
nghiêm khắc.
 Về việc chuyển đổi thành công ty Cổ phần hoặc TNHH 2 thành viên trở lên
o Ý nghĩa
• Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại
hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động; tạo động
lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn,
tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp.
• Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.

• Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông; tăng cường sự
giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước,
doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.
• Khi phát hành chứng khoán ra công chúng, DNNN có ưu thê lớn trong việc tạo dựng lòng
tin đối với nhà đầu tư vì được đặt dưới sự bảo hộ vốn Nhà nước. Vì thế độ ổn định tỉ giá,
cũng như khả năng thanh khoản của chứng khoán DNNN sẽ cao hơn.
o Hạn chế
• Khi được tăng vốn, hệ quả dẫn đến cơ cấu tổ chức, sản xuất hay là nhân sự của công ty
được cổ phần hoá dễ không đáp ứng được với nhu cầu mới. Khác với các doanh nghiệp
tư nhân, những doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu khó thay đổi ngay hoặc kể cả lâu dài.
Hệ thống nhân sự là những công viên chức thuộc bộ máy nhà nước, khó thuyên chuyển,
việc tuyển mới cũng khó khăn kém cạnh tranh so với DN tư nhân. Ngoài ra quá trình thủ
tục, quy trình làm việc của công ty Nhà nước thiếu linh hoạt hơn. Vì thế nếu quá trình
chuẩn bị cổ phần hoá không được chuẩn bị kĩ lưỡng sẽ dẫn đến hệ quả là hoạt động kém
hiệu quả khi được cổ phần hoá và tăng quy mô.
• Hơn nữa cũng cần nói đến vấn đề vốn, vốn công ty nhà nước quá nhiều. Và việc chi
mạnh tay là điều không tránh khỏi. tuy nó có thể mang lại những món lời lớn, nhưng do
quản lí vốn không hiệu quả, ngồn vốn quá dồi dào dẫn đến không được coi trọng.
o Đề xuất
• DNNN trước khi được cổ phần hoá cần được kiểm toán tốt và độc lập. Kế hoạch kinh
doanh khi được cổ phần hoá cũng phải được xem xét kĩ lưỡng và phê duyệt bởi những
người thực sự có chuyên môn, không lơ là làm cho có sẽ dẫn đến sự mất hiệu quả của
nguồn vốn trong nền kinh tế.
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 7
• Các vấn đề nảy sinh vẫn xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là sự quản lý yếu kém của
những người quản lí. Bộ máy quản lí lỗi thời, trình độ không cao là một lí do, vì thế cần
phải làm mới bộ máy nhân sự của công ty NN bằng các tri thức trẻ có trình độ chuyên
môn thực sự, loại bỏ tiêu cực trong quá trình tuyển dụng. Họp sẽ mang lại hiểu quả trong
mọi công việc từ sản xuất, vốn, nhân công cho DN.
II. TỔNG CÔNG TY VÀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC.

1. Giới thiệu chung
 Tập đoàn kinh tế:
Theo nghị định 101/2009/NĐ - CP Tập đoàn kinh tế nhà nước thí điểm thành lập theo Nghị định
này là nhóm công ty có quy mô lớn liên kết dưới hình thức công ty mẹ - công ty con và các hình
thức khác, tạo thành tổ hợp các doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ và lâu dài với nhau về lợi ích kinh
tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.
Tập đoàn kinh tế nhà nước bao gồm:
a) Công ty mẹ (gọi tắt là doanh nghiệp cấp I) là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ hoặc giữ quyền chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
b) Công ty con của doanh nghiệp cấp I (gọi tắt là doanh nghiệp cấp II) là các doanh nghiệp do
doanh nghiệp cấp I giữ quyền chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên trở lên, tổng công ty theo hình thức công ty mẹ -
công ty con, công ty liên doanh (trong trường hợp chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp),
công ty con ở nước ngoài.
c) Công ty con của doanh nghiệp cấp II và các cấp tiếp theo;
d) Các doanh nghiệp liên kết của tập đoàn gồm: doanh nghiệp có vốn góp dưới mức chi phối của
công ty mẹ và của công ty con; doanh nghiệp không có vốn góp của công ty mẹ và của công ty
con, tự nguyện tham gia liên kết dưới hình thức hợp đồng liên kết hoặc không có hợp đồng liên
kết, nhưng có mối quan hệ gắn bó lâu dài về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ
kinh doanh khác với công ty mẹ hoặc doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn.
3. Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên tập đoàn có tư cách pháp nhân; có vốn và tài sản
riêng; có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình theo quy định của pháp luật và
theo thỏa thuận chung của tập đoàn. Nhà nước là chủ sở hữu vốn nhà nước trực tiếp đầu tư tại
công ty mẹ. Công ty mẹ là chủ sở hữu vốn nhà nước tại các công ty con, doanh nghiệp liên kết.
Số lượng tập đoàn kinh tế tại Việt Nam:
STT Danh mục Cơ cấu
vốn
Quản lý Tình trạng
1 Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) 100% vốn
NN

Chính Phủ Đang hoạt
động
2 Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
(PetroVietnam)
100% vốn
NN
Chính Phủ Đang hoạt
động
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 8
3 Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) 100% vốn
NN
Chính Phủ Đang hoạt
động
4 Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt
Nam (Vinacomin)
100% vốn
NN
Chính Phủ Đang hoạt
động
5 Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) 100% vốn
NN
Chính Phủ Đang hoạt
động
6 Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam
(Vinachem)
100% vốn
NN
Chính Phủ Đang hoạt
động
7 Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) 100% vốn

NN
Chính Phủ Đang hoạt
động
8 Tập đoàn Tài chính-Bảo hiểm Bảo Việt (Bảo Việt) >51% vốn
NN
Chính Phủ Đang hoạt
động
9 Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) 100% vốn
NN
Bộ Quốc
Phòng
Đang hoạt
động
10 Tập đoàn phát triển nhà và đô thị việt nam (HUD
Holdings)
100% vốn
NN
Chính Phủ Dừng thí
điểm
11 Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam
(Songda)
100% vốn
NN
Chính Phủ Dừng thí
điểm
12 Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam
(Vinashin)
100% vốn
NN
Chính Phủ Tái cơ cấu

13 Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) 100% vốn
NN
Chính Phủ Cổ phần hoá
 Tổng công ty Nhà nước
Hiện nay, các Tổng công ty Nhà nước được tổ chức theo quyết định số 90/ Ttg và 91/Ttg ngày
7/3/1994 của thủ tướng Chính phủ gọi tắt là Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91. Các Tổn
g công ty này vận hành theo cơ chế “công ty mẹ” và “công ty con”; tổ chức gồm:
 Hội đồng quản trị (HĐQT);
 Tổng giám đốc (TGĐ),
 Ban kiểm soát;
 Các đơn vị thành viên.
Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91 được phân biệt dựa trên quy mô vốn pháp định, số lượng d
oanh nghiệp thành viên; cấp có thẩm quyền quyết định thành lập, phê chuẩn điều lệ và bổ
nhiệm nhân sự Bộ máy của Tổng công ty.
Việc lựa chọn mô hình Tổng công ty như trên, lúc đầu, sự hoạt động có thể chưa có hiệu
quả so với mô hình doanh nghiệp hoạt động độc lập thành lập theo quyết định 338; Song cái
được lớn là giảm đáng kể số lượng doanh nghiệp trực thuộc Bộ quản lý ngành hay cấp hành
chính địa phương cũng như giảm số lượng doanh nghiệp không cần thiết, tiếp tục duy trì qua
sắp xếp lại khi đưa vào Tổng công ty. Cái được lớn và cơ bản tạo cho Bộ và cấp hành chính địa p
hương thực hiện đúng đắn chức năng quản lý Nhà nước đáp ứng yều cấp thiết việc nâng cao
hiệu quả và hiệu lực hoạt động của Bộ máy quản lý hành chính hiện nay.
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 9
Danh sách tổng công ty 100% vốn NN
1. Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước - SCIC(10 công ty thành viên);
2. Tổng công ty Cà phê - Vinacafe (29 công ty thành viên);
3. Tổng công ty Đường sắt Việt Nam - VNR(24 công ty thành viên);
4. Tổng công ty Giấy Việt Nam - Vinapaco (2 công ty thành viên);
5. Tổng công ty Hàng hải Việt Nam - Vinalines (16 công ty thành viên);
6. Tổng công ty Hàng không Việt Nam - Vietnamairlines (3 công ty thành viên);
7. Tổng công ty Hóa chất Việt Nam - Vinachem (8 công ty thành viên);

