Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

De Tai Moi Quan He Giua 2 Nguon Von pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.38 KB, 33 trang )

Trường Đại Học Quy Nhơn
Khoa Kinh Tế & Kế Toán
BÀI TIỂU LUẬN
Bộ Môn: Kinh Tế Đầu Tư
Giáo Viên: Hoàng Thị Hoài Hương
Sinh Viên Thực Hiện : Nhóm 12
Đề Tài 7 : Vai trò và mối quan hệ giữa vốn trong và ngoài nước
Thành Viên nhóm 12:
1. Ngô Quang Thái
2. Trần Thị Thùy Trang
3. Hoàng Thị Vân Anh
4. Võ Thị Ngọc Lành
5. Lê Thị Thúy An
Mục Lục
Lời mở đầu
Chương I: Những vấn đề lý luận chung
I. Khái niệm phân loại và bản chất của nguồn vốn đầu tư
1. Khái niệm
1.1 Vốn đầu tư
1.2 Nguồn vốn đầu tư
2. Các nguồn huy động vốn đầu tư
2.1 Nguồn vốn trong nước
2.2 Nguồn vốn nước ngoài
II. Vai trò và mói quan hệ của nguồn vốn đầu tư trong việc thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế
1. Nguồn vốn nước ngoài là quan trọng
2. Nguồn vốn trong nước là quyết định
Chương II: Thực trạng vốn đầu tư trong nước, nước ngoài và
mối quan hệ giữa chúng ở Việt Nam
I. Thực trạng về nguồn vốn trong nước
1. Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước


1.1 Ngân sách nhà nước
1.2 Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
1.3 Vốn đầu tư từ khu vực tư nhân
2. Thị trường vốn
II. Thực trạng về vốn nước ngoài
1.Nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức
2. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
III. Thực trạng về mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong và ngoài nước
IV. Đánh giá
1.Những mặt đạt được
2. Những mặt hạn chế
Chương III: Giải pháp
I. Định hướng thu hút các nguồn vốn đầu tư
II. Giải pháp & Kiến nghị
Lời mở đầu
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật
chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sữa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ
tầng, mua sắm trang thiết biij và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các
tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm
lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành
viên trong xã hội.
Thực hiện đầu tư là một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội. Quá trình này đòi hỏi phải tiêu hao những nguồn lực của xã hội mà trong
đó vốn là một trong những nguồn lực quan trọng. Trên góc độ vĩ mô, vốn được
chia làm hai loại: Vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Hai nguồn vốn
này có quan hệ mật thiết với nhau cũng như tác động trực tiếp đến nền kinh tế của
mỗi quốc gia , vùng lãnh thổ.
Tại Việt Nam, chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để thực
hiện mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa , tăng trưởng kinh tế phấn đấu đến

năm 2020 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp thì việc sử dụng
nguồn vốn đầu tư để đạt được mục đích này là rất quan trọng. Chính vì thế, chúng
ta cần phải nghiên cứu trên cơ sở lý luận về vài trò và mối quan hệ giữa hai nguồn
vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, để từ đó
ứng dụng vào thực tiễn Việt Nam.
Với những lý do nêu trên , nhóm 12 chúng em đã thực hiện nghiên cứu đề tài này.
Trong quá trình thực hiện còn nhiều thiếu sót, nhưng với tinh thần cầu thị và học
hỏi, chúng em mong giáo viên và các bạn chân thành đóng góp ý kiến để chúng
em có thể thực hiện tốt hơn những đề tài sau.
Chương I : Những vấn đề lý luận chung
I. Khái niệm phân loại và bản chất của nguồn vốn đầu tư :
1 . Khái niệm :
1.1. Vốn đầu tư :
Là nguồn lực tích luỹ được cuả xã hội, cơ sở sản xất kinh doanh dịch vụ, tiết kiệm
của dân, huy động từ nước ngoài được biểu hiện dưới các dạng tiền tệ các loại
hoặc hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình và hàng hoá đặc biệt khác.
1.2. Nguồn vốn đầu tư
Là các kênh tập trung và phân phối cho vốn đầu tư phát triển đáp ứng nhu cầu
chung của nhà nước và xã hội.
2. Các nguồn huy động vốn đầu tư :
2.1. Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ của nền kinh tế bao gồm
tiết kiệm của khu vực tư nhân, các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp và tiết kiệm của
chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội .
2.1.1. Nguồn vốn Nhà nước
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn
vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của
doanh nghiệp nhà nước.
a.Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước:
Đây chính là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn

đầu tư quan trọng trong chiến lựơc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự
tham gia của Nhà nước, chi cho các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông
thôn.
b.Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm
đáng kể việc bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đợn vị
sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là
người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ hình thức
cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu
hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó , vốn tín dụng phát triển của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý
và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn vốn tín dụng, nhà nước khuyến khích
phát triển kinh tế xã hội của ngành , vùng, lĩnh vực theo hướng chiến lược của
mình.
c.Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước:
Được xác định là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà
nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế
nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực thì khu vực kinh tế Nhà nước với
sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng một vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế nhiều thành phần.Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà
nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định,
tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể
vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.(thông thường chiếm từ 14-15%)
2.1.2. Nguồn vốn từ khu vực dân cư và tư nhân

Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ
của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực
kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà cuă được
huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư
có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ tryuền thống.
Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới
dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn
huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập
và chi tiêu của các hộ gia đình.
2.2. Nguồn vốn nước ngoài:
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá nhân, các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động được
vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng
lưu chuyển vốn quốc tế . Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị
quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong
các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước
đang phát triển thường được các nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn
này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện
thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có
thể phân loại các nguồn vốn nước ngòai chính như sau:
- Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical development assistance)
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI);
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
2.2.1. Nguồn vốn ODA
Là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này
thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay
dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các

khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư.
Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài
cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài
trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác.Bao
gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi
của chính phủ, các tổ chức liên hợp quốc…Vốn ODA được các chính phủ tài trợ
là để thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát triển
như xây dựng cơ sở hạ tầng , đầu tư nghiên cứu… các yếu tố không hoàn lại của
vay vốn ODA ít nhất 25% , thời gian cho vay dài , khối lượng cho vay lớn, thời
gian ân hạn dài.
2.2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn
ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc
về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là
tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở
ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh
doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi
suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử
dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận
của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể
gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng
trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
2.2.3. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn nước ngoài
khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận.
Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận
thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy

phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ
thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to
lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng
trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước
khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền
sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với
mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình .
Tài sản trong khái niệm này theo thông lệ quốc tế , có thể là tài sản hữu hình (máy
móc , thiết bị , quy trình công nghệ , bất động sản ,…), tài sản vô hình (quyền sở
hữu trí tuệ , bí quyết,kinh nghiệm quản lý ,…) hoặc tài sản tài chính ( cổ phiếu
,trái phiếu , giấy ghi nợ ,…) .Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh
tế có nhân tố nước ngoài.

