Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Bai-Giang-Ve-Che-Do-Phong-Kien pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.81 KB, 90 trang )

BÀI MỞ ĐẦU
I. PHÂN KỲ LỊCH SỬ
II. CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN
Lịch sử thế giới trung đại là một giai đoạn trong lịch sử thế giới,
nằn giữa phần cổ đại và cận đại (kéo dài từ thế kỷ V đến giữa thế kỷ
XVII ). Về cơ bản đây là thời kỳ thống trị của chế độ PK.
Chế độ PK là hình thánh kinh tế chính trị - xã hội thứ 3 trong lịch
sử tiến hóa của nhân loại. Phương thức sản xuất PK cao hơn PTSX
CHNL
I. PHÂN KỲ LỊCH SỬ
TOP
Lịch sử chế độ PK được chia làm 3 thời kỳ :
- Thời kỳ 1 : Thời kỳ hình thành và củng cố chế độ PK [ sơ kỳ trung đại ]
- Thời kỳ 2 : Thời kỳ phát triển của chế độ PK [ trung kỳ trung đại ]
- Thời kỳ 3 : Thời kỳ suy tàn và nãy sinh quan hệ sản xuất TBCN [hậu kỳ
trung đại ]
II. CON ÐƯỜNG HÌNH THÀNH CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN
TOP
-Từ chế độ CHNL sang CÐPK tiêu biểu như : Trung quốc , Ấn
độ,
-Từ sự kết hợp giữa sự tan rã của chế độ CHNL của La mã với sự
giải thể của chế độ CXNT cùa người German như ở Tây âu.
-Từ chế độ CXNT sang PK không trãi qua chế độ CHNL như các
nước Bắc Âu, Ðộng âu, Mông cổ, Aírập và nhiều quốc gia châu á khác.
Trong qúa trình hình thành chế độ PK , các quốc gia PK đều trãi qua qúa
trình Phong kiến hóa ( Qúa trình Phong kiến hóa là qúa trình giai cấp
địa chủ phong kiến chiếm đoạt ruộng đất của nông dân và biến nông dân
công xã tự do và các tầng lớp nhân dân lao động khác thành nông dân
phụ thuộc phong kiến hay thành nông nô [ qúa trình nầy diễn ra trong
suốt thời kỳ hình thành chế độ phong kiến).


III. ÐẶC ÐIỂM CỦA CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN
TOP
@ KINH TẾ :
-Thời kỳ đầu vẫn còn kinh tế tự cấp tự túc.
-Ở thời kỳ phát triển, sức sản xuất phát triển, thủ công nghiệp tách
khỏi nông nghiệp. Thành thị trở thành trung tâm hoạt động của thủ công
nghiệp và thương nghiệp.Quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển, từ thành
thị xâm nhập vào nông thôn, đẩy lùi dần nền kinh tế tự nhiên, làm tan rã
dần nền kinh tế lãnh địa.
Ðến thời kỳ suy tàn [hậu kỳ] xuất hiện quan hệ sản xuất TBCN.
@ XÃ HỘI :
Xã hội PK bao gồm hai giai cấp cơ bản :
- Ðịa chủ phong kiến.
- Nông dân phụ thuộc phong kiến hay nông nô.
Ngoài ra trong xã hội còn có các tầng lớp xã hội không cơ bản
khác như : thợ thủ công ,thương nhân,
Mâu thuẩn giai cấp chủ yếu trong xã hội PK vẫn là mâu thuẩn đối
kháng giữa giai cấp nông dân với địa chủ PK . Những cuộc đấu tranh của
nông dân chống địa chủ PK, khởi nghĩa và chiến tranh nông dân luôn xãy
ra trong suốt thời kỳ PK.
Ðến hậu kỳ trung đại, ở Châu âu xuất hiện một giai cấp mới, đó là
giai cấp tư sản. Thời kỳ nầy giai cấp TS là giai cấp tiến bộ - đại diện cho
phương thức sản xuất mới, đấu tranh chống PK- đại diện cho phương
thức sản xuất lạc hậu lỗi thời.
Cuộc đấu tranh của GCTS chống GCÐCPK đã tiến hành tên nhiều
mặt : văn hoá, tư tưởng, tôn giáo, chính trị, xã hội. Cuộc đấu tranh đó
cuối cùng đã dẫn đến CMTS lật đổ CÐPK , xây dựng CÐTBCN
@ CHÍNH TRỊ :
Do tính chất đặc điểm của nền kinh tế, do các hình thái đấu tranh giai cấp
ở mỗi nước mỗi thời kỳ, nên xuất hiện nhiều nhà nước PK khác nhau :

- Phong kiến cát cứ phân quyền.
- Phong kiến tập quyền.
- Quân chủ chuyên chế
- Cộng hòa qúi tộc phong kiến
Tuy khác nhau, nhưng bản chất giai cấp của những hình thức nhà nước đó
là một, đó là bộ máy thống trị của giai cấp địa chủ PK.
@ VĂN HOÁ :
- Văn hóa tinh thần hết sức thấp kém, tôn giáo chiếm địa vị
thống trị trong xã hội, giai cấp địa chủ PK lợi dụng tôn giáo,
biến tôn giáo thành công cụ thống trị tinh thần.
Dưới chế độ PK, tư tưởng và tôn giáo, khoa học và nghệ thuật bị
chủ nghiã duy tâm thần bí, chủ nghiã giáo điều, chủ nghiã kinh viện, cùng
những quan niệm về đạo đức lễ giáo PK kiềm hãm, làm cho xã hội PK
rơi vào mù mịt, nên người ta thường gọi thời trung cổ là đêm trường cổ
hay đêm trường trung đại
Tuy nhiên, từ thực tiễn đấu tranh sản xuất và đấu tranh xã hội, nhân
dân lao động đã tạo nên những thành tựu to lớn về văn hóa vật chất và
tinh thần. Ðó là những cống hiến qúi báu cho nền văn hóa của nhân loại.
Những tính chất kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa trên là qui luật
chung của chế độ PK.Song mỗi quốc gia PK đều ra đời và phát triển
trong những hoàn cảnh khác nhau, cho nên mỗi quôc gia đều thể hiện
tính qui luật chung vừa có những đặc điểm riêng.
• Ðặc điểm riêng của các quôc gia phong kiến Tây âu:
Xây dựng trên một khu vực đất đai không rộng, nhưng cư dân thưa
thớt và phân bố tương đối đều. Trên khu vực nầy trước kia đã trãi qua chế
độ CHNL phát triển cao và tan rã triệt đê, cho nên các yếu tố của chế độ
PK đã hình thành đấy đủ và phár triển từ thấp đến cao.
• Ðặc điểm riêng của các quốc gia phong kiến phương đông :
-Xây dựng trên một khu vực đất đai rộng, nhưng cư dân phân
bố không đều, thường tập trung trên khu vực các con sông lớn ( mà việc