8. Tổng công ty Lương thực miền Bắc - Vinafood 1 (4 công ty thành viên);
9. Tổng công ty Lương thực miền Nam - Vinafood 2 (5 công ty thành viên);
10. Tổng công ty Thép Việt Nam - VinaSteel (2 công ty thành viên);
11. Tổng công ty thuốc lá Việt Nam (12 công ty thành viên);
12. Tổng công ty Xi măng Việt Nam (4 công ty thành viên)
2. Mô hình tổng công ty và tập đoàn kinh tế Việt Nam
Tổng công ty nhà nước và tập đoàn kinh tế Việt Nam hoạt động theo mô hình công ty mẹ - Công
ty con
2.1 Đặc điểm của công ty mẹ - công ty con:
Công ty mẹ - công ty con trong khu vực DNNN ở Việt Nam có một số đặc điểm chính sau đây:
Một là, công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con hầu hết vừa trực tiếp sản xuất - kinh
doanh, vừa đầu tư tài chính vào doanh nghiệp khác.
Hai là, cơ cấu doanh nghiệp đa dạng về loại hình và sở hữu. Công ty mẹ là công ty TNHH một
thành viên (trong trường hợp công ty mẹ do Nhà nước nắm giữ 100% vốn) hoặc công ty cổ phần
(trong trường hợp công ty mẹ do Nhà nước nắm cổ phần chi phối). Công ty con do công ty mẹ
nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, công ty liên kết do công ty mẹ nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ.
Công ty con, công ty liên kết có các loại hình là công ty TNHH một thành viên, công ty cổ phần,
công ty TNHH hai thành viên trở lên và công ty liên doanh.
Ba là, đối với các TĐKTNN, hiện có hai dạng hình, đó là dạng hình là tập đoàn theo cơ cấu công
ty mẹ - công ty con, trong đó đứng đầu tập đoàn là “công ty mẹ - tập đoàn” và bên dưới là các
công ty con, công ty liên kết; và tập đoàn theo cơ cấu hỗn hợp gồm công ty mẹ, công ty con,
trong đó có công ty con là tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con
2.2 Đánh giá về mô hình công ty mẹ - công ty con
 Mặt tích cực:
Một là, do thay đổi về bản chất mối quan hệ và phương thức điều hành giữa công ty mẹ và các
công ty con, công ty liên kết, công ty mẹ có điều kiện tập trung đến việc tối đa hóa hiệu quả đầu
tư phát triển, tích tụ, tập trung vốn và lợi nhuận định hướng chiến lược hoạt động cho tổ hợp
công ty mẹ - công ty con, nghiên cứu đổi mới công nghệ, thương hiệu và khả năng cạnh tranh
trên thị trường;
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 10

Hai là, việc hình thành công ty mẹ - công ty con trong khu vực DNNN đã khắc phục được tình
trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các đơn vị thành viên trong cùng một tổng công ty vì các
công ty con đều chịu sự chi phối của công ty mẹ. Điều này được thể hiện khá rõ ở các đơn vị có
doanh nghiệp thành viên hoạt động trong cùng ngành như Công ty Dầu thực vật hương liệu mỹ
phẩm, Tổng công ty Thương mại Hà Nội, Tổng công ty Bến Thành,…;
Ba là, với cơ cấu đa sở hữu, một mặt đã tạo ra cơ chế quản lý đa thành phần, thu hút được vốn từ
các nhà đầu tư bên ngoài vào sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung vốn, mở
rộng quy mô doanh nghiệp; mặt khác, tạo điều kiện để công ty mẹ mở rộng phạm vi hoạt động
thông qua việc đầu tư, góp vốn vào các công ty con, công ty liên kết kinh doanh ở những ngành
nghề đa dạng nhằm tranh thủ cơ hội đầu tư và phân tán rủi ro.
Việc hình thành các công ty con, công ty liên kết bằng cách cổ phần hóa doanh nghiệp, bộ phận
doanh nghiệp đã tạo điều kiện lành mạnh hóa tài chính, sắp xếp lại lao động, kiện toàn và nâng
cao năng lực bộ máy quản lý điều hành cho doanh nghiệp.
Bốn là, việc chuyển đổi TCTNN, công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ -
công ty con làm thay đổi căn bản quan hệ, trách nhiệm, quyền hạn, lợi ích giữa công ty mẹ và
các công ty con, công ty liên kết, đặc biệt đối với TCTNN. Việc chuyển đổi đã thay đổi phương
thức tổ chức quản lý từ kiểu hành chính, cấp trên - cấp dưới sang phương thức công ty mẹ đầu
tư, chi phối về vốn, công nghệ, thương hiệu,… đối với các công ty con. Công ty mẹ và các công
ty con đều là những pháp nhân độc lập, bình đẳng, có quyền và trách nhiệm trong sản xuất, kinh
doanh; công ty mẹ tham gia quản lý công ty con với tư cách là cổ đông, thành viên góp vốn,
nhận cổ tức, lãi từ công ty con theo tỷ lệ vốn góp; công ty con tự chủ trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, mọi quan hệ
về thương mại với công ty mẹ đều thông qua hợp đồng kinh tế. Từ đó tạo sự liên kết bền chặt về
lợi ích kinh tế giữa công ty mẹ với các công ty con, công ty liên kết, khắc phục được những bất
hợp lý của việc gắn kết với nhau theo kiểu hành chính trong mô hình TCTNN trước đây.
Như vậy, so với mô hình TCTNN trước đây, công ty mẹ có trách nhiệm cao hơn đối với các công
ty con, công ty liên kết vì hiệu quả hoạt động của công ty con, công ty liên kết ảnh hưởng trực
tiếp đến kết quả đầu tư vốn vào doanh nghiệp của công ty mẹ, do đó, công ty mẹ phải thường
xuyên tăng cường trách nhiệm đối với các công ty con, công ty liên kết thông qua người đại diện
phần vốn góp của mình tại các công ty này để đảm bảo nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh.