2.2.4. Thị trường vốn quốc tế
Với xu hướng toàn cầu, mối liên kết ngày càng tăng của thị trường vốn quốc gia
vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi
quốc gia và làm tăng lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu.
Thị trường vốn quốc tế được biểu hiện bằng sự phát triển của thị trường chứng
khoán, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán của các nước đang phát triển
ngày càng mạnh mẽ . Chính phủ của các nước đang phát triển có thể phát hành trái
phiếu trên thị trường vốn quốc tế để huy động nguồn vốn lớn, tập trung cho phát
triển kinh tế .
II. Vai trò và mối quan hệ của nguồn vốn đầu tư trong việc thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế :
1. Nguồn vốn trong nước là quyết định
Đây là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định chi phối mọi hoạt động đầu tư phát
triển trong nước. Trong lịch sử phát triển các nước và trên phương diện lý luận
chung, bất kỳ nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính . Sự chi viện
bổ sung từ bên ngoài chỉ là tạm thời, chỉ bằng cách sử dụng nguồn vốn đầu tư

trong nước có hiệu quả mới nâng cao được vai trò của nó và thực hiện được các
mục tiêu quan trọng đề ra của quốc gia.
1.1. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN)
Đầu tư từ NSNN là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư.
Nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm đẩy
mạnh đầu tư của mội thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch,
chính sách và pháp luật đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh
vực quan trọng nhất của nền kinh tế, đảm bảo theo đúng định hướng của chiến
lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Với vai trò là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định điều điều tiết vĩ mô, vốn tư
NSNN đã được nhận thức và vận dụng khác nhau tuỳ thuộc quan niệm của mỗi
quốc gia. Trong thực tế điều hành chính sách tài khoá, Nhà nước có thể quyết định
tăng, giảm thuế, quy mô thu chi ngân sách nhắm tác động vào nền kinh tế. Tất cả
những điều đó thể hiện vai trò quan trọng của NSNN với tư cách là công cụ tài
chính vĩ mô sắc bén nhất hữu hiệu nhất, là công cụ bù đắp những khiếm khuyết
của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái…
1.2. Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp
Đây là nguồn vốn có sự phát triển và đổi thay khá mạnh khi nền kinh tế có sự
chuyển biến. Các doanh nghiệp luôn là lực lượng đi đầu trong việc ứng dụng tiến
bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã
hội và chấp hành pháp luật. Nên nguồn vốn xuất phát từ nó có vai trò hữu hiệu hỗ
trợ cho sự định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
1.3. Vốn đầu tư của nhân dân
Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư phụ thuộc rất lớn vào thu nhập và chi tiêu của các
hộ gia đình. Đây là một lượng vốn lớn. Nhờ có lượng vốn này mà đã góp phần giải
quyết tình trạng thiếu vốn trong các doanh nghiệp, nó cũng giải quyết được một
phần lớn công ăn việc làm cho lao dộng nhàn rỗi trong khu vực nông thôn từ đó
thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.
Như vậy vốn đầu tư trong nước là nguồn cơ bản đảm bảo cho sự tăng trưởng
kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn và

lâu bền. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển, khả năng tích
luỹ thấp thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để bổ sung có ý
nghĩa rất quan trọng.
2 . Nguồn vốn nước ngoài là quan trọng
Nếu như vốn trong nước là nguồn có tính chất quyết định, có vai trò chủ yếu thì
vốn nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng trong những bước đi ban đầu tạo ra
“cú hích” cho sự phát triển.
Đi sâu tìm hiểu ta có thể nhận rõ vai trò cụ thể của từng loại vốn nước ngoài.
2.1. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA)
Đây là nguồn vốn đầu tư nước ngoài tuy không quan trọng như nguồn FDI song
cũng đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề .Chủ yếu là cùng với FDI bổ sung cho
vốn đầu tư phát triển.
Ngoài ra ODA còn có vai trò quan trọng trong việc giúp các nước nghèo tiếp thu
những thành tựu khoa học,công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực.
Và cuối cùng ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế và tạo
điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang và chậm phát
triển.
2.2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong số các nguồn huy động từ nước ngoài.
Không chỉ có vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế xã hội, mà biểu hiện cụ
thể thông qua ba tiêu chí:
- Kích thích công ty khác tham gia đầu tư
- Góp phần thu hút viện trợ phát triển chính thức
- Gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, do đó tăng thêm tỷ lệ huy động vốn trong
nước.
Ngoài ra FDI còn góp phần quan trọng vào việc đổi mới và nâng cao trình độ công
nghệ trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế.
FDI còn có vai trò tích cực trong việc góp phần giải quyết việc làm và quan
trọng hơn cả là đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Số lượng lao động
có việc làm và chuyên môn cao ở trong nước ngày càng tăng, và điều cơ bản mà

FDI đã làm được đó là không chỉ nâng cao tay nghề mà còn thay đổi tư duy và
phong cách lao động theo kiểu công nghiệp hiện đại, là lực lượng tiếp thu chuyển
giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiến bộ .
Từ đó mà hiệu quả làm việc và năng suất lao động cũng tăng nên thể hiện
qua thị trường quốc tế đẫ chấp nhận sản phẩm của các nước kém phát triển này.
Chính vì vậy mà FDI còn có vai trò mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài.
Cuối cùng, vai trò của FDI thể hiện qua việc lành mạnh hoá các thể chế
kinh tế - tài chính và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô. Để có thể thu hút FDI, chúng ta
phải đứng trước yêu cầu cấp thiết cải tạo và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp
luật nhằm xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn. Có như thế chúng ta mới lọt vào
tầm ngắm của các nhà đầu tư nước ngoài.

Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn:
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế của một nước đang phát triển do mức thu
nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ là rất khiêm tốn. Nhưng giai đoạn
này lại cần một khoản vốn lớn để đầu tư nhằm hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng,
xây dựng các công trình làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Trong giai
đoạn này thường tồn tại khoảng cách lớn giữa đầu tư với tiết kiệm, cần nguồn bù
đắp. Hơn nữa trong giai đoạn này do nền công nghiệp của đất nước chưa phát triển
nên hàng xuất khẩu nếu có chỉ đa phần là hàng sơ chế nông sản, nguyên liệu thô…
có giá trị gia tăng thấp. Ngược lại về phía nhập khẩu do nhu cầu phát triển đòi hỏi
phải nhập khẩu hàng cao cấp máy móc thiết bị kĩ thuật công nghệ… có giá trị gia
tăng cao. Điều đó dẫn đến cán cân thương mại, cán cân thanh toán luôn nằm trong
tình trạng thâm hụt. Để giải quyết khó khăn này, nhiều nước đã tìm đến nguồn vốn
đầu tư nước ngoài nhằm tài trợ cho những thiếu hụt đó.
Mặt khác với các nước đang phát triển thường rơi vào vòng luẩn quẩn
Thu nhập bình quân thấp → Tiết kiệm, Đầu tư thấp

