Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Luận văn - Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.44 KB, 52 trang )









Luận văn

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả
nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh
Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn Láng Hạ













Mục Lục
Mục Lục 2
LỜI NÓI ĐẦU 3
Chương I: Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ khai thác vốn của ngân hàng


thương mại 5
I/ Khái niệm cơ bản về vốn 5
II/ Vốn và các hình thức tạo vốn của ngân hàng thưong mại trong nền kinh tế
thị trường. 5
III. Vai trò của NHTM trong chiến lược tạo vốn. 14
IV. Hiệu quả nghiệp vụ khai thác vốn. 15
Huy động vốn 16
Chương II. Thực trạng nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ. 16
I. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Láng Hạ. 16
II. Thực trạng nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Láng hạ. 19
III. Những nhận xét rút ra trong hoạt động của chi nhánh NHNN Láng Hạ. . 34
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ khai thác vốn tại
NHNN Láng Hạ. 36
I. Định hướng phát triển nguồn vốn của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ 36
II. Những giải pháp nhm nâng cao hiệu qảu nghiệp vụ khai thác vốn tại Ngân
hàng nông nghiệp Láng hạ. 38
KẾT LUẬN 52

LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động của Ngân hàng gắn liền với cơ chế quản lý kinh tế việc chuyển từ cơ chế
tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đòi hỏi hoạt động của
Ngân Hàng phải là đòn bảy kinh tế, là công cụ kiềm chế và đầy lùi lạm phát nhằm thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế. Hệ thống Ngân hàng đã được cải tổ và hoạt động có hiệu quả,
đóng vai trò nòng cót trên thị trường tiền tệ. Chiến lược kinh tế của Nhà nước đã chỉ rõ
“Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính, tiền tệ nhằm thực hiện tốt các mục
tiêu kinh tế xã hội đến năm 2010”
Chức năng nhiệm vụ to lớn trên của Ngân hàng đặt ra cho ngân hàng phải kành

mạnh về tài chính, vững chắc về quản lý của mình. Hoạt động của ngân hàng chủ yếu là
huy động vôn và sử dụng nguồn, nên việc nghiên cứu nghiệp vụ khai thác vốn nhằm nâng
cao hịêu quả sản xuất kinh doanh của ngân hàng luôn là vấn đề đặt ra trong công tác quản
lý của cán bộ lãnh đạo ngân hàng.
Với mục tiêu gắn liền với lý luận khoa học và thực tiễn qua quá trình thực tập thại
chi nhánh ngân hàng nông nghiệp Láng hạ, được sự giúp đỡ của ban lãnh đạo, của cán bộ
nhân viên phòng kinh doanh và phòng kế toán, đồng thời có sự góp ý kiến tận tình của cô
giáo Trần Thị Thuý Sửu, tôi đã cân nhắc và chọ đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu
quả nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn Láng Hạ.”
I / Tính cấp thiết của đề tài.
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và nghị quyết đạt hội VII
Đảng bộ thành phố Hà Nội về phát triển kinh tế nisc ta theo theo hướng CNH  HĐH, duy
trì nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm từ 9 10% hàng năm Việt Nam cần huy động
vốn lớn chiếm từ 25  30% GDP. Trong đó nguồn ngân hàng đóng vai trò to lớn đáp ứng
nhu cầu về vốn của nền kinh tế.
Nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
điều tiết của nhà nướ, nhu cầu về vốn là rất lớn để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước. Vì vậy vấn đề cần thít đặt ra là, một mặt ra sức tận khai mọi nguồn vốn có thể có
trong nước đến mức cao nhất, coi đây là nguồn vốn có tính chất cơ bản cho sự phát triển,
mặt khác thu hút một cách có hiệu quả nguồn vốn từ nước ngoài để bổ xung cho việc thiếu
hụt của nguồn vốn trong nước.
Để tồn tại và phát triển Ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ phải có chiến lược phát
triển nguồn vốn có sức hấp dẫn và phong phú đủ sức cạnh tranh trên thị trường, trước tình
hình đó đề tài đã được lựa chọn nghiên cứu.
II/ Mục đích nghiên cứu.
+ Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ khai thác vốn.
+ Phân tích thực trạng nghiệp vụ khai thác vốn tại ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ
và có định hướng cho những năm tới.
+ Nêu lên những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nhu

cầu về vốn cho nền kinh tế của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng nông
nghiệp nói riêng, trong mối quan hệ hài hoà với các phương thức tạo vốn khác.
III/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
1/ Đối tượng nghiên cứu.
Ngiên cứu những nội dung chủ yếu của nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh ngân
hàng nông nghiệp Láng Hạ.
2/ Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu tác động của nghiệp vụ khai thác vốn đối với hạot động kinh
doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ nói
riêng, mối quan hệ của nghiệp vụ này với sự phát triển của nền kinh tế, từ đó rút ra những
mặt hạn chế, nêu lên những kiến nghị nhằm hoàn thiện và mở rộng nghiệp vụ khai thác
vốn tại ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ.
Về thời gian nghiên cứu: nghiên cứu nghiệp vụ khia thác vốn trong điều kiện thứ tế
hiện nay và đề ra phương hướng trong thời gian tới.
IV/ Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
trên cơ sở các học thuyết kinh tế, đặc biệt là học thuyết chính trị Mac LêNin: Sử dụng
phương pháp chỉ số, phương pháp so sánh khái quát hoá và phương pháp tổng hợp. Sử
dụng số liệu thống kê và mô hình ước lượng để luận chứng.
V/ Những đóng góp mới của đề tài:
 Đề tài đã làm sáng tỏ những luận cứ khoa học mang tính lý luận thực tiễn về hoạt
động tạo vốn của ngân hàng thương mại trong cơ chế thị trường.
 Đề tài đã phân tích và chứng minh được thực trạng về hoạt động tạo vốn của
ngân hàng nông nghiệp Láng hạ và những vấn đề tồn tại cần được tiếp tục giải quyết để
hoàn thiện trong tương lai.
 Đề tài đã đưa ra những giải pháp về vĩ mô, vi mô để nhằm hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả của hoạt động tạo vốn của ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng nông
nghiệp Láng Hạ nói riêng.
VI/ Danh mục các từ viết tắt trong bài viết này.
 NH: Ngân hàng

 NHTM: Ngân hàng thương mại

Chương I: Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ khai thác vốn của ngân hàng
thương mại
I/ Khái niệm cơ bản về vốn
1/ Vốn hiện vật .
Vốn hiện vật là các hàng hoá đã được sản xuất và được sử dụng đẻ sản xuất ra các
hàng hoá và dịch vụ khác có lợi hơn.
Vốn hiện vật bao gồm máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nghuyên nhiên vật liệu dự trữ
do quá trình sản xuất và kinh doanh. Vốn hiện vật và đất đai gộp lại tạo nên tài sản hữu
hình của doanh nghiệp. Chúng là của cải hoặc tài sản bởi vì chúng có tính lâu bền. Chúng
là hữu hình bởi vì chúng là hàng hoá hiện vật có thể sờ thấy được. Lao động kết hợp với tài
sản sẽ tạo ta các sản phẩm cầnthiết cho xã hội.
2/ Vốn nhân lực
Vốn nhân lực là toàn bộ trình độ chuyên môn mà một người lao động tích luỹ được.
Nó được đánh giá cao vì có tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai. Cũng như vốn vật
chất, vốn nhân lực là kết quả đầu tư trong quá khứ với mực đích tạo ra thu nhập trong
tương lai.
3/ Vốn tài chính
Vốn tài chính không phải là tài sản hữu hình. Nó không thể trực tiếp tham gia vào
quá trình sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ mặc dù chúng được sử dụng để mua các yếu tố
dùng để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ.
Như vậy sự kết hợp hài hoà giữa vốn nhân lực, vốn vật chất và vốn tài chính giúp
cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất ra những sản phẩm cần thiết cho xã hội. Bất cứ
một quá trình sản xuất nào cũng cần phải có vốn. Vốn là khâu mắt xích quan trọng đầu tiên
của một quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá .
Vốn tài chính được thể hiện dưới các hình thức tiền tệ. Tiền tệ trong tuỹ nghiệp vụ
của Ngân hàng, tiền tồn quỹ tại các đơn vị và các tổ chức kinh tế, tiền tiết kiệm trong dân
cư. Nguồn vốn này rất phong phú và đa dạng nhưng chúng ta chưa khai thác hết để phục
vụ cho việc phát triển kinh tế.