Tương tự như vậy đối với công ty nhà nước độc lập chuyển sang mô hình công ty mẹ - công ty
con, các đơn vị trực thuộc được chuyển thành các công ty con, công ty liên kết là pháp nhân độc
lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh; công ty mẹ quan hệ với
công ty con, công ty liên kết với vị thế là một nhà đầu tư, góp vốn. Từ đó khắc phục được tình
trạng các đơn vị trực thuộc trông chờ, phụ thuộc hoàn toàn vào công ty từ kế hoạch sản xuất -
kinh doanh, thị trường, đầu tư phát triển đến những vấn đề cụ thể trong sản xuất - kinh doanh
như trước đây.
 Mặt hạn chế:
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 11
Một là, dù đã chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con nhưng một số doanh
nghiệp vẫn duy trì cách thức điều hành bằng mệnh lệnh hành chính, chưa tạo điều kiện cho các
công ty tự chủ trong sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về tài chính [50].
Hai là, công ty mẹ chưa xác định và thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của người
chủ sở hữu đối với phần vốn góp chi phối tại các công ty con. Việc cử người đại diện phần vốn
của công ty mẹ tại các công ty con ở nhiều doanh nghiệp chưa đủ về số lượng để đảm bảo khả
năng chi phối theo nguyên tắc đối nhân trong hoạt động của HĐQT công ty con; quy chế hoạt
động và báo
cáo của người đại diện chưa rõ dẫn đến công ty mẹ không nắm được toàn bộ hoạt động kinh
doanh của công ty con.
Ba là, bộ máy chuyên môn, nghiệp vụ của công ty mẹ ở một số tổng công ty, công ty chưa theo
kịp yêu cầu thực hiện đồng thời hai chức năng của công ty mẹ vừa trực tiếp sản xuất kinh doanh,
vừa đầu tư tài chính. Do đó, làm cho công ty mẹ lúng túng trong việc tìm ra phương thức để có
thể vừa hỗ trợ các công ty con, công ty liên kết về thị trường, thương hiệu, cán bộ,… nhưng vẫn
đảm bảo sự bình đẳng, không can thiệp vào công việc điều hành của công ty con, đặc biệt là
chưa phát huy được hiệu quả của việc đầu tư tài chính vào doanh nghiệp khác. Nhiều công ty mẹ
chưa tổ chức được bộ phận nghiệp vụ để chuyên theo dõi việc đầu tư vốn vào các công ty con,
công ty liên kết.
2.3 Chủ thể quản lý
Trong thời gian qua, chủ thể thực hiện chức năng quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với
DNNN nói chung và công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con, TĐKTNN nói riêng đã

có nhiều đổi mới, chuyển từ mô hình bộ, cơ quan hành chính "chủ quản" sang mô hình “song
trùng” và dần dần có xu hướng tập trung hơn (xem Phụ lục 10).
Hiện nay, chủ thể quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ - công ty con được thể
hiện như sau:
- Đối với công ty mẹ là công ty TNHH một thành viên: Về nguyên tắc, mỗi công ty TNHH một
thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu chỉ do một tổ chức được phân công, phân cấp thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu. Tuy nhiên, theo cấp quyết định thành lập công ty mẹ khác
nhau nên chủ thể quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ cũng được phân định khác
nhau, cụ thể:
+ Đối với công ty mẹ là công ty TNHH một thành viên do Bộ/ UBND cấp tỉnh quyết định thành
lập, Bộ/ UBND cấp tỉnh thực hiện toàn bộ các quyền, nghĩa vụ chủ sở hữu (trừ quyền quyết định
sử dụng lợi nhuận sau thuế thì Bộ/UBND cấp tỉnh phải phối hợp với Bộ Tài chính để quyết
định).
+ Đối với công ty mẹ là công ty TNHH một thành viên do Thủ tướng Chính phủ quyết định
thành lập, về nguyên tắc, chủ thể thực hiện chức năng quản lý của chủ sở hữu nhà nước là Thủ
tướng Chính phủ hoặc tổ chức chuyên trách được Chính phủ phân công thực hiện. Tuy nhiên,
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 12
thực tế, việc thực hiện chức năng quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với các công ty mẹ loại
này chủ yếu dựa trên cơ chế phân công, phân cấp với sự tham gia của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ quản lý ngành, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Nội vụ, trong đó:
Chính phủ thống nhất thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ; tổ chức
giám sát, đánh giá việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu nhà nước đối với công ty.
Thủ tướng Chính phủ thực hiện các quyền phê duyệt/ quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể,
chuyển đổi sở hữu công ty; mục tiêu, chiến lược, kế hoạch dài hạn và ngành, nghề kinh doanh
của công ty; Điều lệ, phê duyệt sửa đổi và bổ sung Điều lệ công ty; đầu tư vốn để hình thành
vốn điều lệ và điều chỉnh vốn điều lệ trong quá trình hoạt động đối với công ty; các dự án đầu tư
của công ty, các dự án đầu tư ra ngoài công ty thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng
Chính phủ theo quy định của pháp luật về đầu tư; bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách
chức, khen thưởng, kỷ luật Chủ tịch và thành viên HĐTV của công ty; chấp thuận để HĐTV
quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, ký hợp đồng, khen thưởng, kỷ luật Tổng giám

đốc theo đề nghị của HĐTV và thẩm định của Bộ quản lý ngành; chấp thuận để HĐTV công ty
quyết định đầu tư thành lập mới, tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu các đơn vị thuộc sở hữu
của công ty (công ty con 100% vốn, chi nhánh, viện trường, đơn vị sự nghiệp ) trong trường
hợp vốn điều lệ của các đơn vị này có giá trị trên mức phân cấp cho HĐTV công ty mẹ quyết
định;
Bộ quản lý ngành chủ trì và phối hợp với các bộ ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ về:
quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu công ty; bổ nhiệm, bổ nhiệm lại,
miễn nhiệm, cách chức, khen thưởng, kỷ luật Chủ tịch và thành viên HĐTV của công ty; tham
gia ý kiến đối với tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ; chỉ
đạo triển khai, kiểm tra việc thực hiện mục tiêu, chiến lược, kế hoạch dài hạn của công ty.
Đồng thời, Bộ quản lý ngành cũng được giao uỷ quyết định xếp lương, nâng lương, phụ cấp
lương đối với Chủ tịch, thành viên HĐTV và Tổng giám đốc; phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh
doanh và đầu tư phát triển hàng năm của công ty mẹ và tổ chức giám sát và đánh giá hoạt động
kinh doanh của công ty;
Bộ Tài chính được giao nhiệm vụ có ý kiến để Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định thành
lập, tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu công ty; phê duyệt sửa đổi và bổ sung Điều lệ công
ty; đầu tư vốn để hình thành vốn điều lệ và điều chỉnh vốn điều lệ trong quá trình hoạt động của
công ty; Có ý kiến đối với các kiến nghị của HĐTV lên Thủ tướng Chính phủ quyết định trong
lĩnh vực đầu tư và tài chính của công ty. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng được Thủ tướng Chính
phủ uỷ quyền xem xét chấp thuận việc phê duyệt Quy chế quản lý tài chính; báo cáo quyết toán
năm và phương án sử dụng lợi nhuận sau thuế của các công ty;
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện nhiệm vụ giám sát việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà
Thủ tướng Chính phủ giao cho công ty; có ý kiến để Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định
thành lập, tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu công ty; mục tiêu, chiến lược, kế hoạch dài hạn
và ngành, nghề kinh doanh của công ty; phê duyệt sửa đổi và bổ sung Điều lệ công ty; đầu tư
vốn để hình thành vốn điều lệ và điều chỉnh vốn điều lệ trong quá trình hoạt động của công ty.
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 13
Đồng thời, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng được giao nhiệm vụ phối hợp với Bộ quản lý ngành
thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch đầu
tư phát triển 5 năm; phối hợp với Bộ quản lý ngành thẩm định phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh

doanh và đầu tư phát triển hàng năm của công ty mẹ;
Bộ Nội vụ được giao thẩm quyền thẩm định việc thực hiện quy trình, thủ tục, tiêu chuẩn và điều
kiện bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức, khen thưởng, kỷ luật Chủ tịch và thành
viên HĐTV do Bộ quản lý ngành trình Thủ tướng Chính phủ; hướng dẫn trình tự, thủ tục bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức, khen thưởng, kỷ luật đối với Chủ tịch, thành viên
HĐTV, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Phó tổng giám đốc hoặc Phó giám đốc, Kế toán trưởng
và các chức danh quản lý chủ chốt khác trong công ty.
Các cơ quan được giao thực hiện quản lý của chủ sở hữu nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản
lý của mình đối với công ty mẹ, không can thiệp đến các công ty con, công ty liên kết.
- Đối với công ty mẹ là công ty cổ phần do Nhà nước nắm cổ phần chi phối: Bộ quản lý ngành,
UBND cấp tỉnh và một số ít cơ quan thuộc Chính phủ trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của chủ sở hữu nhà nước tại các DNNN chưa chuyển phần vốn nhà nước về Tổng công ty Đầu tư
kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) quản lý.
Như vậy, chủ thể thực hiện quản lý của chủ sở hữu nhà nước đã được đổi mới, chuyển đổi từng
bước, từ mô hình bộ, cơ quan hành chính “chủ quản” sang mô hình “song trùng”; tiếp đó là
chuyển sang mô hình “tập trung” hơn đối với các công ty mẹ do bộ, UBND cấp tỉnh quyết định
thành lập hoạt động dưới hình thức pháp lý là công ty TNHH một thành viên và mô hình “phân
tán” đối với các công ty mẹ trong các TĐKTNN, TCTNN do Thủ tướng Chính phủ quyết định
thành lập.
So với các mô hình nghiên cứu trong Chương 1, mô hình thực hiện quản lý của chủ sở hữu nhà
nước ở Việt Nam không giống mô hình nào mà là sự kết hợp của nhiều mô hình khác nhau, tuỳ
theo loại hình doanh nghiệp
2.1 Thực trạng
Theo báo cáo Thực trạng hoạt động của tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2006 -2010 và
phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2011 – 2015 số 262 /BC-CP.
 NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC
o Về tình hình tài chính
Mặc dù trong những năm qua tình hình kinh tế thế giới cũng như trong nước gặp nhiều khó khăn,
nhưng các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã có nhiều cố gắng, sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, có lãi (tuy không cao), bảo đảm việc làm, cung ứng các

sản phẩm, hàng hóa và các dịch vụ thiết yếu cho xã hội, góp phần cùng với Nhà nước bình ổn giá
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 14
cả, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội (Vinashin đang trong quá
trình tái cơ cấu nên tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh không tập hợp trong báo cáo
này), cụ thể:
a) Vốn chủ sở hữu
Năm 2006 khi mới hình thành một số tập đoàn kinh tế, quy mô vốn chủ sở hữu của các tập đoàn,
tổng công ty là 317.647 tỷ đồng, đến hết năm 2010 vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công
ty là 653.166 tỷ đồng, bằng 204% so với năm 2006.
Vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty hàng năm tăng chủ yếu từ nguồn lợi nhuận sau
thuế; đánh giá lại tài sản, thặng dư vốn thu được trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp
thành viên, đơn vị phụ thuộc của tập đoàn, tổng công ty.
b) Tổng tài sản
- Năm 2006, tổng tài sản của các tập đoàn, tổng công ty là 751.698 tỷ đồng, đến hết năm 2010,
tổng tài sản của các tập đoàn, tổng công ty là 1.799.317 tỷ đồng, bằng 238 % so với năm 2006.
Trong cơ cấu về tài sản, tỷ trọng tài sản cố định chiếm gần 40% tổng tài sản, thể hiện các tập
đoàn, tổng công ty đã tăng cường đầu tư, đổi mới tài sản cố định, hiện đại hoá công nghệ, thiết bị
để phục vụ trực tiếp và gián tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
c) Nợ phải trả
Theo quy định hiện hành, các tập đoàn, tổng công ty được quyền chủ động huy động
vốn phục vụ sản xuất kinh doanh trong phạm vi hệ số nợ phải trả trên vốn điều lệ không vượt
quá 3 lần. Tuy nhiên, để đánh giá đúng tình hình huy động vốn trên khả năng tài chính, nợ phải
trả cần được tính trên vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty.
Năm 2006, tổng số nợ phải trả của các tập đoàn, tổng công ty là 419.991 tỷ đồng, bình
quân bằng 1,32 lần vốn chủ sở hữu, đến hết năm 2010, tổng số nợ phải trả của các tập đoàn, tổng
công ty là 1.088.290 tỷ đồng, bình quân bằng 1,67 lần vốn chủ sở hữu.
Xét từng tập đoàn, tổng công ty thì có 30 tập đoàn, tổng công ty tỷ lệ nợ phải trả/vốn
chủ sở hữu lớn hơn 3 lần. Trong đó: Có 07 tổng công ty trên 10 lần; Có 09 tổng công ty trên 5 -
10 lần; Có 14 tổng công ty từ 3 - 5 lần.
2. Về kết quả sản xuất kinh doanh

a) Doanh thu
- Năm 2007, doanh thu của các tập đoàn, tổng công ty là 642.004 tỷ đồng, tăng 29 % so với thực
hiện năm 2006.
- Năm 2008, doanh thu của các tập đoàn, tổng công ty là 842.758 tỷ đồng, tăng 31 % so với thực
hiện năm 2007.
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 15
- Năm 2009, doanh thu của các tập đoàn, tổng công ty là 1.098.553 tỷ đồng, tăng 30 % so với
thực hiện năm 2008.
- Năm 2010, doanh thu của các tập đoàn, tổng công ty là 1.488.273 tỷ đồng, tăng 35 % so với
thực hiện năm 2009.
b) Lợi nhuận
- Năm 2007, lợi nhuận của các tập đoàn, tổng công ty là 71.491 tỷ đồng, tăng 6 % so với thực
hiện năm 2006.
- Năm 2008, lợi nhuận của các tập đoàn, tổng công ty là 88.478 tỷ đồng, tăng 24 % so với thực
hiện năm 2007.
- Năm 2009, lợi nhuận của các tập đoàn, tổng công ty là 97.537 tỷ đồng, tăng 10 % so với thực
hiện năm 2008.
- Năm 2010, lợi nhuận của các tập đoàn, tổng công ty là 162.910 tỷ đồng, tăng 66 % so với thực
hiện năm 2009.
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của hầu hết các tập đoàn, tổng công ty trong
giai đoạn vừa qua đều có lãi như: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam; Tập đoàn Bưu chính
viễn thông Việt Nam; Tập đoàn Viễn thông Quân đội; Tập đoàn Công nghiệp Than – khoáng sản
Việt Nam; Tập đoàn Cao su Việt Nam; Tổng công ty Lương thực miền Bắc; Tổng công ty Lương
thực miền Nam; Tổng công ty Hoá chất Việt Nam (nay là Tập đoàn); Tổng công ty Sông Đà (nay
là Tập đoàn); Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị (nay là Tập đoàn); Tổng công ty Du
lịch Sài Gòn; Tổng công ty Thương mại Sài Gòn; Tổng công ty Bến Thành; Tổng công ty Công
nghiệp Sài Gòn;…
Tuy nhiên, trong những năm vừa qua do công tác quản trị, giá bán một số mặt hàng
chưa được thực hiện hoàn toàn theo giá thị trường, khủng hoảng về tài chính toàn cầu… là
những yếu tố ảnh hưởng đến một số tập đoàn, tổng công ty vài năm trở lại đây kinh doanh thua