Năng suất thấp ¬ Tăng trưởng chậm
Để tạo ra sự “cất cánh” cho nền kinh tế phải tìm cách tạo ra mức sản lượng, mức

thu nhập ngày càng gia tăng muốn vậy cần phải có vốn đầu tư và kĩ thuật tiên tiến.
Và trong lúc nền kinh tế còn đang trong trạng thái tự đảm bảo một cách khó khăn
sự sinh tồn của mình, không thể trông đợi hoàn toàn vào con đường “thắt lưng
buộc bụng” tích luỹ nội bộ. Mà không phát triển nhanh thì nước đó luôn rơi vào
tình trạng rượt đuổi do tụt hậu phát triển. Vốn đầu tư nước ngoài lúc này là cơ sở
để tạo công ăn việc làm cho số lao động thường là dư thừa, thực hiện phân công
lao động mới nhằm mục tiêu nâng cao năng suất lao động. Đây là tác động kép
của vốn đầu tư nước ngoài vừa tạo công ăn việc làm đồng thời làm gia tăng thu
nhập cho người lao động và đất nước. Vốn đầu tư nước ngoài khuyến khích nhập
các công nghệ tiên tiến là cơ sở làm gia tăng năng suất lao động xã hội, gia tăng
sản lượng làm nền kinh tế tăng trưởng. Trên cơ sở đó làm gia tăng tích luỹ nội bộ
nền kinh tế: Ngân sách Nhà nước tăng do thu thêm thuế lệ phí từ khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài, tích luỹ dân cư tăng do thu nhập tăng. Như vậy nếu sử dụng tốt
thì vốn đầu tư nước ngoài về ngắn hạn là đáp ứng vốn đầu tư phát triển, về dài hạn
góp phần gia tăng nguồn vốn tích luỹ trong nước.
Song không phải là lúc nào nguồn vốn nước ngoài cũng đem lại hiệu quả như
mong muốn, mà nó cũng luôn tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng nợ nước ngoài và gia
tăng sự phụ thuộc vào nền kinh tế nước ngoài. Vì vậy, vấn đề là làm thế nào để sử
dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài? Mà thông thường để vốn đầu tư nước ngoài
phát huy tác dụng cần có một tỉ lệ vốn đối ứng trong nước thích hợp. Nghĩa là
muốn tiếp nhận được vốn nước ngoài thì trong nước cũng phải chuẩn bị sẵn một
số cơ sở nhất định toạ điều kiện cho vốn nước ngoài hoạt động hiệu quả. Theo
kinh nghiệm của một số nước nhóm NIC
S
thì giai đoạn đầu của quá trình phát triển
tỉ lệ này thường thấp 1/1.5 nghĩa là một đồng vốn nước ngoài cần 1.5 đồng vốn
trong nước. Ở giai đoạn sau khi các chương trình đầu tư nghiêng về ngành công
gnhiệp chế biến có hàm lượng vốn và kĩ thuật cao thì tỉ lệ này tăng lên 1/2.5.
Ngoài ra vốn đầu tư trong nước còn đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước
ngoài chảy vào các ngành, các lĩnh vực cần thiết. Đầu tư trong nước trên cơ sở

đầu tư ban đầu tạo ra những cơ sỡ hạ tầng căn bản, đầu ra, đầu vào…song lại thiếu
máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại để tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao,
mang tính cạnh tranh so với quốc tế để phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu.Với cơ sở
hạ tầng sẵn có đó thì đầu tư nước ngoài trở nên an toàn và ít tính rủi ro hơn, bởi vì
bản chất của dòng đầu tư nước ngoài là tìm kiếm nơi có tỉ suất lợi nhuận cao hơn,
đem lại nhiều lợi nhuận hơn sẽ làm đầu tư nước ngoài tập trung nhiều hơn.
Như vậy vốn trong nước và vốn nước ngoài có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Như Đảng và Nhà nước ta đã xác định trong giai đoạn đầu của quá trình công
nghiệp hoá vốn nước ngoài có thể đóng vai trò xung lực tạo sức đột phá cho bước
nhảy vọt sản lượng, cũng như những cơ sở vững chắc cho việc đạt mục tiêu tăng
trưởng nhanh lâu bền. Song về lâu dài nó không thể đóng vai trò quyết định so với
nguồn lực riêng có của đất nước.
Chương II: Thực trạng vốn đầu tư trong nước,
nước ngoài và mối quan hệ giữa chúng ở Việt Nam
I. Thực trạng về nguồn vốn trong nước
1. Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước
Để không lệ thuộc nước ngoài về kinh tế Đảng luôn xác định nhiệm vụ và giải
pháp quan trọng phát triển kinh tế xã hội là “huy động tối đa nguồn lực để phát
triển kinh tế xã hội nhất là nội lực, nguồn lực trong dân và tăng sức thu hút đầu tư
nước ngoài, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư của nước ngoài,
tăng cường quản lý sử dụng đất đai, đề cao kỉ luật tài chính, đẩy mạnh thi đua sản
xuất, thực hành tiết kiệm, phấn đấu giảm bội chi”.Thực tế cho thấy tỉ lệ vốn đầu tư
khu vực trong nước luôn chiếm khoảng trên 70% so với tổng vốn đầu tư toàn xã
hội và hiện nay có xu hướng ngày càng tăng.
1.1 Ngân sách nhà nước
Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và
phát triển của kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong các phương thức sản xuất của cộng

đồng và nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của nhà nước, sự
tồn tại của kinh tế hàng hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và
phát triển của ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm
ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân
dân.
Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 595.000 tỷ đồng tương đương 26,2%
tổng sản phẩm trong nước; tính cả 10.000 tỷ đồng thu chuyển nguồn năm 2010
sang năm 2011 thì tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 605.000 tỷ đồng
Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 725.600 tỷ đồng
Mức bội chi ngân sách nhà nước là 120.600 tỷ đồng ,tương đương 5,3% tổng sản
phẩm trong nước.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện sáu tháng đầu năm 2011 theo giá thực tế ước tính
đạt 409,7 nghìn tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước và bằng 38,3% GDP
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện
sáu tháng đầu năm ước tính đạt 73,7 nghìn tỷ đồng, bằng 38,8% kế hoạch năm và
tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2010, gồm có:
Vốn trung ương quản lý đạt 17,7 nghìn tỷ đồng, bằng 42,4% kế hoạch năm và
tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Công
Thương là 1612 tỷ đồng, bằng 39,5% và tăng 6,8%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn 1912 tỷ đồng, bằng 52,1% và tăng 22,7%; Bộ Y tế 432 tỷ đồng, bằng
48,1% và tăng 3,9%; Bộ Xây dựng 242 tỷ đồng, bằng 24,7% và giảm 29,6%; Bộ
Giáo dục và Đào tạo 381 tỷ đồng, bằng 42,4% và tăng 2,7%; Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch 260 tỷ đồng, bằng 46,6% và giảm 1,5%.
Vốn địa phương quản lý đạt 56 nghìn tỷ đồng, bằng 37,7% kế hoạch năm và tăng
9,2% so với cùng kỳ năm 2010. Một số địa phương có khối lượng vốn đầu tư thực
hiện lớn là: Hà Nội đạt 7444 tỷ đồng, bằng 37,1% kế hoạch năm và tăng 9,5% so
với cùng kỳ năm 2010; thành phố Hồ Chí Minh 6211 tỷ đồng, bằng 44% và tăng