trị thủy đòi ỏi phải có nhà nước tập trung đứng ra tổ chức quản lý)
- Chế độ PK ra đời sớm [ TQ 221 BC ] , dù trước kia có trãi qua chế độ
chiếm hữu nô lệ hay chuyển thẳng từ chế độ CXNT sang PK, nhưng đều
tồn tại dai dẳng nhiều tàn dư của chế độ cũ ( như tổ chức công xã nông
thôn, ruộng đất công hữu, chế độ nô lệ, ).
Quyền sở hữu ruộng đất tối cao thuộc về nhà nước, song bên cạnh
còn tồn tại sở hữu ruộng đất PK và chế độ ruộng đất tư hữu tư nhân.
- Hoàng đế có quyền lực chuyên chế rất lớn. Toàn thể cư dân trong nước
đều là thần dân hay bầy tôi của hoàng đế, phụ thuộc chính quyền hoàng
đế.
Giai cấp địa chủ PK luôn tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nông dân,
khuynh loát lẫn nhau và lấn át vào hình thức sở hữu ruộng đất của nhà
nước
- Những cuộc chiến tranh PK giữa các tập đoàn PK với nhau, giữa
các tập đoàn PK với chính quyền hoàng đế xãy ra liên tục. Nông dân vừa
bị sự thống trị của nhà nước, vừa chịu sự áp bức bóc lột của giai cấp địa
chủ PK. Vì vậy phong trào đấu tranh của nông dân ở phương đông nổ ra
rất lớn và rất khốc liệt. Nhiều cuộc đấu tranh đã tiêu diệt cả một triều đại
PK.
CHƯƠNG 1 : CÁC QUỐC GIA PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI
TRUNG KỲ TRUNG ĐẠI (V-VII)
I. SỰ THÀNH LẬP CÁC VƯƠNG QUỐC MANTỘC CỦA NGƯỜI
ÌGERMAN TRÊN LÃNH THỔ ĐẾ QUỐC TÂY LA MÃ
1. Tình hình Tây Âu sau khi đế quốc La Mã diệt vong
2. Sự ra đời và phát triển của vương quốc FRANCE
II. SỰ THÀNH LẬP VÀ TAN RÃ CỦA ĐẾ QUỐC
CHARLEMAGNE - SỰ RA ĐỜI CỦA 3 QUỐC GIA PHÁP -
ĐỨC - Ý
III. TÌNH HÌNH KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA CÁC
QUỐC GIA PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI SƠ KỲ TRUNG ĐẠI

I. SỰ THÀNH LẬP CÁC VƯƠNG QUỐC MANTỘC CỦA
NGƯƠI ÌGERMAN TRÊN LÃNH THỔ ÐẾ QUỐC TÂY
LA MÃ
TOP
Người German là những bộ tộc lớn, thuộc chủng tộc ARIAN ( hay
Ấn-Âu ), đã đến sinh sống trên vùng biên giới phiá Bắc và Ðông Bắc La
mã từ nhiều thế kỷ trước.
Thế kỷ thứ I BC, người German còn sống trong tình trạng lang thang
du mục, sống chủ yếu nhờ săn bắn và chăn nuôi cùng với nông nghiệp đốt
rẫy. Ruộng đất là của chung của thị tộc.
Sang thế kỷ I, người German sống định cư, lập thành thôn xóm, sống
chủ yếu nhờ nông nghiệp.Thế kỷ IV , V họ bắt đầu tiến bộ. Về nông
nghiệp, họ đã có cày bằng lưỡi sắt do súc vật kéo. Về thủ công, đã có các
ngành kim khí, dệt, đồ gốm. Sở hữu ruộng đất vẩn thuộc tập thể thị tộc,
nhưng đã giao quyền sử dụng cho từng gia đình cá thể, chứ không phải
cộng đồng gia tộc lớn như trước.
Do sự phát triển kinh tế cùng với sự gia tăng dân số, người German có
nhu cầu mở rộng đất đai để sinh sống, nên từ thế kỷ thứ III , một số bộ lạc
của người German đã di cư vào bên trong đế quốc La mã ( như bộ lạc của
người Wisigoths, Franc, ) và nhận làm đồng minh của người La mã.
Như vậy, lãnh thổ La mã không còn đóng kín đối với các bộ lạc của
người German nữa.
Giữa thế kỷ IV, các bộ lạc du mục Hung nô ào ạt xông vào cườp phá
Ðông và Nam Âu, làm cho các bộ lạc thuộc tộc German vội vã di cư
vàobên trong đề quốc La mã ( lịch sử gọi là cuộc di chuyển lớn của các
tộc, kéo dài suốt 2 thế kỷ IV - V )
Lúc nầy đế quốc La mã bắt đầu suy yếu, giai cấp chủ nô La mã lại
tăng cường áp bức bóc lột, làm cho những người German ở bên kia biên
giới nhiều lần liên kết với nô lệ và lệ nông khởi nghiã.
Kết qủa là hầu hết đất đai của La mã bị những người Man tộc chiếm

đoạt, và họ lập ra những vương quốc Man tộc : Wisigoths , Vandanes
, Burgondes , France và Anglo - sachxon. ( tất cả các vương quốc
nầy đều thuộc tộc German )
Ðến năm 476, viên tướng Man tộc chỉ huy quân cấn vệ của hoàng
đế La mã là Odoacre đã phế bỏ vị hoàng đế cuối cùng của đế quốc
Tây La mã là Romulus Augustulus và xóa bỏ bộ máy chính quyền
tối cao của đế quốc La mã. (sự kiện
này đánh dấu sự diệt vong của đế quốc Tây La mã, đồng thời cũng thủ
tiêu chế độ chiếm hữu nô lệ ở Tây âu)
1- Tình hình tây âu sau khi đế quốc LA MÃ diệt vong
TOP
@ KINH TẾ :
Ruộng đất được đem chia cho các gia đình cá thể, các thành viên
thị tộc không sống theo quan hệ huyết thống nữa, mà sống theo quan hệ
láng giềng và lập nên các công xã nông thôn Mác-cơ (Mark).
@ CHÍNH TRỊ
Ðể bảo vệ đất đai và thống trị đất nước, người German đã lập chính
quyền và củng cố chính quyền. Thủ lĩnh quân sự tối cao được gọi là vua,
vua mang đất đai và lệ nông ban tặng cho các tùy tùng, một số quan chức
trước kia của chính quyền La mã cũng được sử dụng để gíup việc cho
chính quyền. Tất cả trở thành qúi tộc mới.
Ðất vua ban tặng cho qúi tộc gọi là Thái ấp, nên chế độ nầy gọi là
chế độ Phong hầu kiến ấp, nhà nước đó gọi là nhà nước Phong kiến tảo
kỳ
@ XÃ HỘI :.
Sự phân hóa giai cấp và tài sản của người German khá rõ rệt ngay
sau khi các vương quốc Man tộc mới thành lập. Thời kỳ nầy xã hội có hai
hình thái kinh tế :
- Kinh tế công xã nông thôn Mark [ là tổ chức hoá độ từ chế độ
CXNT sang xã hội có giai cấp và nhà nước .