lỗ nặng.
c) Nộp ngân sách
- Năm 2007, nộp ngân sách nhà nước của các tập đoàn, tổng công ty là 133.108 tỷ
đồng, giảm 8 % so với thực hiện năm 2006.
- Năm 2008, nộp ngân sách nhà nước của các tập đoàn, tổng công ty là 223.260 tỷ
đồng, tăng 67% so với thực hiện năm 2007 (do giá dầu thế giới tăng đột biến, nên tăng nguồn thu
từ dầu thô). Nếu loại trừ yếu tố tăng đột biến từ nguồn thu dầu thô (khoảng 32.100 tỷ đồng), thì
nộp ngân sách năm 2008 chỉ tăng 40% so với thực hiện năm 2007.
- Năm 2009, nộp ngân sách nhà nước của các tập đoàn, tổng công ty là 189.991 tỷ
đồng, giảm 15 % so với thực hiện năm 2008 (do biến động của giá dầu trên thế giới, nên nguồn
thu từ dầu giảm);
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 16
- Năm 2010, nộp ngân sách nhà nước của các tập đoàn, tổng công ty là 231.526 tỷ
đồng, tăng 21 % so với thực hiện năm 2009.
Hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được nâng cao dần qua các năm,
tạo sự tăng trưởng về doanh thu, lợi nhuận, làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp
phần cân đối nguồn thu để thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng, đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó,
nhiều tập đoàn, tổng công ty liên tục có lãi nên số nộp ngân sách nhà nước lớn như: Tập đoàn
Dầu khí Quốc gia Việt Nam; Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam; Tập đoàn Viễn thông
Quân đội; Tập đoàn Công nghiệp Than – khoáng sản Việt Nam; Tập đoàn Cao su Việt Nam;
Tổng công ty Lương thực miền Bắc; Tổng công ty Lương thực miền Nam; Tập đoàn Hoá chất
Việt Nam; Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam; Tổng công ty Thương mại Sài Gòn; Tổng
công ty Công nghiệp Sài Gòn; Tổng công ty Khánh Việt…
Tuy vậy, hiệu quả đầu tư và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước nói
chung và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước nói riêng còn chưa tương xứng với vị trí, vai
trò, tiềm năng của doanh nghiệp.
o Về đầu tư vào một số lĩnh vực ngoài ngành kinh doanh chính
Giá trị các khoản đầu tư vào chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư, ngân hàng là:
Năm 2006 (6.114 tỷ đồng); Năm 2007 (14.441 tỷ đồng); Năm 2008 (19.840 tỷ đồng); Năm 2009
(14.991 tỷ đồng); Năm 2010 (21.814 tỷ đồng). Trong đó:

a) Đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán
Đến cuối năm 2010, các tập đoàn, tổng công ty đầu tư 3.576 tỷ đồng vào lĩnh vực
chứng khoán; năm 2009 là 986 tỷ đồng; năm 2008 là 1.697 tỷ đồng; năm 2007 là 1.328 tỷ đồng
và năm 2006 là 707 tỷ đồng.
Tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán so với: Vốn Chủ sở hữu và Tổng tài sản như
sau:
b) Đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm
Đến cuối năm 2010, các tập đoàn, tổng công ty đầu tư 2.236 tỷ đồng vào lĩnh vực bảo
hiểm; năm 2009 là 1.578 tỷ đồng; năm 2008 là 3.007 tỷ đồng; năm 2007 là 2.655 tỷ đồng và năm
2006 là 758 tỷ đồng.
Tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm so với: Vốn Chủ sở hữu và Tổng tài sản như sau:
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 17
c) Đầu tư vào bất động sản
Đến cuối năm 2010, các tập đoàn, tổng công ty đầu tư 5.379 tỷ đồng vào lĩnh vực bất
động sản; năm 2009 là 2.999 tỷ đồng; năm 2008 là 2.285 tỷ đồng; năm 2007 là 1.431 tỷ đồng và
năm 2006 là 211 tỷ đồng.
Tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực bất động sản so với: Vốn Chủ sở hữu và Tổng tài sản như
sau:

d) Đầu tư vào Quỹ đầu tư
Đến cuối năm 2010, các tập đoàn, tổng công ty đầu tư 495 tỷ đồng vào Quỹ đầu tư;
năm 2009 là 694 tỷ đồng; năm 2008 là 1.424 tỷ đồng; năm 2007 là 1.050 tỷ đồng và năm 2006 là
600 tỷ đồng.
Tỷ lệ đầu tư vào các Quỹ đầu tư so với: Vốn Chủ sở hữu và Tổng tài sản như sau:
đ) Đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng
Đến cuối năm 2010, các tập đoàn, tổng công ty đầu tư 10.128 tỷ đồng vào lĩnh vực
ngân hàng; năm 2009 là 8.734 tỷ đồng; năm 2008 là 11.427 tỷ đồng; năm 2007 là 7.977 tỷ đồng
và năm 2006 là 3.838 tỷ đồng.
Tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng so với: Vốn Chủ sở hữu và Tổng tài sản như sau:
Trong thời gian vừa qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty

nhà nước dừng và rút vốn đầu tư vào các lĩnh vực nêu trên (Điều 12 Quy chế quản lý tài chính
của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp khác ban hành kèm theo
Nghị định số 09/2009/NĐ-CP ngày 5/02/2009 của Chính phủ; công văn số 3780/VPCP-ĐMDN
ngày 5/02/2008 và công văn số 6207/VPCP-KTTH ngày 01/9/2010 của Văn phòng Chính phủ).
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 18
Trường hợp đặc biệt có nhu cầu đầu tư vượt quy định phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem
xét, quyết định.
Trong năm 2009 và 2010 phần vốn đầu tư của một số tập đoàn, tổng công ty vào các lĩnh vực
nêu trên tăng so với năm trước là do tình hình kinh tế thế giới và trong nước suy giảm, lạm phát
cao; các công ty cổ phần (thuộc các lĩnh vực nêu trên) do áp lực về vốn đã thực hiện tăng vốn
điều lệ. Tuy nhiên, do các nhà đầu tư khó khăn về tài chính, mặt khác công ty cổ phần cũng khó
khăn về vốn để duy trì hoạt động và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nên nhiều doanh nghiệp đã
tăng vốn điều lệ theo hình thức: chia cổ tức bằng cổ phiếu, thưởng cổ phiếu và cho các cổ đông
hiện hữu quyền mua cổ phần phát hành thêm, nên cơ bản giá trị đầu tư của các tập đoàn, tổng
công ty tăng nhưng tỷ lệ vốn góp không thay đổi hoặc không vượt mức quy định của Chính phủ.
Đối với việc thực hiện quyền mua cổ phần phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu, các tập đoàn,
tổng công ty đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận như: Tập đoàn Viettel; Tổng
công ty Tân cảng Sài Gòn; Tập đoàn Hoá chất Việt Nam; Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt
Nam , nhưng cũng có những tập đoàn, tổng công ty do khả năng tài chính hoặc nếu tiếp tục đầu
tư vào các lĩnh vực nêu trên sẽ vượt mức quy định, nên Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo không
cho phép tiếp tục đầu tư mua thêm cổ phần ở những lĩnh vực này như: Tổng công ty Thành An;
Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam.
Một số tập đoàn, tổng công ty khi thực hiện quyền mua cổ phần phát hành thêm hoặc tiếp tục
góp vốn vào các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán nhưng không báo cáo Thủ tướng
Chính phủ như: Tập đoàn Công nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam; Tổng công ty Giấy Việt
Nam; Tập đoàn Cao su Việt Nam; Tổng công ty Lương thực miền Nam.
Tỷ lệ đầu tư vốn vào các lĩnh vực ngoài ngành kinh doanh chính nói trên của các tập đoàn, tổng
công ty đều trong các giới hạn quy định. Tuy nhiên cũng đã làm phân tán nguồn lực, nhất là vào
các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, bất động sản, chứng khoán vẫn chứa đựng nhiều rủi ro. Đồng
thời phần nào làm méo mó nền kinh tế, phát sinh các tiêu cực, gian lận như Công ty cho thuê tài