12,5%; Đà Nẵng 3785 tỷ đồng, bằng 66% và tăng 3,6%; Thanh Hóa 2277 tỷ đồng,
bằng 46,9% và tăng 11,9%; Quảng Ninh 2035 tỷ đồng, bằng 51,8% và tăng 6,4%;
Cần Thơ 1596 tỷ đồng, bằng 57,1% và tăng 11,4%; Hậu Giang 1537 tỷ đồng, bằng
71,6% và tăng 10,9%.
1.2. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
Thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ, các tập đoàn, Tổng Công ty (TCty) nhà
nước đều thực hiện nghiêm túc việc rà soát, cắt giảm các dự án đầu tư. Trong năm
2011, khối Doanh Nghiệp (DN) này đã chủ động cắt giảm, dãn tiến độ thực hiện
tổng cộng 633 công trình, dự án chưa cần thiết, kém hiệu quả, điều chuyển vốn với
tổng trị giá 49.942 tỉ đồng, chiếm hơn 50% tổng trị giá cắt giảm đầu tư của cả
nước. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến giá trị đầu tư của các DN đều thấp
hơn so với kế hoạch đã góp phần làm giảm tổng cầu vốn của nền kinh tế.
Hầu hết các DN, theo đánh giá, đều gặp khó khăn lớn về nguồn vốn huy động cho
đầu tư. Nhiều nguồn vốn bố trí để thực hiện các dự án trọng điểm cũng khó thu
xếp, chậm tiến độ thi công. Giá trị đầu tư bình quân chỉ đạt từ 60-70% kế hoạch.
Tính đến hết 8 tháng năm 2011, EVN thực hiện khối lượng vốn đầu tư 37.811 tỉ
đồng, chỉ bằng 54,1% kế hoạch, trong đó giá trị giải ngân đạt 31.094 tỉ đồng, bằng
44,5% KH. Các TCty có mức đầu tư đạt thấp là TCty Hàng không (39%), TCty
Ximăng (49%), TCty Sông Đà (59%)
Ngoài ra, những khó khăn nội tại và chi phí đầu vào tăng cao dẫn đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh của một số DN thấp, thậm chí bị thua lỗ. Điển hình là Tập đoàn
CN Tàu thủy VN (Vinashin), chậm tái cơ cấu, sản xuất kinh doanh chưa đáp ứng
được yêu cầu kế hoạch đề ra. Đến nay, tập đoàn này còn khoản lỗ lên tới 3.092 tỉ
đồng. Một số đơn vị thành viên Vinashin hiện chưa có khả năng trả nợ lương, bảo
hiểm xã hội cho người lao động. Tập đoàn Điện lực VN lũy kế lỗ đến ngày
30.6.2011 là 31.565 tỉ đồng. Trong đó, riêng năm 2010, EVN do phải phát các
nguồn điện chạy dầu giá thành cao, đầu tư tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn mà
khoản lỗ lên tới 23.647 tỉ đồng. 6 tháng đầu năm 2011, DN này lỗ tiếp gần 8.000 tỉ
đồng nữa.
TCty Hàng hải VN (Vinalines) 6 tháng đầu năm cũng có mức lỗ khiêm tốn 660 tỉ

đồng, chưa kể khoản nợ nhận từ Vinashin chuyển sang là 16.000 tỉ. Tiếp đến,
TCty Xăng dầu VN (Petrolimex), số liệu đến hết 7 tháng đầu năm, cũng ghi nhận
khoản lỗ 1.449 tỉ đồng. Còn Tập đoàn Sông Đà thiếu vốn do chủ đầu tư chậm
thanh toán theo hợp đồng đến mức nợ lên đến trên 5.500 tỉ đồng. Nhiều DN thuộc
các lĩnh vực vận tải, xây dựng, ximăng, sắt thép hiện đang có tỉ lệ lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu đạt thấp, dưới mức 5%. Đã xuất hiện nợ xấu của các ngân hàng
thương mại lớn tăng cao như Vietcombank tỉ lệ nợ xấu tới 3,47%, NH NNPTNT
nợ xấu tới 6,67% Tình hình đã ở mức báo động khiến Đảng ủy khối DN Trung
ương cảnh báo: “Nếu không có các giải pháp tháo gỡ kịp thời, một số DN sẽ dần
mất khả năng thanh toán, rơi vào khủng hoảng nợ”.
Dù hiện thua lỗ, không có khả năng thu xếp vốn để đầu tư các công trình, dự án
thuộc lĩnh vực kinh doanh chính, nhưng nhiều tập đoàn, TCty nhà nước vẫn còn
găm giữ vốn đầu tư ra ngoài ngành, dẫn đến việc đầu tư phân tán, dàn trải, hiệu
quả thấp. Thống kê trong số 21 trên tổng số 31 DN, ngân hàng có đầu tư ra ngoài
ngành cho thấy, các đơn vị đã dành tới 22.590 tỉ đồng để đầu tư ra ngoài ngành
nghề chính. Có 6 DN đầu tư trên 1.000 tỉ đồng. Trong số này, nhiều nhất là Tập
đoàn Dầu khí VN (PVN), dù đã có chủ trương thoái vốn đầu tư ở nhiều lĩnh vực
ngoài ngành, nhưng đến nay, tập đoàn vẫn còn tới 6.690 tỉ đồng, chiếm 3,76% vốn
điều lệ đầu tư vào các lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, bất động sản, chứng
khoán Tập đoàn CN Caosu VN đứng vị trí thứ 2 với khoản đầu tư ra bên ngoài
khoảng 3.700 tỉ đồng, chiếm 19,8% vốn điều lệ. EVN hiện có khoản lỗ khổng lồ
lớn nhất trong số các tập đoàn, TCty nhà nước (11.669 tỉ đồng), nhưng cũng chưa
kịp thoái vốn ở các lĩnh vực đầu tư ngoài ngành mà DN này đã đầu tư trước đó
như ngân hàng, bất động sản, kinh doanh khách sạn Hiện vốn đầu tư ngoài
ngành của EVN là 2.100 tỉ đồng, chiếm 2,8% vốn điều lệ.
Hiện có 13 DN đầu tư nhiều nhất vào các lĩnh vực được xem là tiềm ẩn nhiều rủi
ro, dễ mất an toàn vốn là tài chính, ngân hàng, bảo hiểm với số vốn lên tới hơn
10.700 tỉ đồng; 13 DN khác đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán với tổng số vốn là
1.300 tỉ đồng. 8 doanh nghiệp đầu tư vào bất động sản, khu công nghiệp xây lắp
với tổng vốn hơn 3.754 tỉ đồng; 8 DN đầu tư vào BĐS, khu công nghiệp, xây lắp

với tổng vốn hơn 3.754 tỉ đồng, riêng Tập đoàn Caosu đầu tư hơn 1.500 tỉ đồng
1.3. Vốn đầu tư từ khu vực tư nhân
Khu vực tư nhân Việt nam, cả bộ phận doanh nghiệp có đăng ký và bộ phận hộ gia
đình phi chính thức chiếm 40%. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong
những năm qua và trong thời gian tới là tiếp tục huy động mọi nguồn lực cho phát
triển kinh tế đặc biệt là nguồn vốn trong dân. Theo đánh giá sơ bộ khu vực kinh tế
ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy
động triệt để nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư và
phần tích luỹ của cách doanh nghiệp dân doanh.
a.Tiết kiệm của khu vực dân cư
Cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước một bộ phận không nhỏ trong dan cư
có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích luỹ truyền thống.
Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ tồn tại dưới
dạng vàng ngoại tệ tiền mặt. Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy
động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Điều này đã được thể hiện bằng thực tế,
nguồn vốn huy động từ tiết kiệm của dân cư chiếm 80% tổng nguồn vốn huy động
của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Qua một số đợt phát hành công trái đã huy động
một lượng vốn rất lớn từ dân cư, chỉ một thời gian ngắn nhưng số tiền huy động đã
lên đến hàng ngàn tỉ đồng.
b. Đầu tư của khu vực dân doanh
Cùng với sự xác định của Đảng và Nhà nước về vai trò cụ thể của thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh thì trong những năm đổi mới vừa qua , diễn biến cơ cấu
nguồn vốn đầu tư ở nước ta đã cho thấy xu thế vận động hướng tới cơ cấu ngày
càng có hiệu quả phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN . Trong đó đặc trưng là nguồn vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh đã gia tăng trong tổng đầu tư xã hội.
Xét về mặt hiệu quả và chất lượng, có bằng chứng cho thấy hiệu quả sử dụng vốn
của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là tương đối cao so với các khu vực kinh tế
khác. Với tính chất phong phú, đa dạng, linh hoạt, năng động và chứa đựng cả
những khả năng lớn của sáng kiến cá nhân, trên phương diện lý thuyết, khu vực