- Kinh tế thái ấp của bọn qúi tộc German [ sử dụng sức lao động
của lệ nông, là sự kế thừa mầm mống của chủ nghiã PK đã có từ thời
CHNL ].
Với hai hình thái trên, nó chưa đại diện cho phương thức sản xuất
PK, mà chỉ là hình thái tiền PK đến khi chủ nghĩa PK phát triển lên, nó
được thay thế bằng PTSXPK điển hình, đó là chế độ Phong kiến - nông
nô.
2 - Sự ra đời và phát triển của vương quốc FRANCE
TOP
a - Sự thành lập nhà nước :
Vào thế kỷ thứ III, bộ tộc France đã đến định cư ở vùng biên giới
Ðông bắc đế quốc Tây La mã và hạ lưu hữu ngạn sông Rinh. Ðến thế kỷ
IV - V , họ vượt sông Rinh xâm nhập vào vùng Ðông Bắc xứ Gaule và
nhận làm đồng minh của đế quốc Tây La mã. ( khi vị hoàng đế La mã bị
phế bỏ, thì tại Gaule chính quyền La mã vẫn còn , do một thống đốc La
mã là Syarius thống trị) . Ðến khi chính quyền La mã suy tàn, thì bọn qúi
tộc France liên kết với nhau bầu Clovis làm tổng chỉ huy, tiến hành chiến
tranh xâm lược xứ Gaule.
Năm 486, Clovis đánh bại Syarius, chiếm Gaule và thành lập lên
các công xã nông thôn Mark. (Clovis chiếm đoạt riêng cho mình nhiều
đất đai và đem ban tặng cho bọn qúi tộc France, nhiều chủ nô La mã đã
ngã theo Clovis cũng được ban tặng). Ðể bảo vệ đất đai, Clovis đã ban
hành bộ luật Saliens. Ðây là bộ luật củng cố sự bất bình đẳng trong xã
hội. [ qua câu chuyện cái bình Sachxon].
Trong xã hội ngoài hai giai cấp chính : Ðịa chủ qúi tộc và nông dân
công xã, còn tồn tại khá nhiều nô lệ và lệ nông.
Xã hội vương quốc France bao gồm hai thành phần :
- Thống trị : Vua, qúi tộc quan tòa, Tăng lữ giáo hội, Quân đội vệ
binh.
- Bị trị : Nông dân tự do, Nô lệ và lệ nông.

Sự phát triển quan hệ PK ở vương quốc FRANCE
Vương triều MÉROVINGIENS
đầu tiên của vương quốc France, đã sáng lập ra triều đại Mérovingiens.
Ðể cũng cố triều đại, Clovis tăng cường mở rộng lãnh thổ bằng cách xâm
chiếm và chinh phục các bộ lạc chung quanh. Ðồng thời Clovis tiếp thu
tín ngưỡng Cơ đốc giáo và cưỡng bức tất cả những người France phải tin
theo, dần dần tăng lữ của giáo hội cơ đốc giáo trở thành đẳng cấp có đặc
quyền và trở thành một bộ phận của giai cấp thống trị.
Cuối thế kỷ VII đầu thế kỷ VIII , quyền lực của nhà vua bắt đầu yếu
ớt, trước tình hình đó, Charles Martel là thừa tướng cuối triều
Mérovingiens đã đề ra một cải cách gọi là cải cách BÉNEFICIUM
( nghiã là vật ban cấp )
# MỤC ÐÍCH CẢI CÁCH :
* Hạn chế quyền lực của bọn qúi tộc địa phương.
* Tập trung quyền lực vào tay nhà vua để đối phó với các bộ lạc và
những quốc gia chung thường xuyên đến cướp phá vương quốc
( nguy hiểm nhất là quân đội Hồi giáo ẢRập)
# NỘI DUNG CẢI CÁCH :
Charles Martel thi hành hình thức ban cấp ruộng đất kèm theo điều
kiện phục vụ quân sự gọi là Béneficium. Theo hình thức nầy, người được
hưởng ruộng đất phải ký một bản giao kèo là thề trung thành với Vua,
theo đó phải thực hiện nghiã vụ 40 ngày/năm, tham dự những buổi họp
quan trọng. Ngược lại Vua phải bảo vệ tính mạng và kinh tế cho người
được phong.
# HẬU QỦA :
- Hình thành đẳng cấp phong kiến quân sự, giữa các đẳng cấp có sự
lệ thuộc lẫn nhau.
- Làm cho nông dân phá sản nhiều hơn.
- Làm cho nông dân phá sản nhiều hơn.
Tóm lại : Nhờ thi hành chính sách đất phong Béneficium, mà Charles

Martel đã liên tiếp đánh thắng quân thù, đặt biệt là đã đánh bại được
quân đội ẢRập trong trận đại chiến ở Poitiers năm 732, chặn được bước
tiến của quân Aírập vào sâu nội địa Tây âu.
C- Vai trò của giáo hội Cơ đốc giáo :
Trong sự phát triển của vương quốc France, giáo hội cơ đốc giáo đã
gớp phần quan trọng thúc đẩy quan hệ PK. Giáo hội được Vua ban tặng
nhiều ruộng đất và nông nô. Nhân dân lao động vì mê tín, nên cũng đã
mang tài sản của mình hiến cho nhà thờ để nhận sự bảo hộ của nhà thờ
và trở thành nông nô.
Cơ cấu của giáo hội Cơ đốc giáo Tây âu được tổ chức như sau :
II - SỰ THÀNH LẬP VÀ TAN RÃ CỦA ÐẾ QUỐC
CHARLEMAGNE SỰ RA ÐỜI CỦA 3 QUỐC GIA PHÁP -
ÐỨC - Ý
TOP
1 - Vương triều CAROLINGIEN & Ðế quốc CHARLEMAGNE :
Vào khoảng thế kỷ VIII, bọn qúi tộc France thấy rằng đất đai trong nội
địa không đủ để chúng mở rộng, vì vậy chúng muốn bành trướng ra bên
ngoài để chiếm đoạt ruộng đất và nông nô, nên đã ủng hộ PEPIN lùn
( Pepin Le Bref ) lật đổ vương triều Mérovingien lập ra triều Carolingien.
Ðến năm 768, con của Papin là Charlemagne lên kế vị, đã đưa vương
quốc France đến chổ cực thịnh. Chính sách của Ông là dựa vào bọn qúi
tộc PK và giáo hội Thiên Chúa giáo. Trong 46 năm cầm quyền,
Charlemagne đã tiến hành 55 cuộc viễn chinh lớn nhỏ chinh phục khắp
nơi. Kết qủa là Ông đã thành lập được một đế quốc Charlemagne rộng
lớn, biên giới chạy dài từ sông Ebre ( Tây Ban Nha ) đến sông Elbe ( Ðức
) [ Bao gồm Ðức, Pháp, Bỉ, Hà lan , Aïo và một phần nước Ý ngày nay].
Ðến năm 800, Giáo hoàng chính thức làm lễ lên ngôi Hoàng đế cho
Charlemagne.
2 - Sự tan rã của đế quốc Charlemagne .
Sự ra đời của 3 quốc gia Pháp - Ðức - Ý :