chính II.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhiều tập đoàn, tổng công ty đã cơ cấu
lại để giảm dần tỷ lệ vốn góp vào các lĩnh vực nêu trên. Tuy nhiên, do kinh tế thế giới cũng như
trong nước suy giảm nên việc thoái vốn ở những lĩnh vực này chưa hoàn thành được mục tiêu đề
ra.
o Về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
Giai đoạn 2006-2010, cả nước sắp xếp 1.547 doanh nghiệp, trong đó chuyển thành công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên 577 doanh nghiệp, cổ phần hóa 697 doanh nghiệp, còn lại là các
hình thức giao, bán, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản.
Qua sắp xếp, DNNN đã được cơ cấu lại một cách cơ bản, số lượng DNNN giảm mạnh (tính đến
30/9/2011, doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu còn khoảng 1.225 doanh nghiệp), tập
trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần nắm giữ 100% vốn điều lệ được chuyển thành
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 19
công ty TNHH một thành viên. Các nông, lâm trường quốc doanh cũng được chuyển sang hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Các tổng công ty nhà nước đã được sắp xếp lại, kiện toàn về mô hình tổ chức quản lý, đầu tư
phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động. Hầu hết các tổng công ty nhà nước đã được chuyển
đổi sang hoạt động hình thức công ty mẹ - công ty con. Đã cổ phần hóa 16 tổng công ty nhà
nước (trong đó có 3 ngân hàng thương mại quốc doanh). Một số tổng công ty nhà nước mạnh,
hoạt động trong lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh và khả năng phát triển để cạnh tranh và hội
nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả đã được tổ chức lại để hình thành các tập đoàn kinh tế nhà
nước.
2.2 Nhận xét - đánh giá
 Ưu điểm
- Các quy định liên quan đến công tác quản lý vốn, tài sản tại các doanh nghiệp do Nhà nước làm
chủ sở hữu trong thời gian qua cơ bản đã tạo lập môi trường và điều kiện hoạt động kinh doanh
cho doanh nghiệp. Thông qua chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển kinh tế -
xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và phát triển; thực hiện hỗ
trợ doanh nghiệp gián tiếp thông qua việc cung cấp thông tin thị trường, pháp lý; sử dụng các

công cụ quản lý nhà nước như chính sách thuế, tín dụng, tiền lương để điều tiết, định hướng phát
triển doanh nghiệp; kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chính sách pháp luật chủ trương định
hướng của nhà nước đối với doanh nghiệp.
- Đa số các tập đoàn, tổng công ty kinh doanh có hiệu quả, đóng góp số thu cho ngân sách nhà
nước. Nhiều tập đoàn, tổng công ty thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ giao trong việc bảo đảm
việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ thiết yếu của nền kinh tế đối với một
số lĩnh vực như: khai thác và cung cấp than cho cả nước; cung ứng nhu cầu tiêu thụ điện của toàn
xã hội; kinh doanh xăng dầu phục vụ tiêu dùng; sản xuất xi măng; sản xuất và cung ứng nhu cầu
thép; thực hiện xuất khẩu và điều tiết giá lúa gạo, thu mua lúa, gạo, cà phê cho người nông dân
- Các tập đoàn, tổng công ty đóng vai trò quan trọng trong việc bình ổn giá cả, kiềm chế lạm
phát, đảm bảo ổn định xã hội, ngăn ngừa sự suy giảm kinh tế, duy trì việc làm cho người lao
động, không để xảy ra đình công và bảo đảm thu nhập cho người lao động; đầu tư các dự án phát
triển cơ sở hạ tầng, thực hiện các nhiệm vụ công ích ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, hỗ trợ các địa phương nghèo.
- Các tập đoàn, tổng công ty thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao đầu tư những dự án trọng điểm,
quan trọng phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn của đất nước, những dự án lớn
hoặc hiệu quả về kinh tế thấp nhưng ý nghĩa chính trị và hiệu quả về xã hội lại rất lớn mà các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không có đủ khả năng làm hoặc không tham gia,
đặc biệt những dự án có ý nghĩa quan trọng trong việc thay đổi cơ cấu kinh tế vùng miền theo
hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước như: Thủy điện Sơn La; Nhà máy Lọc dầu Dung
Quất; hệ thống thông tin liên lạc; mạng lưới điện tại các vùng sâu, vùng xa
 Những bất cập, khó khăn
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 20
- Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010, các Nghị
định của Chính phủ về quản lý tài chính đối với công ty nhà nước cũng hết hiệu lực thi hành. Để
các công ty nhà nước chuyển sang hoạt động chung theo Luật Doanh nghiệp với các loại hình
doanh nghiệp khác, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 về
việc chuyển công ty nhà nước thành công ty TNHH một thành viên và tổ chức quản lý công ty
TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
- Chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn chồng chéo, chưa quy định

rõ cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý, giám sát công tác: tổ chức nhân sự; xây
dựng phê duyệt hoặc thẩm định trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương hướng, nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh; quản lý, giám sát việc sử dụng vốn, tài sản của các doanh nghiệp do Nhà nước
làm chủ sở hữu.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp vừa chưa bao quát,
chưa thực hiện được theo định kỳ, vừa chồng chéo. Một số doanh nghiệp chưa được thực hiện
kiểm tra, thanh tra, kiểm toán thường xuyên, mặt khác không ít doanh nghiệp trong cùng một
năm phải tiếp nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra phần nào đã ảnh hưởng đến công tác quản lý và hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc phối hợp, sử dụng kết quả thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán chưa thực sự hiệu quả (cả trong trường hợp cùng một nội dung kiểm tra). Việc thực
hiện các kết luận kiểm tra, thanh tra, kiểm toán chưa nghiêm và chưa kịp thời.
- Công tác quản trị, điều hành của nhiều tập đoàn, tổng công ty còn nhiều hạn chế; chậm thay đổi
để phù hợp với yêu cầu quản trị doanh nghiệp theo cơ chế thị trường và xu thế hội nhập; Nhiều
tập đoàn, tổng công ty chậm đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ, chưa thực sự năng động
trong việc cạnh tranh, tiếp cận thị trường đối với hàng hoá, sản phẩm của mình, chưa chú trọng
phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp, có tay nghề cao.
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu tại một số tổng công ty còn nhỏ và chậm, một số
tổng công ty hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp, kinh doanh thua lỗ, nhất là các doanh
nghiệp trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
- Việc huy động quá nhiều vốn để thực hiện đầu tư, đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, thành
lập nhiều công ty con, công ty liên kết hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề của một số
tập đoàn, tổng công ty trong khi năng lực quản lý và khả năng tài chính có hạn đã dẫn tới hệ số
nợ phải trả/vốn chủ sở hữu cao, ảnh hưởng không tốt đến năng lực tài chính và hiệu quả sử dụng
vốn tại doanh nghiệp.
- Một số tập đoàn, tổng công ty trong những năm vừa qua đã tham gia góp vốn vào ngân hàng
thương mại cổ phần, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty bảo hiểm, bất động
sản. Việc đầu tư này chưa thực sự hợp lý khi nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính
còn hạn chế. Mặt khác việc đầu tư vào những lĩnh vực này ở cuối chu kỳ tăng trưởng kinh tế và
bắt đầu của xu hướng khủng hoảng tài chính toàn cầu, dẫn đến tính thanh khoản của thị trường
chứng khoán thấp nên hiệu quả đầu tư không cao hoặc không có hiệu quả.

GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 21
- Việc tuân thủ các quy định của Nhà nước trong công tác quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà
nước tại nhiều tập đoàn, tổng công ty chưa cao, chế độ báo cáo thường xuyên, định kỳ chưa đầy
đủ, không đúng thời gian quy định, chất lượng báo cáo không đảm bảo yêu cầu, thiếu số liệu để
so sánh, đánh giá việc sử dụng vốn, tài sản. Thậm chí một số trường hợp báo cáo thiếu trung
thực.
- Chưa kiên quyết xử lý những doanh nghiệp không báo cáo đầy đủ, kịp thời hoặc nhiều năm liên
tục có sai sót trong công tác quản lý, điều hành, bị xếp loại doanh nghiệp không hoàn thành
nhiệm vụ, làm giảm hiệu lực pháp lý của các chế tài đã được Nhà nước quy định. Một số tổng
công ty kinh doanh thua lỗ liên tục, kéo dài nhưng Hội đồng quản trị (nay là Hội đồng thành
viên) hoặc Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc, Giám đốc không bị xử lý trách nhiệm.
- Một số vướng mắc dưới góc độ pháp lý:
Các văn bản dưới luật về tập đoàn kinh tế đã bị “quá tải”
Về khung pháp lý của tập đoàn kinh tế nói chung, căn cứ pháp lý cao nhất của Tập đoàn kinh tế
đến thời điểm hiện nay được quy định tại chương VII về nhóm công ty tại Luật doanh nghiệp
năm 2005 mà trực tiếp nhất là Điều 149 về Tập đoàn kinh tế. Trong đó luật chỉ quy định: “Tập
đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức
quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế”. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật để quy định về tổ chức và hoạt động của các tập đoàn kinh tế. Do đó, khung
pháp lý để tập đoàn kinh tế hoạt động được trong thực tế mới đang dừng lại ở tầm nghị định của
Chính phủ. Thực trạng này có thể lý giải được vì tập đoàn kinh tế đang trong giai đoạn thử
nghiệm, cần phải có quá trình thí điểm trong thực tế để rút kinh nghiệm từ đó mới quy định ở cấp
độ văn bản luật để đảm bảo sự ổn định của hệ thống pháp luật. Thế nhưng, thay vì thí điểm thực
hiện ở một số ngành lĩnh vực để tổng kết rút kinh nghiệm, mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước lại
được thành lập ở hầu hết các ngành, lĩnh vực mang tính chất “xương sống” của nền kinh tế. Rõ
ràng ở đây đang có sự bất cân xứng giữa việc áp dụng và triển khai một hoạt động kinh tế quan
trọng và sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật để điều chỉnh lĩnh vực ấy. Hiện tại cấp độ nghị
định đã bị “quá tải” trong việc gánh vác sứ mệnh quá lớn là việc điều chỉnh sao cho hiệu quả mô
hình kinh tế tập đoàn, là mô hình kinh tế hoàn toàn lạ lẫm đối với Việt Nam. Kết quả là việc duy
trì sự bất cân xứng nêu trên đang ẩn chứa nhiều rủi ro cho nền kinh tế. Chúng ta hoàn toàn không

ngạc nhiên khi không ít học giả, nhà nghiên cứu có quan điểm bi quan khi đặt ra giả thiết, mô
hình tập đoàn kinh tế nhà nước nếu sau đó được đánh giá là không phù hợp với bối cảnh kinh tế
Việt Nam không biết liệu chúng ta có cơ hội để sửa chữa và hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại
về kinh tế hay không? Bài học Tập đoàn kinh tế Vinashin với khoản nợ khổng lồ hơn 80.000 tỷ
đồng đang là một minh chứng rõ nét cho khả năng có thể xảy ra rủi ro này.
Sự bất bình đẳng về khung pháp lý cho các thành phần kinh tế trong việc thành lập và điều
hành các tập đoàn kinh tế
Hiện nay, hàng loạt các nghị định đã được ban hành và thực thi liên quan đến thành lập, tổ chức,
hoạt động của các tập đoàn kinh tế chỉ áp dụng đối với tập đoàn kinh tế nhà nước. Trong khi đó,
đối với khu vực kinh tế tư nhân, nhu cầu thành lập tập đoàn kinh tế đã trở thành đòi hỏi bức thiết.
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 22
Nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân đã được thành lập và đi vào hoạt động theo mô hình công ty mẹ -
công ty con nhưng còn thiếu khung pháp lý rõ ràng. Một trong những vấn đề mà cộng đồng
doanh nghiệp rất quan tâm là cần phải có các quy định pháp luật trong đó phân biệt cụ thể tập
đoàn kinh tế có đồng nghĩa với các công ty mẹ của chúng hay không? Tập đoàn Hoà Phát, Tập
đoàn Hoàng Anh Gia Lai, Tập đoàn T&T… là những ví dụ hết sức cụ thể. Thực tế tên đầy đủ của
các tập đoàn này là Công ty TNHH Tập đoàn Hoà Phát, Công ty TNHH Tập đoàn T&T…và
dưới chúng là các công ty con do công ty mẹ nắm quyền chi phối. Sự thiếu vắng các văn bản
pháp luật về tập đoàn kinh tế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đẩy các doanh nghiệp
này vào thế không chính danh về mặt pháp lý trong quá trình hoạt động kinh doanh. Điều quan
trọng hơn, các tập đoàn kinh tế tư nhân đang phải chịu đựng sự bất bình đẳng trong việc đối xử
giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong việc có được
khung pháp lý thống nhất để phát triển trong một môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh.
Sự thiếu nhất quán trong cách quan niệm về tập đoàn kinh tế nhà nước
Đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước, mặc dù dành được sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan
nhà nước trong việc có được khung pháp lý để tổ chức và hoạt động, thế nhưng việc xác định địa
vị pháp lý của chúng lại chưa được quy định thống nhất. Điều này thể hiện ở một số điểm sau
đây:
Về tư cách pháp nhân, tại khoản 2, điều 2 Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và
quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác (ban hành kèm theo Nghị định số

09/2009/NĐ-CP ngày 05 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ) đã khẳng định: “ Tập đoàn kinh tế
nhà nước là nhóm công ty có tư cách pháp nhân độc lập, đáp ứng các điều kiện theo quy định của
pháp luật và Tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân độc lập”. Mặc dù đã được quy định rõ
ràng như vậy, nhưng quá trình triển khai thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước, chuyển đổi mô
hình hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp năm
2005 đã có sự thiếu nhất quán về cấu trúc của tập đoàn kinh tế, trong đó đang tồn tại quan niệm
đánh đồng giữa công ty mẹ của tập đoàn kinh tế với tập đoàn kinh tế nhà nước. Do đó, cuối cùng
các tập đoàn kinh tế lại có tư cách pháp nhân. Cụ thể, tại khoản 2 điều 4 Nghị định
101/2009/NĐ- CP về Tập đoàn kinh tế nhà nước đã quy định rõ: ”Tập đoàn kinh tế nhà nước bao
gồm:
a) Công ty mẹ (gọi tắt là doanh nghiệp cấp I) là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ hoặc giữ quyền chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
b) Công ty con của doanh nghiệp cấp I (gọi tắt là doanh nghiệp cấp II) là các doanh nghiệp do
doanh nghiệp cấp I giữ quyền chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên trở lên, tổng công ty theo hình thức công ty mẹ -
công ty con, công ty liên doanh (trong trường hợp chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp),
công ty con ở nước ngoài;
c) Công ty con của doanh nghiệp cấp II và các cấp tiếp theo; ”. Trong khi đó, tại các quyết định
của Thủ tướng Chính phủ trong thời gian gần đây (nửa năm đầu 2010), khi chuyển đổi các công
ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước thành các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 23
động theo luật doanh nghiệp năm 2005 thì lại có quan niệm khác về tập đoàn kinh tế so với các
quy định trên của Nghị định 101/2009/NĐ-CP, trong đó, hầu hết các Nghị định về chuyển đổi mô
hình này đều đánh đồng giữa công ty mẹ của tập đoàn với Tập đoàn kinh tế. Ví dụ: Quyết định
984/QĐ-TTg ngày 25/6/2010 về Chuyển công ty mẹ - Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam
thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu. Trong quyết
định này, Công ty mẹ của Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam sau khi chuyển đổi có tên
chính là ”Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam”. Tại khoản 3 điều 1 Quyết định trên còn
khẳng định ”Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt
Nam, ”. Các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chuyển đổi các công ty mẹ của các Tập