kinh tế ngoài quốc doanh có cơ sở và trách nhiệm phải sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn của mình.
2. Thị trường vốn
Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phảt triển kinh tế của các
nước có nền kinh tế thị trường. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng
khoán là trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, vốn
nhàn rỗi của các doanh nghiệp, tổ chức tài chính
Kinh tế Việt Nam trong 06 tháng đầu năm 2011 diễn biến theo chiều hướng xấu,
nổi bật là tình trạng lạm phát gia tăng mạnh, chỉ số CPI tính đến tháng 6/2011 tăng
13,29% so với tháng 12/2010 và tăng 20,82% so với cùng kỳ năm 2010 ; trong khi
đó tăng trưởng GDP chỉ ở mức trung bình (GDP trong sáu tháng đầu năm 2011
ước tính tăng 5,57% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó quý I tăng 5,43%; quý II
tăng 5,67%); tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại chưa có dấu
hiệu được cải thiện (bội chi ngân sách của Việt Nam luôn ở mức 5%GDP từ nhiều
năm nay; thâm hụt thương mại tính đến 15/5 là 5.8 tỷ USD, tăng tới 13% so với
cùng kỳ năm 2010 và dự báo vào khoảng 7,5 tỷ USD trong 06 tháng đầu năm).
Diễn biến trên được thể hiện rất rõ qua diễn biến ảm đạm của thị trường chứng
khoán Việt Nam trong 06 tháng đầu năm 2011, chỉ số Vnindex đã có lúc giảm
xuống mức 371 điểm ngày 26/5/2011và Hnindex cũng đã thiết lập mức đáy mới
trong lịch sử của mình với 69 điểm ngày 25/5/2011.
Chỉ số VNI bị thao túng bởi một nhóm cổ phiếu có vốn hóa lớn tiểu biểu là BVH,
MNS, VIC, DPM, VCB, CTG, VNM, đây cũng là những cổ phiếu chiếm tỷ trọng
lớn trong danh mục đầu tư của khối ngoại. Động thái này đã giúp cho VNI neo tại
khu vực 450 – 480 điểm trong một thời gian khá dài trước khi sụt giảm mạnh từ
giữa tháng 5. Trong khi đó, chỉ số HNX phản ánh trung thực hơn so với VNI do
không bị bóp méo bởi một số cổ phiếu vốn hóa lớn, do đó nhiều cổ phiếu tại đây
đã sụt giảm khá sâu, đa số mất giá từ 50 – 100% thị giá so với mức đầu năm và
hiện theo thống kê có tới 2/3 cổ phiếu có thị giá dưới mệnh giá. Với việc sụt giảm
trong suốt thời gian trên thì hiện chỉ số P/E toàn thị trường chỉ còn khoảng 8.5,
mức khá thấp so với các thị trường chứng khoán các nước trên thế giới. Thực tế,

nếu loại bỏ nhóm 03 cổ phiếu BVH, MSN, VIC thì thực tế Vnindex hiện đang ở
mức 300 điểm, khá gần với mức đáy thiết lập trong tháng 2/2009.
Hoạt động giải chấp diễn khá mạnh do thị trường giảm sút mạnh khiến cho bộ
phận nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy cao phải thanh lý bớt danh mục đầu tư để trả nợ,
trong khi đó các Công ty chứng khoán ( CTCK) cũng mạnh tay trong việc giảm
hạn mức cho vay đối với các nhà đầu tư nhằm đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn và giảm
thiểu rủi do triển vọng thị trường không mấy sáng sủa. Thực tế chúng ta vẫn chưa
thể xác định chính xác được số lượng nợ xấu tại các công ty chứng khoán, một số
bài viết cho rằng các khoản phải thu của các CTCK hiện khoảng 11.200 tỷ đồng ,
đây thực sự là vấn đề không chỉ đối với các CTCK mà còn ảnh hưởng trực tiếp
đến hệ thống ngân hàng do đa số các CTCK tại Việt Nam đều công ty con hoặc có
liên hệ mật thiết với các NHTM, hiện theo thống kê tại Tp. Hồ Chí Minh tính đến
hết tháng 4, nợ xấu của các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố tăng lên 4,2%
so với tháng trước là 3,9% trong đó các công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính có nợ xấu lên đến 26,3%, ngân hàng quốc doanh 5,6%, NHTMCP ở mức
2,9%.
Nhà đầu tư trong nước gần như mất hết niềm tin vào thị trường, một bộ phận tỏ ra
bức xúc trước cách hành xử của những người có trách nhiệm khi không có một
động thái đáng kể nào giúp hỗ trợ nhà đầu tư và nâng cao tính thanh khoản của thị
trường như cho phép thanh toán T+2, miễn thuế thu nhập chứng khoán Tuy mới
đây Bộ Tài chính (1/6) đã ban hành Thông tư 74/2011/TT-BTC hướng dẫn hoạt
động giao dịch chứng khoán, mặc dù nội dung thông tư có nhiều điểm tích cực
như cho phép giao dịch ký quỹ (Margin), mua bán trong phiên, mở nhiều tài khoản
qua đó hợp thức hóa các hình thức giao dịch đã được hầu hết các CTCK sử dụng,
tuy nhiên nội dung được NĐT mong đợi nhất là thanh toán T+2 vẫn chưa được đề
cập. Dù sao Thông tư này được đánh giá là liều thuốc cần thiết nhằm giải tỏa phần
nào tâm lý của NĐT thời gian qua.
Nhà đầu tư nước ngoài vẫn liên tục mua ròng tuy nhiên giá trị mua ròng đã giảm
khoảng một nửa so với cùng kỳ năm 2010 đạt mức 3,620 tỷ đồng, tập trung vào
các mã truyền thống như VNM, CTG, DPM, VCB, PVD, HAG trên sàn Hose và

PVS, VCG, PVX… trên sàn Hax. Tuy nhiên xu hướng này đã gặp thử thách thời
gian khi thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang trong xu hướng giảm trung
hạn và triển vọng kinh tế chưa có nhiều tiến triển.
II. Thực trạng về vốn nước ngoài
Sau khi thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa chuyển sang nền kinh tế thị trường
thì Việt Nam đã mở ra một kênh mới rất có triển vọng trong việc thu hút nguồ lực
từ bên ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đặc biệt là từ khi chính phủ ban bố
luật đầu tư nước ngoài khối lượng FDI gia tăng nhanh dần qua các năm. Và FDI
đã góp phần tạo đà tăng trưởng nhanh cho kinh tế nước ta. Cuối năm 1993 là thời
điểm đánh dấu bước chuyển của động thái dùng vốn nước ngoài, khi mà các thành
tựu cải cách đã đủ sức chứng tỏ triển vọng phát triển nhanh và lâu bền của nền
kinh tế Việt Nam.Tháng 10/1993 diễn ra Hội nghị lần 1 các nhà tài trợ cho Việt
nam tại Pari - ở hội nghị này các chính phủ và tổ chức quốc tế cam kết tài trợ cho
Việt nam 1.860 tỉ USD. Ngay sau đó cùng với sự giúp đỡ của các nhà tài trợ quốc
tế ta đã giải quyết nợ quá hạn với IMF. IMF cũng tuyên bố cho Việt Nam vay
theo thể thức dự phòng 230 triệu USD. Đến năm 1994 Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh
cấm vận kinh tế đối với Việt Nam, năm 1995 Việt Nam chính thức gia nhập
ASEAN.Những điều đó đã làm dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được
thuận lợi hơn
1. Nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức (ODA) :
Nguồn vốn ODA được khẳng định là “ nguồn tài trợ có tầm quan trọng đặc biệt
cho chương trình phát triển kinh tế nước ta “, là động lực cho phát triển bền vững
nếu biết sử dụng đúng. ODA với đặc điểm vay ưu đãi thời hạn dài là phần thiết
yếu để thực hiện tái thiết đất nước, nhưng hiện nay nguồn vốn này càng khó khăn
hơn do có sự cạnh tranh giữa các nước nghèo trong khi ngân khố ODA của các
nước giàu ngày một giảm.Vốn ODA được đầu tư chủ yếu theo các chương trình
dự án giúp phát triển khu vực kém phát triển, vùng núi,vùng sâu vùng xa đặc biệt
là các chương trình xoá đói giảm nghèo, định canh định cư …
Nhật Bản là quốc gia viện trợ ODA nhiều nhất cho Việt Nam. Kế tiếp đó là Ngân
Từ năm 1950, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước XHCN , và