- Nguyên nhân :
* Thiếu yếu tố kinh tế và yếu tố dân tộc thống nhất.
* Bọn qúi tộc địa phương luôn chống đối chính quyền trung ương.
* Người thừa kế Charlemagne bạc nhược không đủ khả năng
cai trị đất
nước .
- Diễn tiến :
Sau khi Charlemgne chết (814), con là Louis Mộ Ðạo lên thay thấy không
đủ khả năng cai trị đất nuớc, nên đã chia vương quốc ra làm 3 phần giao
cho 3 người con cai trị. Thế nhưng do bọn lãnh chúc địa phương xúi giục,
nên 3 anh em liên tục đánh nhau , đến năm 843, ba anh em ký với nhau
hiệp ước Verdun ( ngày nay thuộc Pháp) chia đế quốc ra làm 3 phần.
- Anh cả LOTHAIRE, giữ phần Trung bộ của vương quốc , trong
đó có hai kinh đô là Aix - La - Chappelle & La mã , hình thành nên
quốc gia PK Ý.
- Người thứ hai LOUIS LE GERMANIQUE ( Louis xứ Ðức ) ,
cai trị phần Ðông bộ của vương quốc [ đông France ], lập nên quốc gia
PK ÐỨC
- Em út CHARLES LE CHAUVE ( Charles Ðấu Hói ) chiếm
phần Tây bộ của vương quốc, lập nên quốc gia PK PHÁP.
Ðây là 3 quốc gia phong kiền phân tán, nên quyền lực của nhà Vua bị thu
hẹp lại trong lãnh địa của mình.
@ HẬU QỦA :
Chiến tranh thường xuyên xãy ra giữa các nước và giữa bọn qúi tộc
lãnh chúa ở mỗi nước, tạo điều kiện cho các bộ tộc và những quốc gia lận
cận đến cướp phá.
Lãnh chuá địa phương lợi dụng tình hình , nên tăng cường xây
dựng quyền lực tự trị , biến đất phong thành cha truyền con nối , tăng
cường cướp bóc dân chúng, buộc họ phụ thuộc vào mình và chẳng bao
lâu những người nông dân đã biến thành nông nô.

Qúa trình phong kiến hóa đến đây là hoàn thành.
III - TÌNH HÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA
CÁC QUỐC GIA PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI SƠ KỲ
TRUNG ÐẠI
TOP
1- Tình hình kinh tế và tổ chức lãnh địa phong kiến
a- Kinh tế:
Kinh tế tự nhiên chiến địa vị thống trị, nông nghiệp và chăn nuôi là
những ngành sản xuất chủ yếu. Riộng đất là tư liệu sản xuất chính, thủ
công nghiệp phụ thuộc vào nông nghiệp. Hình thức sản xuất - tiêu thụ là
tự cung tự cấp, người sản xuất chính là nông nô.
b - Lãnh địa phong kiến :
Toàn bộ hoạt động kinh tế trong xã hội phong kiến sơ kỳ đều tập trung ở
các lãnh địa phong kiến.
_ Lãnh địa phong kiến là một khu vực đất đai khá rộng lớn, bao gồm :
ruộng đất , đồng cỏ, rừng rú, ao hồ, sông đầm, bãi hoang,
_ Quyền sở hữu lãnh địa thuộc về qúi tộc vũ sĩ ( Vua và qúi tộc chư hầu)
hay qúi tộc tăng lữ ( giáo hoàng, giám mục và tu sĩ) .
_ Chủ của lãnh địa là lãnh chúa, lãnh địa có quyền thừa kế, người sản
xuất chính trong lãnh địa là nông nô, nông nô phải nộp tô lao dịch và
những cống vật cho lãnh chúa.
. 2 - Chính trị :
Thời kỳ nầy về cơ bản là chế độ phong kiến phân quyền, nên quyền
lực của nhà Vua thật nhỏ bé, quyền lực thực tế nằm trong tay lãnh chúa
phong kiến. Ðặc biệt kề từ khi có luật Miễn trừ các lãnh chuá thật sự trở
thành các ông vua con. Quốc gia bị chia thành những công quốc, bá quốc
( thực chất những công quốc hay bá quốc là những quốc gia thật sự ) .
Tuy nhiên giữa các lãnh chuá lớn nhỏ có mối quan hệ nhất định. Lãnh
chúa nầy có thể là phong quân của lãnh chúa kia, đồng thời là chư hầu
của lãnh chúa khác.

3 - Xã hội :
Xã hội phong kiến có hai gia cấp cơ bản : Lãnh chúa và nông nô .
Nông nô : người sản xuất chính trong xã hội, chiếm hữu tư
liệu sản xuất, có kinh tế riêng nhưng bị gắn chặt vào ruộng đất, nên hoàn
toàn phụ thuộc vào lãnh chúa phong kiến về thân thể, tư pháp.
CHƯƠNG 2 : CÁC QUỐC GIA PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI
TRUNG KỲ TRUNG ĐẠI ( XI - XV )
I. THÀNH THỊ VÀ CÔNG THƯƠNG NGHIỆP TÂY ÂU
1. Sự ra đời của thành thị
2. Hoạt động của thành thị
3. Đ ấu tranh của thành thị chống lãnh chúa phong kiến
4. Tác dụng của thành thị trong xã hội phong kiến Tây Âu
II. GIÁO HỘI THIÊN CHÚA GIÁO - PHONG TRÀO VIỄN CHINH
CHỮ THẬP
1. Tổ chức của thiên chúa giáo
2. Phong trào viễn chinh chữ thập
III. CÁC VƯƠNG QUỐC ANH - PHÁP XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ
CHÍNH TRỊ PHONG KIẾN TẬP QUYỀN
1. Ở Pháp
2. Nước Anh chuyển từ chế độ phong kiến phân quyền sang
chế độ phong kiến tập quyền
IV. VĂN HÓA TÂY ÂU THỜI SƠ VÀ TRUNG KỲ TRUNG ĐẠI
I -THÀNH THỊ VÀ CÔNG THƯƠNG NGHIỆP TÂY ÂU
1- Sự ra đời của thành thị
TOP
- Thế kỷ XI, kinh tế Tây âu có một bước phát triển đáng kể
* Trong nông nghiệp :
Rừng rậm được khai phá, đầm lầy được tát cạn, nên diện tích canh
tác được mở rộng. Phương pháp canh tác được cải tiến ( luân canh 3 khu,
dùng cày nặng có bánh xe, sử dụng phân bón, ) nên thu hoạch tăng ( đạt