II/ Vốn và các hình thức tạo vốn của ngân hàng thưong mại trong nền kinh tế
thị trường.
1/ Khái niệm cơ bản về vốn của Ngân hàngthương mại.
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do NH tạo lập hoặc huy
động, dùng để cho vay, đầu tư hoặc hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất, nguồn vốn NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời sản xuất
trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu chúng gửi vào NH
với các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ chỉ có quyền sở hữu còn quyền sử
dụng vốn tiền tệ họ chuyển nhượng cho NH, để rồi ngân hàng phải trả lại cho họ một
khảon thu nhập. Và như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại dưới
hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích tích mọi hoạt
động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và
hoạt động kh của ngân hàng nông nghiệp. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động
của ngân hàng thương mại.
2/ Két cấu và tính chất vốn kinh doanh của NHTM.
2.1/ Vốn tự có.
Vốn tự có củan NHTM là những giá trị tiền tệ của NHTM tạo lập được, thuộc sở
hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi mới thành lập một ngân hàng. Do tích chất
thường xuyên ổn định của vốn tự có, ngân àhng có thể chủ động sử dụng vào các mục đích
khác nhau như; trang bị cơ sở vật chất, tạo tái tài sản cố định (văn phòng, kho tàng, trang
thiết bị ) phục vụ cho bản thân Ngân hàng, cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp
vốn liên doanh. Mạt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo
gây lòng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp
nhiều thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ quyết định đến quy mô và khối lượng vốn
huy động của Ngân hàng (theo pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Công ty tài
chính quy định vốn huy động không được vượt quá 20 lần vốn tự có). Như vậy, quy mo và
sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và ưu thế phát triển của NH. Về
bản chất, vốn tự có là một bộ phận của tài sản nợ, mà mỗi thành phần của nó gắn liền với
một loại nghiệp vụ nhất định.

Vốn tự có của NHTM gồm những thành phần cơ bản sau:
- Vố cơ bản là vốn pháp định - vốn điều lệ. Trong đó mức vốn pháp định là mức
vốn tối thiểu phải có để thành lập Ngân hàng do pháp luật quy ddịnh. Khác với vốn pháp
định, vốn điều lệ lại là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào trong điều lệ hoạt
động của Ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Đối với các Ngân
hàng tư Ngân hàngân, đây là vốn sở hữu riêng của doanh nghiệp và được hìNgân hàng
thàNgân hàng sau một quá trìNgân hàng tích tụ tập trung vốn lại, đối với các Ngân hàng
quốc doanh được phép hoạt động trên cơ sở vốn ban đầu do ngân sách cấp. Vốn điều lệ của
các Ngân hàng cổ phần do các cổ đông đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu, còn với
Ngân hàng liên doanhlà sự góp vốn từ các bên liên doanh.
- Vố tự có bổ sung: Vốn của các NHTM không ngừng được tăng lên theo thời gian
nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vố tự có bổ sung bao gồm:
+ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, có mục đích tăng cường vốn tự có ban đầu.
+ Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ.
+ Ngoài các quỹ trên, vốn tự có bổ sung còn bao gồm phần lợi nhuận chưa phân bổ
hoặc các quỹ nghiệp vụ khác như: Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ Ngân hàng, quỹ phúc
lợi, khen thưởng, khấu hao
2.2. Vốn huy động.
Vốn lưu động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông quá quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng,
thanh toán các nghiệp vụ kinh doanh khác và được làm vốn để kinh doanh.
Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân hàng
chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi
đến kỳ hạn (đối với tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn để chi trả (đối với
tiền gửi không có kỳ hạn). Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động
kinh doanh của NHNN.
Vốn huy động luôn biến động, nên Ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn
đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán.
Vốn huy động bao gồm:

- Tiền gửi: tiền gửi tại NHTM bao gồm tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ
hạn.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: là khoản tiền gửi mà người sử dụng có thể rút ra bằng séc hay
tiền mặt để có thể sử dụng chúng báat cứ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó
của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có mức lãi suất thấp hoặc không được trả lãi và
bao gồm hai loại:
i. Tiền gửi thanh toán: Đó là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử
dụng để tiến hành thanh toán, chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Thông thường tiền
gửi có kỳ hạn là khoản tiền có thời hạn và lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vai trò trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết
kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản
vào kinh doanh. Chính vì vậy, các ngân hàng Thương mại luôn tìm cách đa dạng hoá loại
tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau với các mức lãi suất khác nhau
nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm.
Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử
dụng vào tiêu dùng. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một cách an toàn và
hưởng lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng đặc biệt để tích luỹ tiền tệ trong tiêu
dùng cá nhâ. Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường tiền gửi tiết kiệm được phát triển
dưới hai loại hình tiết kiệm sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào
nhưng không được sử dụng vào các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền gửi có sự thoả thuận về thời hạn gửi và
có rút tiền, có mức lãi suất cao hơn với tiền gửi không kỳ hạn.
- Các nguồn huy động khác:
Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, các Ngân hàng Thương mại còn phát hành
chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. Thực chát các nghiệp vụ này là Ngân hàng huy động vốn
tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn
hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu này
được Ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục đích với sự chấp nhận của Ngân hàng

trung ương hoặc hội đồng chứng khoán quốc gia.
Tổng huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi trái phiếu Ngân
hàng, các Ngân hàng Thương mại phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất huy
động.Nhgiệp vụ này cjỉ được tiến hành khi Ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy
động không đủ trang trải. Như vậy, khi huy động vốn dưới hình thức này, cac Ngân hàng
phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất và thời hạn,
phương pháp huy động, khi đã huy động đủ khối lượng theo dự kiến các ngân hàng sẽ
dừng việc huy động (bán) kỳ phiếu, trái phiếu.
Tóm lại vốn huy động là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của các
NHTM. Nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng,
giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, NHTM tuân thủ theo quy
luật về mức vốn huy động tối đa không được vượt quá 20 lần vốn tự có, đồng thời mở tài
khoản tiền gửu tại NHNN để duy trì ở đó khối lượng bắt buộc. Song nếu một Ngân hàng
kinh doanh tiền tệ có hiệu qảu thì không những nguồn lợi của Ngân hàng được tăng lên mà
còn làm cho uy tín của nó trên thị trường cũng tăng theo, chính vì thế nguồn vốn huy động
vào Ngân hàng ngày càng tăng theo, mở rộng quy mô hoạt động để phục vụ cho phát triển
kinh tế.
2.3. Vốn đi vay.
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng Thương mại với NHNH, hoặc
giữa các NHTM với nhau hay các tổ chức tín dụng khác. Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ
sung vào vốn hoạt động của mình khi Ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn
không đủ hoạt động vốn, hay nói cách khác Ngân hàng tạm thời thiếu vốn khả dụng. Trong
trườn hợp vốn vay trên mà không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của NHTM thì
NHTM sẽ đi vay của NHNN.
Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay NHTM được chia thành
hai loại: Vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay để tái cấp vốn.
+ Vốn vay ngắn hạn bổ sung là hình thứcmmà NHTM xin vay vốn nganứ hạn bổ
sung của mình. Trong hình thức này, các Ngân hàng chỉ được vay khi còn hạn mức dụng
hoặc trong hạn mức tín dụng mà Ngân hàng đã thoả thuận.
+ Vố vay để thanh toán: Các Ngân hàng Thương mại vay Ngân hàng nhà nước

nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán (thời hạn vay thường ngắn).
+ Tái cấp vốn. Ngân hàng nhà nước cho Ngân hàng Thương mại vay trên cơ sở
chứng từ có giá. Các chứng từ phải đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp đảm bảo an toàn. Tái
cấp vốn gồm hai hình thức:
i. Cho vay chiết khấu: Ngân hàng nhà nước nhận các chứng từ có giá mà NHTM đã
chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như các NHTM đã làm. Tuy nhiên,
việc cho vay tái chiết khấu đôiư với Ngân hàng Thương mại đã được giứoi hạn trong mức
cho phép (hạn mức tía chiéet khấu) để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà
nước.
ii. Cho vay bản đảm: là hình thức các NHTM đem các chứng từ có giá đến Ngân
hàng nhà nước để làm vật tư bảo đảm xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh giá các chứng từ
có giá làm vật tư bảo đảm, Ngân hàng nhà nước sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo
chính sách quản lý giá của Ngân hàng nhà nức trong từng thời kỳ.
Vốn vay Ngân hàng nhà nức là quan hệ trực tiếp giữa các NHTM nằm trong sự
điều tiết của chính sách tiền tệ. Khi Ngân hàng nhà nước sử dụng công cụ thị trường mở
mua bán các trái phiếu, kỳ phiếu ngắn hạn, hệ thống ngân hàng Thương mại phải chịu sự
kiểm soát gắt gao của Ngân hàng nhà nước.
2.4. Vốn khác.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một khoản vốn
trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi, sséc
định mức và các khoản tiền phong toả do Ngân hàng chấp nhận hối phiếu Thương mại .
Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử
dụng, nên được coi là tiền nhàn rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể
trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác, nhận vận
chuyển cho một kách hàng hoặc một dự án đầu tư. Do việc phát tiến được thực hiện theo
tiến độ công việc, nên Ngân hàng còn có thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh
doanh.
3. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
3.1. Vốn là cơ sở để Ngân hàng Thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.

Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có
vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết đinhj khả năng kinh doanh. Riêng đối
với Ngân hàng, vốn là cơ sở để Ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình.
Nói cách khác, NHTM không có vốn thì không thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh.
Bởi vì dặc trưng của Ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là
phương tiện kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là đơn vị tổ chức kinh doanh loại
hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và trên thị trường
chưngs khoán (thị trường vốn dài hạn). Những Ngân hàng nhiều vốn là những Ngân hàng
có thế mạnh trong kinh doanh. Chính vì thế, có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ
kinh doanh của Ngân hàng. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết (tức là đủ vốn theo điều lệ
luật định) thì Ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt
quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
3.2. Vốn của Ngân hàng sẽ quyết định quy mo hoạt động tín dụng và các hoạt động
khác của Ngân hàng.
Vốn của Ngân hàng sẽ quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng. Thông thường, nếu so với các Ngân hàng lớn thì Ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu
tư cho vay kém đã dạng hơn, phạm vi cho vay của các Ngân hàng này cũng nhỏ hơn.
Trong khi, các Ngân hàng lớn cho vay được tại các thị trường trong vùng, thậm chí trong
nước và quốc tế, thì các Ngân hàng nhỏ bị giới hạn về phạm vị hoạt động hẹp, mà chủ yếu
trong cộng đồng. Thêm vào đó, do khả năng hạn hẹp nên các Ngân hàng nhỏ không phản
ứng nhạy bén với sự biến động của lãi suất gây khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng
lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Nếu khả năng của Ngân hàng đó dồi dào, thì chắc
chắn Ngân hàng sẽ mở rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng.
Thật vậy, trong nền kinh tế thị trường, để mở rộng quy hoạt động đòi hỏi các Ngân
hàng lớn phải đủ lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín đó phải được thể hiện trước
hết ở khả năng thanh toán chi trả cho khách hàng, khả năng thanh toán càng cao thì vốn
khả dụng của Ngân hàng càng lớn. Vì vậy loại trừ nhân tố khác, khả năng thanh toán của
Ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của Ngân hàng nói chung và vốn khả dụng nói riêng. Với
tiềm năng vốn lớn, Ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô hoạt động ngày
càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranhcó hiệu quả nhằm vừa giữ uy tín, vừa

nâng cao thanh thế của Ngân hàng trên thương trường.
3.3. Vốn của Ngân hàng quyết định năng lực cạnh tranh.
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại
của Ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, với khả năng vốn là điều
kiện thuận lợi đối với Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần
kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay,
thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải trả cho khách hàng. Điề đó sẽ thu hút ngày càng
nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của Ngân hàng sẽ tăng nhanh chóng và Ngân hàng
có nhiều thuận lợi trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện bổ sung thêm vốn tự có của
Ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất và quy mô hoạt động của Ngân hàng trên mọi lĩnh
vực.
Đồng thời, vốn ngân hàng lớn sẽ giúp cho Ngân hàng có đủ khả năng tài chính để
kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng hình
thức liên doanh, liên kết, kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Chính các hình thức
kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo
thêm vốn cho Ngân hàng đồng thoì tăng sức cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường.
4. Các hình thức tạo vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
Các NHTM làm nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những gửi tiền) và cho vay hoặc đầu
tư với mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Đây là công việc của một trung gian tài chính, đóng
vai trò giữa người có vốn và người cần vốn. Quá trình tạo lập vốn của các NHTM được
thực hiện dưới các hình thức sau:
4.1. Tạo vốn qua huy động tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi mà chủ nhân của nó có thể rút tiền hoặc trả tiền cho bên thứ ba
bằng cáhc phát hành séc hoặc công cụ thanh toán không dùng tiền mặt khác.
Đối với khách hàng, việc dễ dàng chuyển nhượng được xem như là một yếu tố
quan trọng, còn việc hưởng lãi đối với số vốn dùng vào mục đích giao dịch chỉ là thứ yếu.
Do vây, loại tiền gửi này được mệnh danh là tiền gửi theo yêu càu không đem lại lãi suất
cụ thể. ở Việt Nam tiềng gửi thuộc loại này được thể hiện dưới các hình thức như tài khoản
tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và tài khoản tiền gửi cá nhân. Do tỷ trọng
thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn quá thấp, để khuyến khích việc thực hiện

thanh toán qua Ngân hàng, các NHTM ở Việt Nam đã tiến hành trả lãi cho tiền gửi này
(0,5% đối với tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của các đơn vị, tổ chức kinh tế và tiền gửi cá
nhân). Trong tương lai gần, khi nhu cầu thanh toán của dân cư phát triển, dịch vụ thanh
toán của Ngân hàng sẽ thay thế, khuyến khích bằng lãi suất tiền gửi. ở các nước phát triển
loại tiền gửi này chiếm một vị trí quan trọng trong kết câu nguồn vốn của NHTM.
4.2. Tạo vốn qua huy động tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
KHác với tiền gửi không kỳ hạn có số dư tăng giảm phụ thuộc vào tình hình sản
xuất kinh doanh của chủ tài khoản, công tác quản lý tiền mặt của Ngân hàng, tiền gửi có kỳ
hạn và tiền gửi tiết kiệm mang tính nhạy cảm rất cao đối với lãi suất. Quá trình tạo vốn này
được thực hiện dưới hai hình thức sau:
+ tiền gửi có kỳ hạn.
Mức lãi suất đối với các chứng chỉ tiền gửi có thể cố định hoặc linh hịat tuỳ theo sự
lựa chọn của khách hàng và đối với các chứng chỉ có lãi suất linh hoạt, khách hàng có thể
gửi thêm tiền trước hạn định. Các chứng chỉ tiền gửi đã được đa dạng hoá nhằm đáp ứng
được sự cạnh tranh trong huy động vốn của các Ngân hàng. Ví dụ: Các chứng chỉ tiền gửi
với mệnh giá cao do Ngân hàng lớn phát hành có thể chuyển nhượng được, và chính những
người mua chứng khoán đã tạo ra một thị trường phụ cho các chứng chỉ này. Như vậy,
Ngân hàng có thể thu hút vốn thanh toáừ các nhà đầu tư lớn, mà lẽ ra các nhà đầu tư này đã
có thể đầu tư vào trái phiếu kho bạc hay vào thị trường tiền tệ. Các chứng chỉ tiền gửi có
khả năng chuyển nhượng tốt này thường được các công ty, quỹ hưu trí và các tổ chữc
chính quyền đầu tư với khối lượng lớn và được giao dịch trên thị trường chứng khoán thứ
cấp, trước hạn định thanh toán.
ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu
ngân hàng có mục đích) đã xuất hiện với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng Tuy mới
được sử dụng trong hai năm trở lại đây, song hình thức huy động đã ngày càng phát huy
vai trò trong việc tạo vốn của các Ngân hàng. Trên thực tế, tỷ trọng huy động vốn bằng
hình thức phát hành kỳ phiếu Ngân hàng chiếm một tỷ lệ tương đối so với các hình thức
huy động khác.
+ tiền gửi Ngân hàng.
Từ lâu tiền gửi tiết kiệm đã được coi là công cụ huy động vốn truyền thống của các