nhận viện trợ , trong đó có ODA . Sau năm 1975, chúng ta còn tiếp tục nhận viện
trợ ODA, không chỉ từ các nước XHCN mà còn từ các nước TBCN.
Năm 2011, trong bối cảnh Việt Nam phải cắt giảm đầu tư công để kiềm chế lạm
phát, nguồn vốn ODA với lãi suất ưu đãi và thời hạn vay kéo dài càng được coi là
nguồn lực quan trọng để đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Việt Nam hiện có 51 nhà tài trợ, trong đó có 28 nhà tài trợ song phương và
23 nhà tài trợ đa phương, đóng góp khoảng 3-4% GDP của Việt Nam trong thời kỳ
2006-2010. Những năm gần đây, lượng vốn ODA cam kết năm sau đều cao hơn
năm trước, lên tới khoảng 8 tỷ USD mỗi năm, thể hiện sự tin tưởng của các nhà tài
trợ vào khả năng phát triển (và trả nợ) của Việt Nam.
Vốn ODA ký kết trong 5 tháng đầu năm nay cũng tăng rất cao. Tổng số vốn ODA
ký kết thông qua các hiệp định đã đạt trên 1,66 tỷ USD, tăng khoảng 20% so với
cùng kỳ năm ngoái.
Tại Diễn đàn Hiệu quả viện trợ (AEF) lần thứ 3 vừa được tổ chức tại Hà Nội, Thứ
trưởng thường trực Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cao Viết Sinh khẳng định: “Cùng với
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm và Kế hoạch 5 năm, việc hoàn thiện
chính sách, thể chế về ODA thông qua việc xây dựng Đề án Định hướng thu hút
sử dụng, quản lý nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đãi khác của nhà tài trợ
thời kỳ 2011-2015 cũng như nghiên cứu thay thế Nghị định 131/2006/NĐ-CP về
quản lý, sử dụng ODA là yêu cầu bức thiết”.
Cũng như đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, không phải con số cam kết mà
số vốn giải ngân mới cho thấy hiệu quả thực sự của nguồn vốn này trong tiến trình
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trong hai năm 2009-2010, giải ngân vốn
ODA đều ở mức cao (3 - 4 tỷ USD/năm), thể hiện nỗ lực lớn của Việt Nam cũng
như của các nhà tài trợ, nếu như so sánh với nhiều năm trước đó.
Trong 5 tháng đầu năm 2011, ước tính tổng giá trị giải ngân vốn ODA đạt 1,26 tỷ
USD, bằng 52,5% kế hoạch giải ngân của cả năm. Năm 2010, các số liệu tương
ứng là 844 triệu USD và 35% kế hoạch năm. Theo Bộ KH - ĐT, có khả năng vốn
ODA giải ngân sẽ đạt khoảng 1,35 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2011, bằng
56,25% kế hoạch cả năm.


2. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước 6 tháng đầu năm 2011 phải đối mặt với nhiều
khó khăn thách thức của thời hậu khủng hoảng kinh tế (công nghiệp tăng trưởng
chậm lại, lạm phát, nhập siêu còn cao, thiên tai dịch bệnh diễn biến phức tạp…)
thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là điểm sáng nhất.
Điểm sáng nhất thể hiện trên nhiều mặt, từ tổng lượng vốn, quy mô vốn bình quân
một sự án, cơ cấu vốn, tốc độ tăng vốn thực hiện đến kết quả hoạt động của khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 22/6/2011 đạt 5666,7
triệu USD , bằng 56,7% cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Vốn đăng ký 4399,2 triệu
USD của 455 dự án được cấp phép mới (giảm 49,9% về vốn và giảm 30,1% về số
dự án so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung 1267,5 triệu USD của 132
lượt dự án được cấp phép từ các năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực
hiện 6 tháng đầu năm ước tính đạt 5300 triệu USD, giảm 1,9% so với cùng kỳ năm
2010
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 6 tháng đầu năm 2011
Chỉ tiêu Đơn vị tính Số vốn
So với cùng kỳ năm
2010
Vốn thực hiện Tỉ USD 5,3 98,1
Vốn đăng ký Tỉ USD 5,6 51,9
+ Cấp mới Tỉ USD 4,3 50,1
+ Tăng vốn Tỉ USD 1,26 105,3
Số dự án:
+ Cấp mới Dự án 455 69,9
+ Tăng vốn Lượt dự án 132 57,6
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Về cơ cấu thu hút vốn đầu tư mới (kể cả cấp mới và tăng thêm), theo kết quả thu
hút vào một số ngành chính cho thấy lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn

chiếm tỷ trọng lớn trong thu hút FDI mới; đầu tư vào kinh doanh bất động sản
đứng ở vị trí thứ tư với 5,3%, nếu cộng cả lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống gắn
rất chặt với kinh doanh bất động sản (6,2%) thì đạt 11,5% sẽ ở vị trí thứ hai. Đáng
lưu ý là cả một phân ngành lớn là nông lâm nghiệp, thủy sản vẫn ở vị trí thấp nhất
(theo kết quả thống kê nhiều năm qua so với ba phân ngành chính công nghiệp và
xây dựng; dịch vụ; nông lâm ngư nghiệp) chỉ chiếm 1,2%
Số vốn FDI đăng ký mới 6 tháng đầu năm 2011
(Đơn vị : Tỉ USD )

STT
Ngành Số vốn % so với tổng vốn
1 Công nghiệp chế biến, chế tạo 3,33 58,8
2 Xây dựng 0,47 8,3
3 Dịch vụ lưu trú và ăn uống 0,35 6,2
4 Kinh doanh bất động sản 0,30 5,3
5 Nông, lâm nghiệp, thủy sản 0,07 1,2
6 Dịch vụ khác 1,14 20,2
Tổng vốn 5,66 100
Nguồn: Cục ĐTNN – Bộ KH&ĐT
Về đối tác đầu tư cho thấy đối tác đầu tư lớn của Việt Nam vẫn chủ yếu là các
nước ở khu vực Châu Á. Xếp hạng theo thứ tự lần lượt là: Singapore, Hàn Quốc,
Hồng Koong, Nhật Bản …
Tốp 10 nhà đầu tư FDI lớn nhất 6 tháng đầu năm 2011
STT Đối tác Vốn (triệu USD)
1 Singapore 1,325
2 Hàn Quốc 673
3 Hồng Koong 631
4 Nhật Bản 466
5 Malaysia 419
6 Vương quốc Anh 329