5, 6 lần thóc giống).
* Trong chăn nuôi :
Số lượng Bò, Ngựa tăng lên nhiều. Ðặc biệt nuôi cừu để lấy lông dệt dạ.
* Trong thủ công nghiệp :
· Nghề khai thác quặng, chế tạo đồ sắt ( công cụ sản xuất và vũ khí)
· Nghề làm đồ gốm cũng phát triển, làm xuất hiện những người làm
nghề thủ công riêng biệt.
Như vậy, nhờ sự phát triển của nến kinh tế, thủ công nghiệp dần dần
tách ra khỏi nông nghiệp, tuy nhiên những người thợ thủ công vẫn là
nông nô và sống trong lãnh địa, nên phải nộp tô thuế cho lãnh chúa.Vì thế
những người thợ thủ công bắt đầu rời khỏi lãnh địa bằng cách chuộc lại
tự do thân thể hoặc bỏ trốn. Họ tìm đến những nơi thuận lợi như ngã ba
sông, ngã tư đường, những chân tường của nhà thờ, tu viện, mở xưởng
thủ công để việc trao đổi mua bán được dễ dàng.
Những ngành thủ công sớm thoát khỏi nông thôn và lãnh địa là những
ngành luyện kim, dệt dạ, làm đồ gốm, thuộc da, xây dựng, Những ngành
nầy yêu cầu kỹ thuật cao, cần phân công chuyên môn hóa và cần đông
người , nên sớm tập trung lại.
Những nơi tập trung những người thợ thủ công dần dần lập thành thành
thị
# Thành thị trung đại có 3 loại :
- Thành thị mới : Do những người thợ thủ công thoát ly khỏi nông
thôn lập nên
- Thành thị cổ : Thành thị có từ thời cổ đại được phục hồi lại
- Thành thị do lãnh chuá qúi tộc phong kiến xây dựng lên cho thị
dân thuê.
Các thành thị đều có thành lũy và tháp canh bao bọc chung quanh
( để ngăn ngừa chiến tranh và cướp bóc). Trong thành thị được hcia thành
nhiều khu phố, mỗi khu phố tập trung những người thợ thủ công cùng
ngành nghề. Nhà cửa trong thành thị thì nhỏ bé, lụp xụp, đường phố chật

hẹp bẩn thỉu. Ngoài ra trong thành thị còn có những khu chợ, nhà thờ, tòa
thị chính là những nơi tập trung công cộng.
2- Hoạt động của thành thị
TOP
Cư dân sống trong thành thị gọi là thị dân (gồm thợ thủ công tự
do, thương nhân tự do) . Trong buổi đầu hoạt động của thành thị gặp khó
khăn do thành thị còn nằm dưới quyền thống trị của lãnh chúa PK.
Dần dần về sau hoạt động của thành thị ngày càng phồn thịnh,
dân cư ở nông thôn kéo lên thành thị ngày càng nhiều, làm cho đất đai
trong thành thị chật hẹp, cư dân phải xây dựng nhà cửa bên ngoài thành
lũy. Như vậy thành thị ngày càng được mở rộng theo hình tròn đồng tâm
# Hoạt động thủ công nghiệp :
Thành thị là nơi sản xuất hàng hóa chủ yếu của xã hội phong kiến.
Sản phẩm được chế tạo tại các xưởng thủ công của thợ thủ công.
Xưởng thủ công có qui mô nhỏ, lao động hoàn toàn bằng tay với
những công cụ thô sơ, đơn giãn.
Mỗi xưởng thủ công có 1 thợ Cả ( thợ chính ) và vài ba thợ học
việc ( thợ bạn ). Họ phải tự cung cấp nguyên vật liệu, dụng cụ và tự tiêu
thụ hàng hóa. Quan hệ giữa thợ bạn và thợ cả là quan hệ hợp tác thầy trò
hay gia trưởng.
Những người thợ thủ công cùng sản xuát một loại hàng hóa ở trong
cùng một thành thị thì tập hợp lại trong một tổ chức gọi là phường hội.
Phường hội lập ra nhằm mục đích :
- Giữ độc quyền sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
- Ðảm bảo quyền lợi giữa những người thợ thủ công cùng ngành nghề
- Ngăn cản những người thợ thủ công không có chân trong thành thị cùng
làm nghề thủ công đó.
- Ðấu tranh chống lại sự sách nhiễu của lãnh chúa PK.
Mỗi phường hội có một qui chế riêng gọi là phường qui . Tức
những điều khoản bắt buộc người thợ phải thực hiện trong qúa trình sản

xuất hàng hóa như :
- Qui định mỗi xưởng có mấy thợ.
- Mỗi ngày làm mấy giờ , dùng những công cụ
sản xuất và nguyên vật liệu gì.
- Quy cách, chất lượng, giá cả sản phẩm,
Phường hội ngoài là một tổ chức đoàn thể (có cờ hiệu) nó còn là một
tổ chức quân sự (mỗi phường hội là một dội tự vệ để bảo vệ thành thị)
# Hoạt động thương mại :
Trong buổi đầu của thành thị, hàng hóa được bày bán ở cửa hàng
(đồng thời cũng là nhà ở của thợ thủ công), nên việc buôn bán chậm
chạp,khó khăn.
Dần dần về sau xuất hiện tầng lớp thương nhân bao mua , họ đem
hàng hó từ thành thị nầy đến thành thị khác hoặc về nông thôn đề bán hay
trao đổi những sản phẩm khác.
Ðến thế kỷ XIII, thương mại mới bắt đầu phát triển, xuất hiện con
đường buôn bán giữa các nước, nhiều đường bộ, đường sông chạy ngang
dọc khắp Châu âu và từ Âu sang Á. Ðường biển cũng phát triển, xuất
hiện nhiều hải cảng sầm uất từ Ðịa trung hải đến Hắc hải.
Ðể thuận tiện trong việc buôn bán, thương nhân Tây âu lập ra một
tổ chức gọi là Hanse (thương hội)
@ Mục đích của Hanse :
Giúp đở nhau vận chuyển, bảo vệ dọc đường đi.
Ðiều chỉnh chế độ tiền tệ, cân đo lường.
Nắm độc quyền thương mại ở những khu vực nhất định.
Ðể thuận tiện cho việc buôn bán quốc tế, thương nhân còn mở hội
chợ (hay chợ phiên). Hội chợ mở tại một địa điểm cố định, thương nhân
các nước mang hàng đến bán , trao đổi, đặt hàng. Hội chợ còn xuất hiện
những quầy đổi tiền và nhận chuyển tiền
3 - Ðấu tranh của thành thị chống lãnh chúa phong
kiến

TOP
Thành thị khi mới ra đời đều nằm trên lãnh thổ của lãnh chúa PK.
Do đó thành thị bị lệ thuộc vào lãnh chúa phong kiến và bị lãnh chúa sách
nhiễu mọi thứ : đóng thuế thân, đi sưu dịch, binh dịch, bị xét sử bất
công,
Ðể hạn chế sự phụ thuộc vào lãnh chúa, thị dân đã lập nên những
hội nghề nghiệp (Phường hội cúa thợ thủ công, Hanse của thương nhân)
nhưng không mấy kết qủa.
Vì vậy, trên lãnh thổ thành thị những mâu thuẫn giai cấp của chế
độ phong kiến trở nên gay gắt cực độ :
- Thị dân giàu không chịu đựng nổi sự tùy tiện của bọn phong kiến.
- Dân nghèo chống lại nạn lao dịch và sưu thuế, chống cướp đoạt và hạch
sách về tòa án.
Tất cả những điều đó dẫn đến chổ bùng nổ cuộc đấu tranh giai cấp.
Từ cuối thế kỷ XI, gọi là những cuộc cách mạng công xã và tiếp diễn
trong các thế kỷ XII , XIII.
# Hình thức đấu tranh :
Ôn hòa : Thành thị bỏ tiền ra nộp cho lãnh chúa để chuộc lại tự do cho
thành thị
(hình thức nầy tránh cho thị dân khỏi đổ máu và thành thị khỏi bị tàn phá)
Vũ trang : Do thái độ tham lam của lãnh chúa, một số thành thị đã tiến
hành
đấu tranh vũ trang (điển hình là thành thị Laon ở Bắc Pháp )
# Kết qủa :
Qua đấu tranh lâu dài có hàng loạt thành thị được giải phóng khỏi
quyền lực của lãnh chuá phong kiến , và những công xã hay quốc gia
thành thị ra đời. ( Các công xã nầy có toàn quyền về chính trị, được tự do
về kinh tế)
Chính quyền thành thị lúc đầu do toàn thể thị dân bầu ra, nhưng
chẳng bao lâu, chính quyền đó trở thành độc quyền của một số thị dân