NHTM. Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi
Ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồnm các loại sau: loại không kỳ hạn, có kỳ hạn và có
kỳ hạn dài.
- Tiền gửi không kỳ hạn.
Thực chất đay là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Đối với khoản tiền gửi này,
chủ tài khoản có thể rút tiền ra bất ú lúc nào mà không phải báo trước nhưng chỉ được rút
bằng tiền mặt và người gửi tiền được hưởng lãi suất. Tuy nhiên, số dư tài khoản này
thường không lớn, nhưng có ưu điểm lớn hơn so với các tài khoản tiền gửi giao dịch ở chỗ
số dư này ít biến động. Chính vì vậy, đối vối loại tiền gửi này, các NHTM thường trả lãi
giống như tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế. NHTM cần tạo điều kiện mở
rộng khai thác khoản vốn này.
- Tiết kiệm có kỳ hạn.
Các NHTM thường huy động tiết kiệm với kỳ hạn từ 3 tháng đến 1 năm. Về
nguyên tắc, một khi khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản này, thì không được rút ra (cả
gốc và lãi) trừ khi đã hết hạn tiền gửi. Để tăng sức cạnh tranh trong thu hút tiền gửi, một số
NHTM đã cho phép khách hàng rút tiền trước hạn, một phần trong tiền lãi là khách hàng
được hưởng đã bị khấu trừ(có thể Ngân hàng không được trả lãi trong một thời điểm nào
đó hoạc khách hàng chỉ được hưởng mức lãi suất không kỳ hạn cho khoản thời gian khách
hàng gửi tiền).
- Tiết kiệm dài hạn: So với các loại hình tiết kiệm khác, đối với tài khoản này, bất
cứ lúc nào chủ tài khoản cũng có thể gửi tiền vào tài khoản này với số lượng không hạn
chế nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây là loại hình tiết kiệm mà Ngân hàng cần tận
dụng nhằm tạo ra nguồn vốn có tính chất ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng
dài hạn của mình.
4.3. Tạo vốn qua phát hành chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm có mệnh giá lớn.
Việc huy động các chứng chỉ tiền gửi thuộc loại này có ý nghĩa quan trọng trong
việc quản tài sản nợ hơn là các biện pháp để các NHTM huy động vốn. Chẳng hạn, ở Mỹ
các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn hơn 100.000USD hoặc nhiều hơn đã trở thành công
cụ đáng chú ý trong việc quản lý tài sản nợ ở các Ngân hàng lớn.
Thời hạn các chứng chỉ tiền gửi này được xác định dựa trên cơ sở vốn trung dài hạn

của NHTM, thông thường thời hạn đó không dưới một năm.
Mức lãi được trả cho các chứng chỉ tiền gửi loại này được quy định bằng cách thoả
thuận trực tiếp giữa Ngân hàng và người gửi tiền hoặc quy ở mức mà người gửi chấp nhận
được.
Xuất phát từ thực tế kách quan: những người mua chứng chỉ tiền gửi này rất nhạy
cảm với sự thay đổi của lãi suất. Để huy động vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu thanh toán
hay nhu cầu về tín dụng, các Ngân hàng Thương mại có thể đưa ra các mức lãi suấtcao
hơn so với các loại chứng chỉ tiền gửi khác.
4.4. Tạo vốn qua đi vay.
Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của các NHTM
không chỉ về quy môđơ thuần mà chủyêú mang ý nghĩa như là một biện pháp quản lý các
mục tài sản nợ. Các Ngân hàng có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau:
+ Vay Ngân hàng nhà nước Hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu với vai trò
là người cho vay cuối cùng, Ngân hàng nhà nước vay từ các tổ chức tín dụng khác luôn
cho các Ngân hàng Thương mại vay với một giá nhất định - đó là lãi suất tái chiết khấu.
Lãi suất tái chiết khấu được Ngân hàng nhà nước sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô,
tuỳ theo yêuc ầu đièu tiết của nền kinh tế mà lãi suất này có thể cao hay thấp. Các NHTM
có thể vay NHNN khi có nhu cầu, nhưng hầu hết các nước Ngân hàng nhà nước đều không
cho phép các NHTM lạm dụg khả năng đó bằng công cụ như hanj chế mức tái chiết khấu.
Tuy nhiên đay alf giải pjháp cuối cùng của NHTM trong công tác điều hành kinh doanh.
+ Vay từ các tổ chức tín dụng khác: Đó là khoản vay thông thườn mà các NHTM
vay lẫn nhau trên thị trường tiền tệ.
Tuy nhiên, các NHTM thường sử dụng tới hai giải pháp trên trong các trường hợp
sau:
- Thứ nhất, Các Ngân hàng thườn chỉ vay từ các Ngân hàng nhà nước khi không
còn giải pháp nào khác nhằm tránh việc sử dụng tối đa hạn ức chiết khấu, mà qua đó có thể
gây sự chú ý của Ngân hàng nhà nước.
- Thứ hai, khi một khách hàng tốt trả một khoản nợ cũ và yêu cầu vay tiếp một
khoản khác mà bị từ chối vì Ngân hàng đang gặp khó khăn về vốn thì có thể Ngân hàng sẽ
mất vĩnh viễn khách hàng đó vào tay các đối thủ cạnh tranh.

4.5. Tạo vốn qua phát hành trái phiếu.
Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức
giấy nhận nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó cam kết trả lãi
và gốc cho người mua hoặc người sở hữu trong một thời gian cố định. Về phía người mua
trái phiếu Ngân hàng là giấy chứng nhận giấy đầu tư vốn và quyền được hưởng thu nhập
của người mua trên số tiền mua trái phiếu của Ngân hàng.
Thực chất, hình thức tạo vốn dã giúp cho các Ngân hàng Thương mại chủ độg
trong việc huy động vốnđể thực hiện các dự án đâù tư dài hạn và vốn này có tính chất ổn
định cao về thời gian sử dụng và lãi suất.
Theo kinh nghiệm tại Đức, trái phiếu Ngân hàng được phát hành với mức lãi suất
cố định và mức lãi suất này được xác định theo mưc lãi suất trên thị trường vốn tại thời
điểm phát hành. Hầu hết các trái phiếu Ngân hàng đều được đưa vào các giao dịch chính
thức hay giao dịch tự do trên một hay nhiều sở giao dịch chứng khoán Đức. Do đó những
người đầu tư vào trái phiếu Ngân hàng có thể thu hồi vốn vào bất cứ lúc nào. Chính vì vậy,
điều đó không chỉ tạo điều kiện cho Ngân hàng trong việc thu hút vốn mà còn thuận lợi
cho cả khách hàng.
Ngoài ra kinh nghiệm cho thấy: việc huy động vốn từ trái phiếu Ngân hàng khá phổ
biến ở các nước, nó được xuất hiện và phát triển từ các nước Châu Âu trong những năm
1960 của thế kỷ XX và ngày nay các giao dịch đã phát triển với quy mô quốc tế bao gồm
nhiều Ngân hàng và Công ty tài chính tham gia. Nghiệp vụ huy động vốn qua trái phiếu đã
đem đến cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận cao bởi khả năng “tiêu thụ” các khoản vốn
huy động này đã được nhanh chóng chuyển đến các nước đang “khát vốn” để phát triển ở
Châu á, Nam Mỹ.
4.6. Các hình thức tạo vốn khác.
NHTM có thể sử dụng thu hút vốn từ các nguồn vốn nhàn rỗi, từ các hoạt động uỷ
thác về các dịch vụ xã hội như dịch vụ: câu lạc bộ giáng sinh, nghỉ hè và các kế hoạch khác
được mệnh danh là các “Câu lạc bộ tiết kiệm”. Các kế hoạch này được tạo ra để khuyến
khích những người tiết kiệm ký thác mỗi tuần một số tiền nhất định tại Ngân hàng. Số tiền
này sau một thời gian nhất định sẽ là một số tiền đủ lớn để người giữ tiền có thể trang trải
được các khoản chi phí cho các khảon dịch vụ trên.

III. Vai trò của NHTM trong chiến lược tạo vốn.
NHTM là một tổ chức đặc biệt. Điểm đặc biệt là : vừa tổ chức tài chính trung gian
và là tổ chức tài chính thông thường. Khi đóng vai trò tổ chức trung gian, NHTM thực hiện
vai trò thu hút các nguồn vốn trong nền kinh tế để thực hiện các hoạt động của các chủ thể
khác thiếu vốn dưới các hinh fthức như tín dụng đầu tư. Còn khi đóng vai trò tổ chức tài
chính thông thường thì các NHTM thực hiện vai trò làm người môi giới để người thừa vốn
và người thiếu vốn trực tiếp gặp nhau thông qua các hình thức như môi giứoi chứng khoán,
thực hiện cho thuê trọn gói.
Đối với nền kinh tế nước ta hiện nay, khi mà hệ thống tài chính còn kém phát triển,
chủng loại các tổ chức còn nghèo nàn, quy mô của các tổ chức đó còn nhỏ bé, hoạt động
chưa phong phú thì có thể nói vai trò của NHTM đối với nền kinh tế là rất lớn. Vai trò nổi
bật nhất của NHTM hiện nay là góp phần tạo vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho việc
đạt được các mục tiêu phát triển đến năm 2010 và các năm tiếp theo mà Đảng và Nhà nước
đã đặt ra.
1. Tạo điều kiện gia tăng tích luỹ cho nền kinh tế, thu hút các khoản vốn tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi, làm gia tăng dầu tư cho nền kinh tế.
Tích luỹ và tiêu dùng là hai hoạt động đối lập nhau, đều có nguồn gốc từ thu nhập.
Ngoài yếu tố quy mô của thu nhập, tiêu dùng trước tiên phụthuộc vào nhu cầu cuộc sống
và kế đến lựi ích của tích luỹ. Mục đích cuối cùng của tích luỹ là tiêu dùng cho tương lai.
Tích luỹ của công chúng có thể tồn tại dưới các hoạt động của tài sản nợ của
NHTM. Đó là các khoản tiết kiệm hoặccác khoản đầu tư vào trái phiếu Ngân hàng. Một
khi hiệu quả hoạt động của Ngân hàng cao, lãi suất huy động thoả đáng thì tích luỹ của
công chúng qua Ngân hàng sẽ gia tăng do lợi ích của tích luỹ so với lợi ích của tiêu dùng.
Bên canh yếu tố lãi suất có tính chất kích thích, chất lượng hoạt động của NHTM: thanh
toán chi trả nhanh, đảm bảo thuận tiện an toàn thì không những tích luỹ của cong chúng tập
trung vào Ngân hàng mà các khoản vốn này là nguồn vốn giúp cho Ngân hàng thực hiện
các khoản mục đầu ra bên tài sản có tạo nên đầu tư cho kinh tế.
2. Tạo điều kiện chuyển tải một cách tối ưu vốn tích luỹ thành vốn đầu tư cuối cùng
cho nền kinh tế.
NHTM tạo đềi kiện và môi trường thích hợp cho đầu tư tài chính trực tiếp. NHTM