7
B.V. Islands
291
8 Samoa 252
9 Thụy Sĩ 247
10 Đài Loan 238
Nguồn: Cục ĐTNN – Bộ
KH&ĐT
III . Thực trạng về mối quan hệ giữa vốn đầu trong nước và nước ngoài
1. Nguồn vốn trong nước tác động tới nguồn vốn nước ngoài một cách gián tiếp
như sau : Nguồn vốn trong nước mà đặc biệt là nguồn vốn nhà nước, đã đẩy
nhanh quá trình phát triển hạ tầng kinh tế xã hội , thúc đẩy tăng trưởng kinh tế :
Để phát triển nhanh và bền vững , thực hiện công nghiệp hóa nguồn vốn nhà nước
đã tập trung đầu tư vào các công trình thiết kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội những
công trình giao thông then chốt của nền kinh tế như đường bộ , sân bay , bến
cảng , đường sắt, công trình thủy lợi được nâng cấp và làm mới , tập trung xây
dựng các công trình điện , thông tin liên lạc , cải tạo và xây dựng mới kết cấu hạ
tầng các khu đô thị , khu công nghiệp , các bệnh viện trường học, công trình văn
hóa thể thao , đầu tư nhiều hơn cho các chương trình mục tiêu quốc gia . Điều đó
đã tạo điều kiện phát triển sản xuất , và đặc biệt là thu hút cách nhà đầu tư nước
ngoài hay là nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng bởi vì khi đầu tư
vào đâu thì các nhà đầu tư nước ngoài luôn xem xét vấn đề lợi nhuận và tạo điều
kiện ở nơi đầu tư có cơ sở hạ tầng có tốt không… và nguồn vốn trong nước có thể
nói là đã rải thảm để đón nguồn đầu tư nước ngoài
2. Đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng
nhu cầu phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế
Đóng góp của đầu tư nước ngoài ( ĐTNN) trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến
động lớn từ tỷ trọng chiếm 13,1% năm 1990 tăng lên 32,3% trong năm 1995 . Tỉ
lệ này giảm dần trong giai đoạn 1996-2000 , do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực( năm 2000 chiếm 18,6% ) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoản

16% tổng vốn đầu tư xã hội.
Kể từ năm 2006 đến 2008, dòng ĐTNN vào Việt Nam tăng đột biến, hàng năm
luôn đạt kỷ lục so với các năm trước. Năm 2006 vốn FDI đăng ký đạt 12 tỷ USD,
năm 2007 đạt 21,3 tỷ USD, năm 2008 con số này lên tới 71,7 tỷ USD, gấp hơn 3
lần so với năm 2007. Trong 2009 và 2010, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, cũng như những vấn đề hậu khủng
hoảng, vốn FDI đăng ký vẫn đạt khoảng 23,1 tỷ vào năm 2009 và 18,6 tỷ vào năm
2010.
Vốn FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỷ USD, năm 2007 đạt 8,0 tỷ USD, năm
2008 đạt 11,5 tỷ USD, chiếm tới 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất
nhiều so với các năm trước. Trong năm 2009 và 2010, mặc dù vốn đăng ký giảm
nhưng vốn FDI thực hiện vẫn đạt 10 tỷ USD vào năm 2009 và khoảng 11 tỷ vào
năm 2010, với tỷ trọng tương ứng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 25,6% và
25,8%
3. Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh
tế :
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng các
doanh nghiệp tăng vốn đầu tư , mở rộng sản xuất . Đồng thời , có tác động lan tỏa
đến các thành phần kinh tế khác của kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước , công nghệ và
năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN . Sự lan tỏa
này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành hoặc theo hàng
ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành . Mặt khác các doanh nghiệp
ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích
ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa .
4. ĐTNN làm tăng trực tiếp nguồn vốn trong nước :
Đó là mức đóng góp đáng kể của ĐTNN đóng góp vào NSNN và cân đối vĩ mô,
cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức
đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN và ngân sách ngày càng tăng . Thời
kì 1996-2000 , không kể thu từ dầu thô , các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp NSNN

đạt 1,49 tỉ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trươc . Trong những năm 2001-2005 thu ngân
sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỉ USD , tăng bình quân 24%
năm.
Tính riêng 3 năm 2006, 2007 và 2008, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân
sách đạt gần 5 tỷ USD, gấp hơn 3 lần thời kỳ 1996-2000 và bằng 1,4 lần thời kỳ
2001-2005 , năm 2009 ước đạt 2,47 tỉ USD tăng 23% so với cùng kỳ 2008.
Hiện nay qua 6 tháng của năm 2011 , tổng đầu tư trực tiếp từ ĐTNN đã đạt 5,1 tỷ
USD , bằng 94% tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 8 tỷ USD , bằng
95% so với cùng ký năm trước.
ĐTNN tác động tích cực đến cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách ,
cải thiện cán cân vãng lại , cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn
vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế , tiền
thuê đất , tiền mua máy móc và nguyên vật liệu …
IV. Đánh Giá :
1 .Những mặt đạt được :
1.1. Từ khu vực nhà nước:
a.Với ngân sách nhà nước :
Vượt qua những khó khăn, thách thức của chính bối cảnh kinh tế quốc tế và trong
nước; dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo nhất quán, kịp thời và kiên quyết của
Chính phủ, cùng với nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các
doanh nghiệp và toàn dân trong triển khai thực hiện các giải pháp, chính sách
nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 tiếp tục đạt được những kết quả bước đầu tích
cực. Trong đó, hoạt động thu, chi NSNN 6 tháng đầu năm 2011 đã đã được những
kết quả khá khả quan.
+ Thu NSNN 6 tháng đạt 327.820 tỷ đồng
Tổng thu cân đối NSNN tháng 6 ước đạt 46.740 tỷ đồng. Lũy kế thu 6 tháng đạt 327.820
tỷ đồng, đạt 55,1% dự toán, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm 2010, gồm: Thu nội địa ước
đạt 202.540 tỷ đồng, bằng 53% dự toán; không kể thu tiền sử dụng đất (21.800 tỷ đồng).
Các lĩnh vực thu lớn nhìn chung đạt khá, trong đó: thu từ kinh tế quốc doanh đạt