giàu có (thương nhân, bọn cho vay lãi, chủ nhà đất lón, chủ xưởng, ) ,
bọn nầy có ưu thế về tiền bạc và có nhiều mánh lới về chính trị nên dễ
dàng nắm được chính quyền và dần dần trở thành Thị dân qúi tộc hay
Qúi tộc thành thị , họ thi hành nhiều chính sách hẹp hòi, bất công, gây
thiệt hại cho thị dân lớp dưới.
4- Tác dụng của thành thị trong xã hội phong kiến
TÂY ÂU
TOP
Thành thị không những đóng vai trò quan trọng về hoạt động công
thương nghiệp, tham gia tích cực vào đời sống chính trị của xã hội phong
kiến, thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa giáo dục mà còn có tác động
lớn đến nông thôn phong kiến
a- Thành thị thúc đẩy kinh tế phát triển .
b- Thành thị ra đời làm thay đổi tình trạng xã hội và tăng cường
đấu tranh giai cấp.
c - Thành thị ra đời gớp phần chống phong kiến phân tán , giải
phóng nông nô, thúc đẩy nhanh qúa trình chuyển biến từ chế độ
phong kiến phân quyền sang tập quyền.
d- Thành thị ra đời , thúc đẩy sự phát triển của văn hóa và giáo
dục.
Như vậy, thành thị trung đại tuy còn nằm trong khuôn khổ của chế độ
phong kiến, nhưng nó đã phát huy tác dụng đối với chế độ phong kiến,
thúc đẩy chế độ phong kiến phát triển lên.
II - GIÁO HỘI THIÊN CHÚA GIÁO & PHONG TRÀO
VIỄN CHINH CHỮ THẬP
1- Tổ chức của thiên chúa giáo
TOP
- Ở thời sơ kỳ trung đại , giáo hội cơ đốc giáo ở Tây âu, đã trở
thành lãnh chúa lãnh phong kiến lớn nhất Tây âu. (Chiếm hữu 1/3 tổng số
ruộng đất Tây âu,có hàng vạn nông nô phụ thuộc.)

- Từ năm 1054, giáo hội cơ đốc giáo phân hóa thành hai giáo phái
riêng lẽ.
+ Giáo hội Thiên chúa giáo ở Tây âu do giáo hoàng La mã
đứng đầu.
+ Giáo hội Cơ đốc giáo chính thống ở Ðông âu, đứng đầu là
hoàng đế Bizantium.
Tổ chức của Thiên chúa giáo Tây âu có thể chia thành 2 tầng lớp :
2- Phong trào viễn chinh chữ thập
TOP
a- Nguyên nhân :
+ Sâu xa :
Do kinh tế ngày càng phát triển, nên nhu cầu của bọn qúi tộc ngày
càng tăng lên. Họ có tham vọng về một phương Ðông giàu có.
Thương nhân Tây âu vốn vấp phải đối thủ có thế lực, đó là thương
nhân Ả rập và thương nhân thổ nhĩ kỳ. Họ muốn có cuộc viễn chinh
đông phương để tiêu diệt kể cạnh tranh của mình.
Nông dân Tây âu vốn bị qúi tộc PK áp bức bóc lột nặng nề, họ
tham gia thập tự chinh với ý đồ tìm một nơi sống tốt ở phương Ðông để
thoát khỏi cảnh sống cơ cực.
+ Trực tiếp :
Vào nững năm đầu thế kỷ XI, quân đội Hồi giáo Turk-Seljuk đe
dọa Bizantium và chiếm đóng kinh thành Jerusalem, đồng thời ngược đãi
những tín đồ Tây âu sang viếng mộ Chúa. Trước tình hhình đó, hoàng đế
Bizantium cầu cứu giáo hoàng La mã giúp đở để chống lại Turk-
Seljuk .Ðáp lời kêu gọi của hoàng đế Bizantium, tháng 11 năn 1095 giáo
hoàng Urbain II triệu tập hội nghị ở Clermont (Pháp) , kêu gọi và đứng
ra tổ chức cuộc chiến tranh tôn giáo để giải phóng đát thánh Jerusalem.
a- Tính chất và thành phần tham gia :
Ðây là những cuộc xâm lược cướp bóc, nhưng được ngụy trang bởi
cái võ tôn giáo.Thành phần tham gia gồm giai cấp phong kiến, thị dân

,nông dân.
c - Diễn biến :
Phong trào Viễn chinh chữ thập diễn ra gần hai thế kỷ ( từ năm 1096 đến
1270) bao gồm 8 cuộc viễn chinh lớn nhỏ .
@- Ðợt 1 : ( 1096 - 1099 )
Do Pie Ẩn sĩ lãnh đạo, bao gồm đông đảo nông dân Ðông và Bắc
Pháp (họ mang theo gia đình, tài sản với hy vọng sẽ tìm được mãnh đất
định cư ở phương đông) . Cuối cùng quân chữ thập cũng chiếm được
Antiose (xứ Xiry) và thành Jerusalem , lập nên vương quốc Jerusalem
và các quốc gia latinh khác ở Phương Ðông. Nhưng sau đó bị các quốc
gia Hồi gíao xung quanh tấn công và thu hồi lại gần hết đất đai.
@- Ðợt 2 : (1147-1149)
Gồm đạo quân của Vua Pháp Louis VII và hoàng đế Ðức Conrat III
@ - Ðợt 3 : ( 1147 - 1192 )
Gồm quân của hoàng đế Ðức Frederik I râu hung ; Vua Pháp
Philippe II August ; Vua Anh Richard Tim sư tử . Cả hai đợt nầy do các
đạo quân không thống nhất, mỗi đạo hành động theo một hướng, nên
cuối cùng thất bại.
@- Ðợt 4 : (1202-1204)
Do Giáo hoàng Innocento III (cầm đầu giáo hội từ năm 1198 đến
1216) đứng ra vận động và kêu gọi tổ chức, nhờ có quyền thế, nên ông đã
quy động được 3.5 vạn qúi tộc tham gia.
Năm 1204, quân chữ thập chiếm được kinh thành Constantinople
( vì lúc bấy giờ triều đình Bizanium đang xung đột, nên không có lực
lượng bảo vệ kinh thành) và lập ra đế quốc Latinh Constantinople .
Nhưng quân chữ thập không giữ được bao lâu, năm 1261 hoàng đế Hy
lạp chiếm lại.
Sau khi chiếm được Constantinople, quân chữ thập không còn nghĩ
gì đến đất thánh nữa, mà họ chỉ nghĩ đến chuyện cướp bóc. Ðể lấy lại
uy tín, năm 1212 giáo hoàng Innocento III lại tổ chức tiếp đợt viễn