tham gia vào quá trình phát hành chứng khoán cho thị trường, và trở thành cầu nối trực tiếp
giữa người thừa vốn và người thiếu vốn trên thị trường.
Chủ động thu hút vốn tích luỹ và vốn chi tiêu có tính chất nhà rỗi trong nền kinh tế
và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Khi nền kinh tế có nhu cầu vốn đầu tư, hiệu quả các
vốn đầu ra cao và an toàn thì ngân hàng chủ động tăng huy động vốn và ngược lại khi nền
kinh tế suy thoái, Ngân hàng sẽ giảm các khoản huy động hoặc chuyển vốn đầu tư sang
cho vay tiêu dùng. Chủ động điều tiết và phân phối vốn đầu tư trong nền kinh tế. Ngân
hàng sẽ đầu tư vốn vào những ngành nghề phát triển và thu hút vốn đầu tư đối với những
ngành nghề suy thoái.
IV. Hiệu quả nghiệp vụ khai thác vốn.
1. Khái niệm:
Nghiệp vụ khai thác sử dụng vốn bao gồm huy động vốn và sử duụng vốn, hai vấn
đề này có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Đối với từng Ngân hàng cơ sở cũng như toàn bộ hệ thống Ngân hàng kinh doanh
đều hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận tối đa và sự tăng trưởng không ngưngf của nguồn vốn
kinh doanh. Muốn đạt được những mục tiêu đó, đòi hỏi Ngân hàng phải tự vạch cho mình
một chiến lược vốn đúng đắn, phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn trongtừng thời kỳ. Vì
vậy:
Hiệu quả nghiệp vụ khai thác vốn là Ngân hàng phải đảm bảo sử dụng kết hợp hài
hoà các nguồn vốn có được sao cho việc sử dụng các nguồn vốn đó mang lại hiệu quả cao
nhất.
Hoạt động nói trên của Ngân hàng là hoạt động cân đối vốn, là công việc rất cần
thiết đối với mọi Ngân hàng, là một biện pháp nghiệp vụ, là công cụ quả lý của các nhà
lãnh đạo Ngân hàng.
2. Công thức tính (đối với Ngân hàng Láng Hạ năm 2000).
Huy động vốn Sử dụng vốn
1 Tiền gửi tiết kiệm 1103 1 Vốn bảo đảm thanh toán 531
2 Tiền gửi của các tổ chức kinh tế 800 2 Dư nợ cho vay 661
3 Tiền gửi khác 97 3 Sử dụng khác 808
Tổng 2000 Tổng 2000


Chương II. Thực trạng nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ.
I. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Láng Hạ.
1. Sơ lược về quá trình hình thành.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng nong nghiệp) là doanh
nghiệp nhà nước, kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng đối với các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước, làm uỷ thác các nguồn vốn trung
và dài hạn, ngắn hạn của chính phủ, các tổ chức kinh tế, xã hội, cá nhân trong và ngoài
nước, thực hiện tín dụng tài trợ chủ yéu cho nông nghiệp và nông thôn. Ngân hàng nông
nghiệp được thành lập theo Quyết định số 400 - Công ty ngày 14/11/1990 của Chủ tịch hội
đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ).m nông nghiệp là một pháp nhân bao gồm
hội sở (trung tâm điều hành), các chi nhánh, văn phòng đại diện được Nhà nước cấp vốn
lần đầu 200 tỷ đồng vốn điều lệ (tương đương 30 triệu USD), tự chủ tài chính, tự chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh và những cam kết của mình, có bản tông rkết tài sản và con
dấu riêng, hoạt động trong khuôn khổ pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Công
ty tài chính.
Trước những khó khăn chung của nền kinh tế những năm đầu thập kỷ 90, Ngân
hàng nông nghiệp Việt Nam khi mới thành lập đã phải đối đầu với nhiều gia khó, phải
“gồng mình”trước những thua lỗ trong hoạt động kinh doanh. Nhưng khi nền kinh tế đất
nước đã ổn định và phát triển, đặc biệt kể từ năm 1995, Ngân hàng nông nghiệp đã không
ngừng vươn lên khẳng định vị trí của mình, hoạt động luôn có lãi và có sự tăng trưởng
mạnh. Đứng trước những nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, nhu cầu sử dụng vốn và
các dịch vụ Ngân hàng của các doanh nghiệp ngày càng tăng, bên cạnh đó nhằm mở rộng
mạng lưới hoạt động đa dạng hoá các nghiệp vụ Ngân hàng, nâng cao uy tín hiệu quả hoạt
động của mình và nhận thấy vị trí trụ sở 24 Lnág Hạ có nhiều thuận lợi. Ngày 18/03/1997
Ban lãnh đạo Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đã quyết định thành lập chi nhánh mới
trực thuộc trung tâm điều hành Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam tại địa điểm này, chi
nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNN&PTNT) Láng Hạ được

hình thành trên tiền đề đó.
Với tư cách là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam
(NHNN&PTNT) Láng Hạ là một đại diện uỷ quyền của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam,
có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của NHNN&PTNT, chịu sửàng buộc về nghĩa
vụ và quyền lợi với NHNN&PTNT. Về pháp lý, chi nhánh Láng Hạ cũng có con dấu riêng,
được ký kết các hợp đồng kinh tế, dân sự, chủ động kinh doanh, tổ chức theo phân cấp uỷ
quyền của nh nông nghiệp Việt Nam.
Chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ có nhiệm vụ khai thác và huy động vốn trong
và ngoài nước, huy động các nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài hạn từ các thành phần kinh
tế như: chính phủ, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức nước ngoài
bằng USD và VNĐ để tiến hành các hoạt động cho vay ngắn, trung, và dài hạn, đầu tư và
tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán.
2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Là một Ngân hàng nông nghiệp mới được thành lập từ năm 1997 đến nay, quy mô
hoạt động của chi nhánh Láng hạ chưa lớn, nhân sự hạn chế, bởi vậyphương châm của
Ngân hàng là cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả và an toàn. Với đội ngũ cán bộ công
nhân viên chức hiện tại là 58 người phân theo sơ đồ sau:







Mỗi phòng ban thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình theo sự phân công và chỉ
đạo của ban giám đốc.
Ban giám đốc
Phòng t



chức hành
Phòn kinh
doanh
Phòng thanh
toán quốc
t
ế


Phòngkế toán
và ngân quỹ
3. Những thuận lợi và khó khăn của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp láng hạ.
Ngay từ khi mới thành lập, chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đã phải
chứng tỏ mình trước không ít những thuận lợi và thách thức, khó khăn.
Ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nói
riêng thực hiện chấn chỉnh hoạt động tín dụng Ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả kinh doanh của các Ngân hàng thương mại và uy tín của ngành. Uy tín của Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được nâng cao hơn có tác dụng tích cực tới
công tac thu hút khách hàng và đa dạng hoá hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp Láng
hạ.
Là một chi nhánh mới được thành lập, tuy còn bỡ ngỡ non trẻ trong hoạt động,
nhưng Ngân hàng có thể tranh thủ kế thừa, học hỏi những kinh nghiệm rút ra từ những
thành công thất bại của các NHTM khác. Thêm nữa, Ngân hàng có trụ sở đặt tại vị trí hết
sức thuận tiện, trên một đại bàn sôi động, có điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động,
các nghiệp vụ kinh doanh và dich vụ một cách đa dạng. Mặt khác, các nguồn huy động từ
tiền gửi của các tổ chức tín dụng và tiết kiệm từ dân cư là rất phong phú giups cho Ngân
hàng có khả năng đáp ứng tối đa nhu cầu của doanh nghiệp cũng như dân cư.
Bên canh đó, trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, Ngân hàng luôn nhận
được sự chỉ đạo, giúp đỡ có hiệu quả và rất kịp thời từ NHNN&PTNT Việt Nam, sự quan
tâm ủng hộ của chính quyền thành phố.