đoàn như: Than khoáng sản Việt Nam, Cao su Việt Nam, Sông Đà, Điện lực, Dệt may đều
tương tự như đối với trường hợp của Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam như đã trình bày
ở trên. Như vậy, tại các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các công ty mẹ của Tập đoàn kinh
tế đang được được hiểu là các tập đoàn kinh tế nhà nước và chúng có tư cách pháp nhân. Rõ ràng
ở đây đang có sự quan niệm hoàn toàn khác nhau về mô hình kinh tế tập đoàn thể hiện bằng các
quy định mâu thuẫn nhau ở các văn bản pháp luật khác nhau của Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ. Những bất hợp lý nêu trên thể hiện sự không nhất quán, thiếu đồng bộ và phối hợp giữa các
bộ, ngành chủ quản trong việc thực thi luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật khác có liên
quan cũng như cách quan niệm về mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước.
Về mô hình quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước, hiện cũng còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng. Công
ty mẹ (doanh nghiệp cấp I) theo quy định tại Nghị định 101/2009/NĐ-CP là doanh nghiệp do
Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ quyền chi phối. Nghị định không nói rõ công ty
mẹ là loại hình doanh nghiệp gì. Tuy nhiên chiếu theo cách phân loại về doanh nghiệp theo quy
định của Luật doanh nghiệp năm 2005 thì có thể khẳng định đây là công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên mà chủ sở hữu chính là nhà nước. Thế nhưng tại điều 20 Nghị định 101 lại quy
định: “Công ty mẹ có Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Ban kiểm soát ”. Sự lai tạp này làm
cho người ta liên hệ đến mô hình quản trị của công ty cổ phần. Có lẽ dụng ý của nhà làm luật
muốn áp dụng mô hình quản trị của công ty cổ phần cho công ty mẹ với lý do là công ty mẹ quản
lý, điều hành số lượng lớn các doanh nghiệp thành viên với số vốn rất lớn nên cần có mô hình
quản trị giống công ty cổ phần. Trong khi đó, các công ty con, cháu trong tập đoàn (doanh
nghiệp cấp II và các cấp tiếp theo) hoàn toàn không phải là các cổ đông và vốn của công ty mẹ
cũng không được chia thành các cổ phần nên việc tạo ra mô hình quản trị trên chỉ mang ý nghĩa
về mặt quản lý nhà nước đối với các chức danh lãnh đạo hơn là để quản trị doanh nghiệp.
Khác với quy định tại Nghị định 101/2009/NĐ-CP, tại khoản 1 điều 19 Nghị định 25/2010/NĐ-
CP ngày 19 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về Về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên và tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên do Nhà nước làm chủ sở hữu có hiệu lực đối với các công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà
nước lại quy định Áp dụng mô hình và cơ cấu tổ chức quản lý công ty, trong đó “Công ty mẹ của
tập đoàn kinh tế, công ty mẹ được chuyển đổi từ tổng công ty nhà nước có cơ cấu tổ chức gồm
Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc và các Kiểm soát viên”. Trong khi đó, đến thời điểm hiện

tại thì Nghị định 101/2009/NĐ-CP vẫn đang có giá trị pháp lý. Với căn cứ pháp lý là Nghị định
25/2010/NĐ-CP, hàng loạt các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển đổi các công
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 24
ty mẹ các tập đoàn kinh tế nhà nước thành các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
nhà nước làm chủ sở hữu quy định các chức danh lãnh đạo như: Chủ tịch Tập đoàn, các thành
viên Hội đồng quản trị là Chủ tịch và thành viên Hội đồng thành viên của các tập đoàn. Trong
khi đó, chưa hề có một văn bản quy phạm pháp luật nào bãi bỏ giá trị pháp lý của Nghị định
101/2009/NĐ-CP.
 Đề xuất
- Phải nhanh chóng thiết lập được khung pháp lý đồng bộ thể hiện quan niệm thống nhất về
tập đoàn kinh tế bằng việc nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị
pháp lý cao và ổn định hơn so với cấp độ nghị định. Nếu cần có thể sửa đổi Luật doanh
nghiệp năm 2005, trong đó có quy định cụ thể về địa vị pháp lý của tập đoàn kinh tế để
có được một văn bản luật về doanh nghiệp thống nhất nhằm tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế khác nhau về việc thành lập và vận hành các mô
hình kinh doanh dưới dạng các tập đoàn kinh tế. Vấn đề này không thể tiến hành chậm trễ
vì hiện tại mô hình tập đoàn kinh tế đã được triển khai ở hầu hết các ngành, lĩnh vực
trọng yếu của quốc gia nên phải có cơ chế pháp lý đủ mạnh thì mới mong nâng cao được
hiệu quả quản lý các tập đoàn và qua đó góp phần hạn chế các rủi ro cho nền kinh tế quốc
dân cũng như tạo điều kiện về khuôn khổ pháp luật cho các tập đoàn hoạt động hiệu quả
và linh hoạt hơn.
- Vấn đề tổ chức quản lý, các quy định về đầu tư kinh doanh cùng chế độ trách nhiệm của
hội đồng quản trị và tổng giám đốc trong các tập đoàn cần phải được xem xét hoàn thiện
để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Cần nhấn mạnh rằng, không có bằng chứng lý
thuyết nào khẳng định doanh nghiệp nhà nước là không hiệu quả dù trên thực tế nhiều
doanh nghiệp nhà nước rất kém hiệu quả. Nhưng cũng có những doanh nghiệp hiệu quả.
Vấn đề là nằm ở khâu quản trị doanh nghiệp và cơ chế quản lý quá trình quản trị đó.
- Theo các chuyên gia kinh tế, trong số vấn đề cần thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước, hay cụ thể hơn là các tập đoàn và tổng công ty nhà
nước, trước tiên, cần xác định lại mục tiêu thành lập tập đoàn và các quy định về đầu tư.

Hai mục tiêu mà hoạt động kinh doanh của đối tượng này cần hướng đến là: thực hiện
chính sách cơ cấu, theo đó các tập đoàn đầu tư kinh doanh trong những lĩnh vực then chốt
của nền kinh tế quốc dân (những lĩnh vực là xu hướng phát triển lâu dài trong nền kinh tế
toàn cầu), các ngành có tác động lan tỏa mạnh; tối đa hóa lợi nhuận.
- Hai mục tiêu này có liên quan nhưng không phải lúc nào cũng cùng nhịp. Khi thực hiện
mục tiêu thứ nhất có thể chưa thực hiện được ngay yêu cầu tối đa hóa lợi nhuận. Ngược
lại, nếu vì tối đa hóa lợi nhuận mà chạy theo những lợi ích ngắn hạn thì sẽ ảnh hưởng đến
mục tiêu thứ nhất.
- Trong 10 năm tới, các tập đoàn kinh tế nhà nước cần tập trung vào mục tiêu thứ nhất.
Như vậy, những ngành nghề mà khu vực tư nhân đã phát triển mạnh, Nhà nước không
cần chiếm cổ phần chi phối, thậm chí là không cần tham gia nữa. Theo ông Trần Xuân
Giá, quan điểm này không mới mà nó đã có và được thực hiện từ hơn chục năm trước và
đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Từ quan điểm này, có thể chuyển nguồn vốn từ doanh
nghiệp này đầu tư sang doanh nghiệp khác để thực hiện chính sách cơ cấu. Đồng thời,
cũng nên đặt các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vào môi trường cạnh tranh quốc tế,
kiểm soát chặt chẽ độc quyền tự nhiên.
GVHD: ThS. Nguyễn Việt Khoa Page 25

×