chinh chữ thập trẻ em . Hàng vạn trẻ em châu âu được tập trung về bến
Marseille (pháp) để đưa xuống tàu vượt biển. Do phương tiện vận chuyển
kém, thiếu thức ăn, nước uống, thiếu dưỡng khí để thở, đã làm cho một
số trẻ em chết đi, số còn lại bị bọn chủ tàu chở sang Ai cập và Bắc Phi
bán làm nô lệ.
Sau đợt 4, viễn chinh không còn thu hút sự chú ý của các tầng lớp xã hội,
vì khả năng cướp bóc thuộc địa không còn, tinh thần tôn giáo cũng nhạt
đi.
@- Ðợt 5 ( 1217-1221)
Chỉ một mình vua Hunggary mang quân đội của mình cùng một số
kỵ sĩ Ðức sang Ai cập đánh nhau được vài trận rồi rút về.
@- Ðợt 6 ( 1228-1229)
Do hoàng đế Frederik II Hohenstaufen ( cháu Fredrrik râu hung) tổ
chức. Vì có ác cảm với giáo hoàng, nên khi sang Jerusalem đã liên kết
với quân đội Hồi giáo để chuẩn bị chống giáo hoàng.
@- Ðợt 7 ( 1248-1254) & Ðợt 8 (1264-1270)
Chỉ một mình Vua Louis IX đem quân sang Ai cập đánh nhau vaì
trận thì bị bắt, phải mất một số tiền lớn mới được chuộc về. Năm 1264,
Ông lại đem quân sang Tuynidy, nhưng tại đây vua chết vì bệnh dịch tả.
d- Kết qủa :
Phong trào viễn chinh chữ thập hoàn toàn thất bại. Tất cả thuộc địa
của quân chữ thập ở Trung cận đông, phái đoàn truyền giáo của giáo hội
Thiên chuá giáo cũng không thu được kết qủa gì đáng kể. Tuy nhiên ,
các cuộc thập tự chinh đã có ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển ở Tây
âu.
_ Về kinh tế :
Thương nhân Tây âu đã phá vỡ được độc quyền thương mại của
người Ả rập và Thổ nhĩ kỳ ở Trung cận đông, chuyển giao dịch thương
mại ở Ðiạ trung hải cho thương nhân tây âu, làm cho hàng hóa từ phương
Ðông chuyển đều đặn sang Phương Tây và nhiều hơn trước.

_ Về văn hóa , khoa học kỹ thuật :
Sau phong trào chữ thập, triết học, văn học , nghệ thuật, điêu khắc
của người Hy lạp được du nhập vào Tây âu thông qua những người A
rập, làm cho tầm hiểu biết của người Tây âu được mở rộng.
Lối sống xa hoa của Phương Ðông cũng được du nhập vào triều
đình và bọn qúi tộc phương Tây.
Trong công nghiệp, những kỹ thuật tiên tiến của phương Ðông như
luyện kim, dệt vãi bông ,nhuộm đã bổ sung cho kỹ thuật còn lạc hậu của
Phương Tây.
Trong nông nghiệp, kỹ thuật làm thủy lợi, các giống cây trồng như
lúa, bông, được du nhập vào phương Tây. Ðặc biệt 3 phát minh lớn của
người Trung hoa là La bàn, nghề làm giấy, thuốc súng cũng được đưa vào
Tây âu thông qua các nước Trung cận Ðông.
_ Về chính trị xã hội :
Làm suy yếu quyền lực của chúa phong kiến, giúp cho việc tăng
cường chính quyền quân chủ trung ương tập quyền. Tạo điều kiện để thị
dân và nông nô thoát khỏi thân phận lệ thuộc.
Tuy nhiên, phong trào viễn chinh chữ thập đã tàn phá nền văn minh, tàn
phá nền kinh tế và gây đau khổ cho hàng vạn người lớn và trẻ em, làm
kìm hãm sự phát triển của các nước Trung cận đông.
III. CÁC VƯƠNG QUỐC ANH - PHÁP XÂY DỰNG CHẾ
ÐỘ CHÍNH TRỊ PHONG KIẾN TẬP QUYỀN
1- Ở PHÁP
TOP
Có thể nói trong các thế kỷ XI - XII, Pháp là quốc gia phong kiến
phân quyền điển hình (vương quốc chia thành nhiều lãnh địa, trong đó có
14 đại lãnh địa - công quốc, bá quốc , giám mục khu ).
Trước tình hình đó năm 987, sau khi vua Louis V chết, vương
triều Carolingiens ở Pháp kết thúc. Bọn bá tước Paris liên kết kại với
nhau và bầu Hugnes Capet lên làn vua, lập nên triều Capetiens (triều

đại nầy kéo dài đến cách mạng tư sản Pháp thì kết thúc).
Thế kỷ XII, thành thị Pháp ra đời và lực lượng thị dân ngày càng
lớn mạnh, thị dân ra sức giúp vua đánh bại các thế lực PK cát cứ, do đó
quyền lực của nhà vua ngày càng được tăng cường.
Sang thế kỷ XIII, các vua Pháp bằng chinh phục quân sự hay do
hôn nhân thừ kế, đã xác nhập nhiều lãnh địa vào vương quôc. (lúc bấy giờ
chỉ còn 4 đại lãnh địa là chưa xác nhập vào vương quốc là : FLANDER
[ đông bắc Pháp] , BOURGOGNE [miền đông], BRETAGNE [tây bắc]
và GUYENNE [tây nam]
Ðồng thời với việc mở rộng lãnh thổ, các vua Pháp còn chú ý đến
việc xây dựng chính quyền trung ương tập quyền và tăng cường khống
chế các chư hầu.
# CHIẾN TRANH TRĂM NĂM GIỮA PHÁP VÀ ANH ( 1337 - 1453
)
# nguyên cớ :
Là sự tranh chấp sứ Flander giàu có , một bá quốc chư hầu cuả
Vua Pháp, nhưng lại có quan hệ kinh tế chặt chẽ với Vua Anh ( sợi của
Flander con thoi của Anh ).
# Nguyên nhân :
Vừa là cuộc xung đột lớn giữa hai quốc gia đang trên đường hoàn
thành chế độ phong kiến tập quyền.
Vừa là cuộc đấu tranh quyết liệt để tiêu diệt thế lực cuối cùng của
bọn phong kiến cát cứ.
# Diễn biến :
· Do có sự chuẩn bị trước về quân sự và ngoại giao, nên trong những
trận giao tranh đầu quân đội Anh luôn luôn thắng thế ( trận thủy chiến ở
Eïcluse 1340 , trận Crésy 1346 , đặc biệt là trận đại chiến ở Poitiers
1356 vua Pháp là Jean le bon cùng một số qúi tộc bị bắt làm tù binh )
. Sau trận poitiers, tình hình nước Pháp trở nên đen tối, kinh tế bị
tàn phá nặng nề, nền chính trị trở nên thối nát, đã dẫn đến cuộc khủng