Một thuận lợi hết sức quan trọng nữa đối với Ngân hàng trên bình diện vĩ mô là sự
phục hồi phát triển cuả nền kinh tế thế giới và khu vực. Nenè kinh tế Việt Nam, nền kinh tế
mà trước đây một vài năm trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của khu vực vẫn có mức
tăng trưởng dương, nhịp độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 1997 đạt 6,5% và 5,8% năm
1998, tăng trưởng nông nghiệp 4,5% năm 1997 và 3% năm 1998, tăng trưởng công nghiệp
năm 1997 là 14% và 11% năm 1998 thì nay dưới sự phục hồi của nền kinh tế khu vực sẽ
có điều kiện thuận lợi hơn trong việc phát triển kinh tế trên tất cả các ngành, lĩnh vực hoạt
động của đất nước. Trong đó đặc biệt có ngành Ngân hàng, một ngành mà bản thân nó đã
chịu ảnh hưởng lớn và sâu sắc nhát trong cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực vừa qua.
Một tín hiệu tốt đẹp đối với hoạt động của ngành Ngân hàng là sự đang hình thành
và phát triển của thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Với hai giao dịch tại Hà Nội và
thành phôd HCM và khi sở giao dịch chính thức hình thành thì hoạt động của nền kinh tế
chắc chắn sẽ sôi động và lĩnh vực kinh doanh trên thị trường chứng khoán sẽ đem lại tỷ
phần thu không nhỏ trong thu nhập và trong tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh của Ngân
hàng.
Bên cạnh những thuận lợi trên, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
cũng gặp không ít khó khăn bao gồm cả những khó khăn chung của ngành Ngân hàng và
khó khăn riêng do đặc điểm của chi nhánh Láng Hạ khi mới bắt đầu thành lập.
Nhìn chung năm 1997-1998 khi Ngân hàng mới thành lập, kinh tế thủ đo có tăng
trưởng nhanh hơn với các tỉnh khác, Tuy nhiên tốc độ này đã sớm bị chững lại. Bên cạnh
những thịt hại về thiên tai luc lụt, nền kinh tế còn chịu sự tác động, chi phối của cuộc
khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực, tiền tệ khu vực gây tâm lý bất ổn cho khách hàng
dẫn đến co hẹp về hoạt động, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng trong nước, Ngân hàng
nước ngoài, đặc biệt tại thủ đô Hà Nội cạnh tranh ngày càng quyết liệt của hơn 60 Ngân
hàng trên tất cả các lĩnh vực huy động vốn, mở rộng cho vay, thanh toán, mua ngoại tệ
diễn ra sôi động, gay gắt làm cho việc tìm kiếmm khách hàng hết sức khó khăn. Chi nhánh
Láng hạ chưa tạo được niềm tin lớn đối với các Ngân hàng đối tác nước ngoài, gây cho họ
tâm lý đắn đo, nghi ngờ khi giao dịch với Ngân hàng.
Một thực tế tồn tại hiện nay là trong khi các doanh nghiệp đang hết sức cần vốn để
mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh thì tại các Ngân hàng lại xảy ra tình trạng ứ đọng

vốn lớn mà không giải ngân được. Tình trạng thiểu phát kéo dài trong năm 1999 mặc dù
Ngân hàng nông nghiệp đã 5 lần hạ lãi suất trần cho vay từ 1,2%/tháng xuống còn
0,85%/tháng nhằm thực hiện chủ trương kích cầu của chính phủ, nhưng do nền kinh tế vẫn
chưa thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tẹ khu vực nên nhìn chung
các doanh nghiệp thiếu các dự án khả thi và do vậy việc thẩm định và cho vay trở nên khó
khăn gây ứ đọng vốn cho Ngân hàng.
Bên cạnh đó, quy mô hoạt động của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ còn
hạn chế, đội ngũ cán bộ của Ngân hàng còn chưa cập nhật cả trong cũng như ngoại ngữ
cho giao dịch với bạn bè quốc tế.
II. Thực trạng nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Láng hạ.
1. Các hình thức khai thác vốn được áp dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp
Láng hạ.
Ngay từ khi thành lập Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đã phát triển nguồn vốn của
mình để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Bằng các biện pháp và chính sách cụ
thể, nguồn vốn của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ ngày càng gia tăng với khối lượng
năm sau cao hơn năm trước.
Để đạt được kết quả đó Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đã áp dụng những hình
thức sau:
* Huy động bằng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm.
Tiết kiệm là hình thức huy động được các Ngân hàng Thương mại áp dụng từ lâu
với các thời hạn và mức lãi suất quy định cho từng thời hạn đó. Trong hình thức huy động
này có rất nhiều thể thức được áp dụng.
+ Thể lệ tiết kiệm bằng tiền với các loại kỳ hạn: Không kỳ hạn, ba tháng, 6 tháng,
9 tháng, 12 tháng cũng được áp dụng rộng rãi trong thời gian đầu với mức lãi suất cao đủ
sức hấp dẫn người gửi tiênf.
+ Thể lệ gửi tiền tiết kiệm bằng ngân phiếu thanh toán nhằm mực đích huy động
nguồn vốn nhàn rỗi bằng ngân phiếu thanh toán vào Ngân hàng và tạo điều kiện cho dân
chúng làm quen với “dấu hiệu giá trị” mới này.
+ Thể thức huy động tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ với mục đích huy động nguồn

vốn nhàn rỗi bằng ngoaị tệ trong dân cư vào Ngân hàng để phát triển kinh tế.
+ Thể thức huy động tiền gửi tiết kiệm gửi một nơi lĩnh tiền nhiều nớinhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việclĩnh tiền, tạo tâm lý cho khách hàng không
cần giữ tiền mặt trong người.
* Huy động bằng phát hành kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích:
Phát hành kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích bằng ngoại tệ. Kỳ phiếu Ngân hàng có
mục đích của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ là một loại giấy nhận nợ do Ngân hàng
nông nghiệp Láng hạ phát hành, nhằm huy độg vốn nhàn rỗi trong dân cư một cách linh
hoạt, đáp ứng cho mọi chương trình, dự án kinh tế nhất định. Kỳ phiếu Ngân hàng có mục
đích được ghi vào thu, chi bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ (USD). Căn cứ vào tình hình
nguồn vốn và yêu cầu mở rộng tín dụng theo các dự án đầu tư cụ thể của từng chi nhánh để
tiến hành bán kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích này.
* Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu để bổ sung cho nguồn vốn vay
trung và dài hạn đối vơí nền kinh tế.
* Huy động bằng việc tổ chức mở dịch vụ thanh toán, khuyến khích mọi thành
phần kinh tế mở tài khoản tại các chi nhánh của Ngân hàng nông nghiệp. Tài khoản tiền
gửi của các đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân tại Ngân hàng được phân chia làm hai loại: tiền
gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. Đối với loại tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, Ngân
hàng có thể sử dụng chúng một cách có kế hoạch có mục đích đầu tư của Ngân hàng, còn
loại tài khoản tiền gửi không kỳ hạn khách hàng chỉ sử dụng nó để được hưởng những tiện
lợi trong thanh toán phục vụ chi trả cho các giao dịch mua bán, loại tiền gửi không kỳ hạn
này chỉ có một ưu thế là lãi suất thấp nó tạo điều kiện cho Ngân hàng giảm được laĩ suất
đầu vào và trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng có khả năng cạnh tranh
trên thương trường.
Ở Việt Nam, theo Nghị định 91/CP của thủ tướng chính phủ ngày 25/11/1993 và
quyết định 22/QĐ - NH ngày 21/2/1994 của thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam,
mọi cá nhân đều có quyền mở tài khoản thanh toán ở Ngân hàng và được sử dụng séc chi
trả.
Ngoài ra mới đây chính phủ mới ban hành nghị điịnh 30/CP ngày 9/5/1996 về quy
chế phát hành và sử dụng séc có sửa đổi một số quy định về séc. Đông thời ngân hàng nhà