hoảng kinh tế - chính trị những năm 1356 - 1358 và cuộc nội chiến 1358.
Sau cuộc nội chiến 1358, nước Pháp bị tàn phá nặng nề, buộc phải
xin ký hòa ước đình chiến với Anh.
Sau hòa ước , vua Pháp Charles V khôn ngoan (1364 - 1380) được
qúi tộc đem toàn lực ủng hộ, nhờ vậy vua tăng cường được quyền chuyên
chế, trấn áp bọn phong kiến nổi loạn và đuổi được quân đội Anh ra khỏi
nước Pháp ( vua Anh chỉ còn giữ lại được vài căn cứ : Calais, Bayon ).
Năm 1380, Charles V chết, Charles VI lên ngôi vì vua còn trẻ ( mới
14 tuổi ) nên triều đình bị bọn phong kiến nhũng loạn, đã tạo cơ hội cho
chiến tranh trăm năm tái diễn, mãi đến năm 1453 mới kết thúc.
# Nhìn chung , chiến tranh trăm năm đã làm cho kinh tế hai nước bị suy
sụp, tuy nhiên sau chiến tranh, nhờ vào hoàn cảnh thống nhất đất nước,
kết hợp với tinh thần lao động cần cù của nhân dân, nên Pháp đã sớm
phục hồi kinh tế và phát triển nhanh chóng.
Hậu qủa lớn nhất do chiến tranh trăm năm để lại là làm cho bọn qúi
tộc nghèo đi, nên một số đã chuyển sang làm nghề thủ công, một số tình
nghuyện phục vụ trong triều đình nhà vua và trở thành tầng lớp qúi tộc
quân sự và đình thần .
Sau khi kết thúc chiến tranh, Vua Pháp Louis IX bắt đầu xây dựng
chính quyền trung ương tập quyền. Từ thế kỷ XV trở đi, Pháp đã hoàn
thành thống nhất vương quốc (Lúc nầy các lãnh địa đã được xáp nhập vào
vương quốc) , vương quốc được chia thành nhiều Tỉnh do vua chỉ định
quan cai trị. Trong vương quốc thuế khoá, pháp luật, quân đội được thống
nhất.
Cùng với việc thống nhất chính quyền, chủ nghiã dân tộc tư sản
được hình thành, ý thức dân tộc bắt đầu nãy nở, ngoài tiếng địa phương,
còn có tiếng Pháp chung và nền văn hóa chung.
2- Nước ANH chuyển từ chế độ phong kiến phân quyền
sang chế độ phong kiến tập quyền
TOP

a - Chế độ phong kiến phân quyền ở Anh :
Vào nửa đầu thế kỷ XI (1066), Vương quốc Anglo-Sachxon nằm
trên đảo Anh, bị William là công tước xứ Normandy xâm chiếm. (lúc
nầy tại vương quốc Anglo-sachxon qúa trình nông nô hóa đang diễn ra và
chưa hoàn thành). Vua Anh ( đồng thời là công tước xứ Normandy ) đã
tịch thu rất nhiều ruộng đất và tài sản của những người chống lại Ông và
lập nên lãnh địa của mình ( bằng 1/7 đất đai toàn quốc) . Số ruộng đất còn
lại, vua đem ban cấp cho bọn đại qúi tộc ( Huân tước , bá tước) và đại
tăng lữ. Bọn qúi tộc Anglo-sachxon đầu hàng hoặc không phản đối cũng
được bảo đảm quyền lợi kinh tế như cũ.
Như vậy chế độ phong kiến phân quyền ở Anh được thành lập, tuy nhiên
không sâu sắc và triệt để như ở Pháp và ở Ðức vì vua có quyền lực mạnh
mẽ , khống chế cả bọn qúi tộc và tăng lữ địa phương.
Ðến thế kỷ XII, thành thị ở Anh pháp triển, Vua Anh đã nhận lấy
tiền chuộc của thị dân và công nhận các bản hiến chương thành thị. Do đó
Vua được một lực lượng hùng mạnh ủng hộ đó là thị dân.
Ðể xóa bỏ quyền lực của lãnh chúa địa phương, Vua Anh đã lập ra
tòa án tuần hồi đi hết các địa phương để xét xử ( trừ nông nô vẫn bị
xét xử trong tòa án của lãnh chúa).
Từ giữa thế kỷ XII trở đi, Họ Plantagenet lên cầm quyền ở Anh, đã
đưa nước Anh hùng mạnh nhất Châu âu thời bấy giờ.
b - Khởi nghiã nông dân Wat - Tyler :
+ Nguyên nhân :
- Từ thế kỷ XIV trở đi, nền kinh tế hàng hóa ở Anh phát triển, nhưng
nông dân Anh vẫn điêu đứïng vì phải nộp tô tiền.
- Do ảnh hưởng của nạn dịch đen làm cho nông dân đói khổ, mùa màng
thất thu, nông dân lại phải cung cấp chiến phí cho chiến tranh. Nên một
cuộc khởi nghiã nông dân đã nổ ra.
+ Diễn biến :
Khởi nghiả nổ ra vào năm 1381, do một người thợ nề tên là Wat-Tyler

và nhà truyền giáo John Ball lãnh đạo.
- Ðịa điểm : Ban đầu nổ ra ở vùng Ðông Nam Anh, mạnh nhất là hai bá
quốc Essex và Kent, sau đó lan ra phần lớn nước Anh.
-Tính chất: Trước tiên là chống thuế ( gọi là thuế toàn dân hay thuế đầu
người, đánh vào mọi người từ 15 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái) ,
về sau phong trào phát triển mạnh lên, nông dân chuyển sang bạo động
chống áp bức bóc lột.
Thành phần tham gia : Gồm đại đa số nông dân ở hai bá quốc Essex
& Kent, cùng một số thị dân nghèo ở các thành thị.
Nông dân đã tập hợp thành đội ngũ tấn công vào bọn qúi tộc, phá hủy các
tu viện của giáo hội và lâu đài của lãnh chúa. Ðược sự ủng hộ của thị dân
( họ mở cửa kinh thành London), nghiã quân đả tấn công và chiếm giữ
kinh thành trong 3 ngày (13,14,15 / 06/ 1381), đốt phá nhà cửa của hoàng
tộc , giết một số quan to và đòi gặp Vua Richard II để đưa ra một số yêu
sách.
# Phái Essex đưa ra 4 yêu sách :
- Thủ tiêu chế độ nông nô.
- Ân xá những người khởi nghiã.
- Ðảm bảo tự do buôn bán trong cả nước.
- Qui định mức địa tô tiền cố định.
# Phái Kent đưa ra 3 yêu sách :
- Chia ruộng đất của giáo hội cho nông dân.
- Nông dân được sử dụng mọi tài nguyên công xã.
-Thủ tiêu phân biệt đẳng cấp và pháp luật hà khắc.

×