nước có thông tư 07/TT - NH ngày 27/12/1996 hướng ddaanx viưệc thực hiện quy chế này.
Tuy vậy, muốn mọi cá nhân trong nền kinh tế chấp nhận và sử dụng séc còn lại cả một vấn
đề khác kèm theo.
2. Thực trạng nghiệp vụ kai thác vốn tại Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ.
2.1. Tổ chức tạo vốn của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp láng Hạ.
Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ hình thành thị
trường tài chính, các trung gian tài chính mà trước hết là các NHTM. Nền kinh tế Việt
Nam đang trong quá trình chyển đổi sang cơ chế thị trường và toàn bộ hệ thống Ngân hàng
ở nước ta cũng đang vận động đổi mới theo hướng hình thành và phát triển các NHTM và
các trung gian tài chính khác.
NHNN Láng Hạ chuyên kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ Ngân hàng, tuy còn non
trẻ nhưng là một Ngân hàng quốc doanh hoạt động trên địa bàn rộng lớn, đóng một vai trò
cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế. Tính đến cuối năm 2000 chi nhánh đã thu hút được
3500 tài khoản tiền gửi và 60.000 khách hàng gửi tiền tiết kiệm. Mặc dù Ngân hàng nhà
nước nhiều lần điều chỉnh giảm mức lãi suất huy động nhưng tổng nguồn vốn huy động
của Ngân hàng vẫn tăng mạnh. Đến 31/12/2000 đạt 2000 tỷ tăng 70% so với cuối năm
1999. Đạt được 143% kế hoạch đề ra.
Trong đó nguồn vốn huy động từ dân cư đạt 540 tỷ chiếm 27%. Tiền gửi từ các tổ
chức kinh tế đạt 1230 tỷ chiếm 60,15%. Tiền vay của các tổ chức tín dụng và tiền gửi khác
đạt 230 tỷ chiếm 12,85%. Trên cơ sở tăng trưởng nguồn vốn huy động và bám sát nhiệm
vụ, mục tiêu phát triển kinh tế, trong thời gian qua chi nhánh đã mở rộng đầu tư vốn tín
dụng cho các thành phần kinh tế. Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2000 đạt 661 tỷ đồng so
với năm 1999 tăng 140 tỷ bằng 127,2% đạt 86% kế hoạch đầu năm đề ra. Vượt 8,2% so
với mục tiêu đề ra của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Bình qua
dư nợ trên một cán bộ công nhân viên chức 11,4 tỷ. Dư nợ cho vay kinh tế quốc doanh
85,3% và ngoại tệ chiếm 43,7% tổng dư nợ. Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đã tập trung
vốn cho vay các doanh nghiệp nhà nước, các ngành kinh tế mũi nhọn, các cơ sở sản xuất
và hộ tư nhân kinh doanh có hiệu quả, năng động. Giúp các doanh nghiệp đứng vững trong
cạnh tranh, kinh doanh có lãi góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, cho
vay trung và dài hạn có chuyển biến mạnh mẽ. Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đã tăng

trưởng vốn trung và dài hạn cả về số lượng dự án và số vốn đàu tư. Dư nợ cho vay trung và
dài hạn đạt 75,2% trong tổng dư nợ.
Điều nổi bật đáng quý là quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông
nghiệp đang từng bước chuyển đổi thích nghi để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội là
hướng vào tạo vốn, đặc biệt là quan tâm đến huy động vốn trong và ngoài nước đáp ứng
yyêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
+ Diễn biến về cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ.
Như chúng ta đã biết, công tác huy động vốn là tiền đề thực hiện các nhiệm vụ tiếp
theo của Ngân hàng, là nền tảng, là bước cơ bản đầu tiên trong suốt quá trình kinh doanh
của Ngân hàng để mở rộng thị trường tín dụng. Chính vì vậy mà cạnh tranh, thu hút khách
hàng là vấn đề sống còn đối với bản thân Ngân hàng. Hiểu rõ như vậy nên Ngân hàng nông
nghiệp Láng hạ luôn cải tiến, mở rộng hình thức huy động vốn một cách linh hoạt theo xu
hướng chung của thị trường: cải tiến nghiệp vụ, đổi mới phong cách giao dịch, trang bị vi
tính đến từng quỹ tiết kiệm, cải tiến mẫu các giấy tờ giao dịch tạo điều kiện thuận lợi tối đa
cho người gửi nên nguồn vốn huy động của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ không ngừng
tăng lên rất nhanh. Ngân hàng đã tập trung chỉ đạo phòng kế toán tạo mọi điều kiện thuận
lợi để các tổ chức và cá nhân mở tài khoản và hướng dẫn thủ tục chu đáo. Đồng thời cử
cán bộ tín dụng đến tận doanh nghiệp để mở tài khoản giao dịch ngay. Ngân hàng đã thực
hiện nhanh chóng chính xác, kịp thời tiền séc, ngân phiếu, không ngừng thu hút khoản tiền
nhàn rỗi của khách hàng vào tài khoản. Hiện nay đang thí điểm loại hình tiết kiệm điện tử
bước đầu đã mang lại sự tiện lợi cho khách hàng và Ngân hàng tính đến cuối năm 2000,
chi nhánh đã thu hút được trên 3500 tài khoản tiền gửi và 60.000 khách hàng gửi tiền tiết
kiệm.
Mặt khác mạng lưới của Ngân hàng không ngừng được mở rộng. Để tạo lập nguồn
vốn lành mạnh, tránh hiện tượng sốc, Ngân hàng đã vận dụng chính sách lãi suất phù hợp
với từng giai đoạn, vừa đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền Ngân hàng đã chú tâm dồn
sức huy động vốn phù hợp với cơ chế mới như tiết kiệm dài hạn trả lãi trước, tiết kiện xây
dựng nhà ở, tiết kiệm ngoại tệ, các loại trái phiếu đảm bảo giá trị theo vàng. Ngoài ra khi
cần Ngân hàng còn vay vốn của các tổ chức tín dụng, các đơn vị khách hàng nhằm tạo lợi
thế kinh doanh có hiệu quả.

Bảng huy động nguồn vốn qua các năm.
Đơn vị: tỷ đồng Việt Nam.
Năm 1997

1998

1999

2000

Nguồn vốn huy động 236

883

1144

2000

Nguồn số liệu trên được trích từ bảng báo cáo kết quả kinh doanh từ năm 1997 -
2000 của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ.
**************
+ Các giải pháp tạo vốn đã được áp dụng tại NHNN Láng hạ.
Nghiệp vụ khai thác vốn là nghiệp vụ chính của Ngân hàng Thương mại nói
chung, nó có tính chất quyết định đến quy mô hoạt động và thời lượng tín dụng, đầu tư của
Ngân hàng. NHTM và các tổ chức tín dụng khác đều thực hiện nghiệp vụ đi vay để cho
vay. Vì vậy chỉ có huy động vốn được nhiều thì mới có điều kiện mở rộng đầu tư mà trên
cơ sở mới có doanh thu và lợi nhuận.
Vốn mà các Ngân hàng dùng để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế quốc dân dưới
nhiều hình thức riêng biệt hoàn toàn phụ thuộc vào vốn mà nó huy động được.
Như vậy, nghiên cứu các gải pháp để mở rộng việc huy động vốn trong các lĩnh

vực chính yếu nhất, trong các mặt hoạt động của Ngân hàng nhằm tìm ra những phương
hướng cơ bản nhất giúp đỡ các Ngân hàng phát triển các hoạt động của mình, vì sự phồn
thịnh của nền kinh tế và của chính bản thân Ngân hàng.
Một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước đó là vốn. Muốn thực hiện thành công thì chính phủ, các tổ chức kinh tế thì Ngân
hàng phải có một chiến lược khai thác vốn đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế.
Ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ nói riêng, với vị
trí trên thị trường tài chính Việt Nam dặc biệt là thu hút vốn để phát triển kinh tế trong
nước. Với nhiệm vụ to lớn là huy động vốn phát triển kinh tế, Ngân hàng đã và đang sử
dụng tổng hợp nhiều biện pháp khởi tăng nguồn vốn có hiệu quả hơn.
- Đa dạng hoá các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm.
Trong mấy năm vừa qua, mặc dù có khủng hoảng tiền tệ ở một số nước trong khu
vực nhưng nguồn tiền gửi dân cư tại hầu hết các Ngân hàng đều ổn định và tăng trưởng.
Tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Lán hạ, nguồn tiền gửi này cũng không nằm ngoài
xu hướng chung đó và đã đạt được những thành quả riêng. Nguồn tiền gửi tiết kiệm luôn
chiếm tỷ trọng ổn định trong tổng nguồn và có xu hướng tăng. Tỷ trọng nguồn là 5,8%
năm 1997, 9,76% năm 1998, 20,19% năm 99 thì năm 2000 là 27%. Nguồn vốn tiền gửi
ngày càng được gia tăng và giữ vị trí quan trọng trong việc phát triển các nghiệp vụ của
Ngân hàng mang một ý nghĩa chiến lượng trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
NHNN Láng hạ đã có những giải pháp thích hợp uyển chuyển nhằm kết hợp hài
hoà giữa lợi ích của người đi vay và lợi ích của người cho vay.
Chính sách lãi suất đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn bằng hình thức
tiền gửi tiết kiệm. Chính sách lãi suất của Ngân hàng đã điều chỉnh sát với quan hệ cung
cầu và lạm phát. Nói đúng hơn, chính sách lãi suất đã giải quyết thoả đáng các mối quan hệ
hư: quan hệ lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, quan hệ giữa lãi suất đồng nội tện với lãi
suất ngoại tệ, quan hệ giữa lãi suất cho vay ngắn hạn và lãi suất cho vay trung hạn và dài
hạn.
Lãi suất là một đòn bẩy quan trọng nhất trong việc huy động tiền gửi vì mục đích
cuối cùng của người có tiền gửi là có được lợi tức. Lãi suất huy động càng cao thì khối
lượng tiền gửi càng lớn. Tuy nhiên, mức lãi suất này luôn luôn bị khống chế bởi lãi suất

cho vay và lãi suất trần quy định của Ngân hàng nhà nước. Tuỳ trường hợp mà Ngân hàng
đưa ra mức lãi suất hu động cho phù hợp.
- Khuyến khích khách hàng mở tài khoản các nhân tại Ngân hàng và thực hiện
thanh toán qua Ngân hàng.
Ngày 18/4/1994 Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã ký quyết định số 160/HĐ - NH
về việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân. NHNN Việt Nam cũng đã có văn bản hướng dẫn và
triển khai thực hiện nội dung của quyết định này đến tâts cả các chi nhánh trong đó có chi
nhánh của NHNN Láng hạ. Quy định đó quy định tất cả nhân viên thuộc NHNN phải mở
tài khoản tiền gửi cá nhân tại Ngân hàng và toàn bộ tiền lương hàng tháng chuyển vào tài
khoản đó. Khi có nhu cầu chi tiêu, chủ sở hữu viết giấy lĩnh tièn mặt hoặc séc để chi trả từ
tài khoản cá nhân của mình. Đây là hình thức huy động vốn mới, Ngân hàng đã tăng cường
công tác quảng cáo đến từng người dân và giới tthiệu cho họ về lợi ích của hình thức này.
Tuy nhiên do phong tục tập quán của dân chúng chưa quen với việc không dùng tiền mặt
trong giao dịch thanh toán hàng ngày do các công cụ thanh toán đưa ra chưa đáp ứng được
nhu cầu cấp thiết của dân chúng và thu nhập của dân chúng chưa có điều kiện để tích luỹ
nên việc mở tài khoản tiền gửi mới đạt kết quả hạn chế.
- Khuyến khích các tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng.
Mục đích của việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng là khách hàng
muốn được hưởng những tiện lợi trong thanh toán: thanh toán tiền hàng cho người bán,
nhận tiền bán hàng của người mua chuyển tới và trả các khoản chi phí khác cho các dơn vị
tổ chức kinh tế mà đơn vị có dùng dịch vụ hàng hoá của họ. Số dư loại tài khoản của họ rất
thất thường nhưng có lợi thế là khoản lãi cho khách hàng rất thấp và nó cũng chiếm một tỷ
trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn huy động. Từ đó giúp cho Ngân hàng kéogiảm lãi suất
đầu vào, có thêm ưu thế cạnh tranh trên thị trường.
Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi này đưa vào hoạt
động kinh doanh của mình, áp dụng các biện pháp kinh tế để khuyến khích khách hàng
thường xuyên gửi tiền nhàn rỗi vào tài khoản thanh toán: những đơn vị tổ chức có số dư
trên tài khoản này cao và thường xuyên ổn định tại Ngân hàng sẽ được ưu tiên tiết giảm lãi
suất tiền vay theo tỷ lệ tương ứng.
Một ưu thế có tính chất quyết định đến việc huy động vốn thông qua các hình thức

khuyến khích các tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng là các chi
nhánh của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đã áp dụng triển khai đồng loạt máy vi tính
vào công tác thanh toán liên hàng điện tử, cải tiến chế độ luân chuyển chứng từ nội bộ, đối
với thái độ phục vụ khách hàng, cải tiến công tác thu chi tiền mặt nhanh chóng thuận lợi và
đáp ứng nhu cầu của khách hàng mọi lúc mọi nơi. Đến nay công tác thanh toán liên hàng
điện tử, rút ngắn thời gian chu chuyển chứng từ trước đây từ 1,2 ngày còn 1-2 giờ. Chuyển
công tác đối chiếu liên hàng về từng cơ sở, vốn được điều chuyển ngay trong ngày về tại
NHNN Láng Hạ rồi chuyển lên NHNN Việt nam giúp cho việc điều hành vốn được thuận
lợi, nhanh chóng, tăng nhanh vòng quay của vốn. Nhờ có ứng dụng trên mà đã tăng lưu
lượng chứng từ qua Ngân hàng.
- Tăng cường khai thác vốn trung hạn thông qua phát hành kỳ phiếu và vay nợ các
tổ chức nước ngoài.
Trong mấy năm gần đây do thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước
vì vậy nguồn kỳ phiếu trái phiếu mà Ngân hàng huy động có biến động mạnh. Năm 1998
nguồn này đã tăng 412% so với năm 1997 và giảm chỉ còn 97% đến cuối năm 1999 năm
2000 giaem xuống còn 8% so với năm 1999.
Năm 1998 chi nhánh có thực hiện huy động kỳ phiếu 13 tháng có mục đích, lãi suất
trả trước vì vậy nguồn kỳ phiếu của Ngân hàng đã tăng lên rất mạnh. Tuy nhiên bước sang
năm 1999, bên cạnh nguồn kỳ phiếu ngắn hạn (6 tháng) đã được thanh toán hết, và các loại
kỳ phiếu khác như kỳ phiếu 12 tháng trả lãi trước kỳ phiếu có mục đích 13 tháng của Ngân
hàng, kỳ phiếu  12 tháng thông thường khác phần lớn đã được Ngân hàng thanh toán hết
cho khách hàng, thì nguồn huy động hộ Ngân hàng nhà nước của Ngân hàng đã hoàn thành
và chuyển giao là nguyên nhân cho sự giảm Ngân hàng sút hết sức nhanh chóng của tổng
nguồn này.
Lãi suất trái phiếu NHNN được tính trên cơ sở gồm lãi suất cơ bn cộng với chỉ số
trượt giá do Tổng giám đốc NHNN quyết định trong khung lãi suất của Thống đốc Ngân
hàng nhà nước Việt Nam có hai loại: lãi suất cố định trong suốt thời hạn của trái phiếu và
lãi suất có điều chỉnh hàng năm cho từng đợt phát hành.
Hình thức trái phiếu được đông đảo quần chúng dân cư hưởng ứng vì một phần do
lãi suất được tính toán trên cơ sở tính lãi thị trường vốn ngắn hạn tại thời điểm phát hành

phù hợp với chính sách lãi suất của nhà nước.
Trái phiếu NHNN được dùng để thế chấp, cầm cố, để bảo lãnh vay vốn tại các tổ
chức tín dụng kể cả các chi nhánh trong tổ chức NHNN nếu được tổ chức tín dụng cho vay
chấp nhận. Nó là chứng từ có giá, có khả năng chuyển nhượng trong thời hạn lưu hành của
trái phiếu. Riêng loại trái phiếu có ghi tên được phép mua bán tại thị trường chứng khoán.
Người chủ sở hữu có quyền chuyển nhượng sang tên một trái phiếu tối đa là 3 lần và thực
hiện tại chi nhánh NHNN phát hành trên cơ sở ( giấy chuyển nhượng trái phiếu). Ngân
hàng xoá tên người chủ sở hữu cũ và đăng ký lại tên chủ sở hữu mới trong sổ theo dõi của
Ngân hàng.
NHNN Láng Hạ đã phát hành loại kỳ phiếu có mục đích và kỳ phiếu đảm bảo theo
giá trị vàng và ngoại tệ. Lãi suất được trả tức là người trả chỉ trả cho Ngân hàng số tiền
thấp hơn mệnh giá của kỳ phiếu, khi đến hạn người chủ sở hữu của kỳ phiếu, được hưởng
đúng mệnh giá ghi trên kỳ phiếu đó. Nhờ sử dụng hình thức phát hành kỳ phiếu và trái
phiếu này đã tạo điều kiện cho Ngân hàng nông nghiệp có được nguồn vốn tương đối ổn
định để đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn của
nền kinh tế.
- Tăng cường huy động ngoại tệ.
Những giải pháp mà NHNN Láng hạ áp dụng để thu hút vốn ngoại tệ đó là hình
thức hấp dẫn và hết sức thuận lợi đối với người gửi: tỷ giá hối đoái linh hạot, phù hợp, gửi,

×