50,8% dự toán; thu từ khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh
đạt 51,8%; thu từ khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 48%; thuế thu nhập
cá nhân đạt 63,7% dự toán Đã có 55/63 địa phương thu đạt 50% dự toán được
giao trở lên, song cũng còn 8/63 địa phương thu đạt dưới 45% dự toán do nguyên
nhân khách quan.
Trong điều kiện kinh tế không thuận lợi (lạm phát tăng cao, lãi suất ngân hàng và
tỷ giá ngoại tệ tăng mạnh, hoạt động sản xuất - kinh doanh của một bộ phận doanh
nghiệp gặp khó khăn ), kết quả thu NSNN đạt được nêu trên là rất tích cực, chủ
yếu do tăng trưởng của nền kinh tế từ năm 2010 kéo sang những tháng đầu năm
2011, từ đó tạo nguồn thu cho NSNN cộng với một số khoản thu chuyển nguồn từ
năm 2010 sang năm 2011 theo chế độ đạt khá. Thêm vào đó, nỗ lực của cơ quan
quản lý thu và sự phối kết hợp chặt chẽ, hiệu quả của các lực lượng chức năng
trong việc chống buôn lậu, gian lận thuế và xử lý nợ đọng thuế. Ngoài ra, việc giá
cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng cũng là yếu tố làm cho doanh thu chịu thuế
tăng, dẫn đến số thu nộp ngân sách tăng
+ Chi NSNN 6 tháng: Ước 355.600 tỷ đồng
Tổng chi NSNN tháng 6 ước đạt 53.570 tỷ đồng; lũy kế chi 6 tháng đầu năm ước
355.600 tỷ đồng, đạt 49,0% dự toán, trong đó: chi đầu tư phát triển: ước đạt
77.467 tỷ đồng, bằng 51,0% dự toán; trong đó, NSNN đã thực hiện cấp bù lãi suất
tín dụng nhà nước cho Ngân hàng Phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội đạt
53,3% dự toán; cấp chuyển vốn cho vay hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó
khăn, cho vay hộ đồng bào nghèo vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 57,3% dự
toán; chi bổ sung dự trữ quốc gia đạt 62,5% dự toán góp phần quan trọng thực
hiện mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội.
Riêng đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB), NSNN đã chuyển cấp phát và
ứng chi theo chế độ cho các dự án đạt 50,8% dự toán; vốn thực giải ngân đến các
chủ đầu tư ước đạt 44% dự toán, trong đó: vốn do NSTW quản lý đạt khoảng 39%
dự toán, vốn do địa phương quản lý đạt khoảng 45% dự toán. Bên cạnh vốn đầu tư
từ NSNN, vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ giải ngân ước đạt 66,4% dự
toán năm, trong đó: vốn do NSTW quản lý đạt khoảng 70% dự toán, vốn do địa

phương quản lý đạt khoảng 57% dự toán.
Chi trả nợ và viện trợ: ước đạt 45.900 tỷ đồng, bằng 53,4% dự toán,đảm bảo thực
hiện các nghĩa vụ nợ đến hạn của NSNN, không để tác động xấu đến kinh tế vĩ
mô.
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính
(bao gồm cả chi điều chỉnh tiền lương): ước đạt 232.233 tỷ đồng, bằng 49,5% dự
toán; đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ theo dự toán được giao và tiến độ thực hiện,
đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ chính trị (kinh phí cho công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 ) và các
nhu cầu phát sinh về đảm bảo an ninh - quốc phòng, khắc phục hậu quả thiên tai,
dịch bệnh
Có thể thấy, trong 6 tháng đầu 2011, NSNN đã đảm bảo kinh phí thực hiện các
chính sách an sinh xã hội đã bố trí dự toán đầu năm và các nhiệm vụ phát sinh
trong quá trình điều hành, như: thực hiện việc chi trả tiền lương, lương hưu và trợ
cấp xã hội theo mức tiền lương tối thiểu mới 830.000 đồng/người/tháng từ ngày
1/5/2011; trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ
trang, người hưởng lương hưu có mức lương thấp, người hưởng trợ cấp ưu đãi
người có công và hộ nghèo đời sống khó khăn; nâng mức tiền ăn cho chiến sỹ lực
lượng vũ trang, nâng mức cho học sinh sinh viên vay để học tập; hỗ trợ tiền điện
cho hộ nghèo (30.000 đồng/hộ/tháng) Bên cạnh đó, xuất dự trữ quốc gia để cứu
trợ, cứu đói kịp thời cho nhân dân trong vùng bị khó khăn do thiên tai gần 56.200
tấn gạo và xuất cấp các vật tư, thiết bị thiết yếu với tổng giá trị khoảng 512 tỷ
đồng.
+ Bội chi NSNN 6 tháng ở mức thấp
Bội chi NSNN tháng 6 ước 6.830 tỷ đồng; lũy kế 6 tháng ước 27.780 tỷ đồng,
bằng 23% mức bội chi cả năm Quốc hội quyết định và được bù đắp bằng các
nguồn vay trong nước và ngoài nước theo quy định.
Việc tổ chức thực hiện huy động vốn trong nước cho bù đắp bội chi NSNN và cho
đầu tư các công trình giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế trong 5 tháng đầu năm
gặp khó khăn, nhưng sang tháng 6 tình hình đã có chuyển biến tích cực hơn, khối

lượng huy động tăng lên và lãi suất huy động trái phiếu Chính phủ giảm (kỳ hạn 5
năm đã được điều chỉnh giảm từ 13,2% xuống còn 12,7%). Đến hết ngày
20/6/2011 đã huy động được 32.336 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, bằng khoảng
34% nhiệm vụ huy động trái phiếu Chính phủ cả năm
b. Doanh nghiệp nhà nước :
Trong những năm gần đây, quá trình đổi mới, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Số lượng doanh
nghiệp nhà nước qua các thời kỳ đã giảm đáng kể, từ hơn 12.000 doanh nghiệp
(trong những năm 1990), giảm xuống 5.655 doanh nghiệp (năm 2001), và đến cuối
năm 2010 còn khoảng 1.207 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
Quá trình cổ phần hóa đã giúp cho các doanh nghiệp đổi mới quản trị, thu hút
thêm nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, nâng cao tính tự chủ và hiệu quả hoạt động;
ngoài ra, đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi các doanh nghiệp thuộc diện Nhà
nước cần nắm giữ 100% vốn sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005. Chính phủ cũng thí điểm sắp xếp, tổ
chức lại một số tổng công ty mạnh, trên cơ sở đó hình thành nên một số tập đoàn
kinh tế nhà nước lớn. Đến nay, đã có 12 tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập
trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như điện, dầu khí, than – khoáng
sản, bưu chính viễn thông, hóa chất, xây dựng…
c. Khu vực tư nhân :
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2011
ước đạt 912 nghìn tỷ đồng, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2010.
Theo các thành phần kinh tế khu vực kinh tế cá thể và khu vực kinh tế tư nhân đều
tăng 26,3%, khu vực kinh tế tập thể tăng 18,4%
Theo ngành kinh tế, tăng cao nhất là thương nghiệp (tăng 23,2%); tiếp theo là dịch
vụ (22,3%); khách sạn, nhà hàng (19,6%) và cuối cùng là du lịch (19,1%)
Thị trường hàng hoá trong nước diễn biến khá sôi động, cung cầu hàng hoá trên thị
trường luôn được đảm bảo, mặc dù một số hàng hoá thiết yếu đã có những đợt
tăng giá do chịu ảnh hưởng của giá nguyên liệu đầu vào sản xuất nhưng thị trường
đã không xảy ra tình trạng thiếu hàng sốt giá.

d. Thị trường vốn :
Trong bối cảnh gần như cả thế giới, kể cả những nền kinh tế phát triển tiếp tục lâm
vào tình trạng khủng hoảng nợ và chưa khắc phục xong cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu xuất phát từ Mỹ năm 2008, thì nền kinh tế Việt
Nam vẫn kiểm soát được hầu hết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô nói chung và thị trường
tài chính nói riêng ở mức chấp nhận được. Tốc độ tăng tín dụng tổng quát xung
quanh 25%, đạt mức kỳ vọng; Chỉ số chứng khoán không mất điểm như các thách
thức từng đe dọa từ đầu năm, VNINDEX vẫn giữ ở mức xung quanh 500 điểm;
Thị trường bất động sản khá ổn định ở mức không bị trồi, sụt quá lớn; Vốn đăng
ký đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 17,2 tỉ USD, vốn giải ngân tăng 10% so với
2009 và “chạm” mức kỷ lục đã xác lập 11,5 tỉ USD năm 2008; Xuất khẩu xác lập
con số kỷ lục 71,6 tỉ USD; Nhập siêu chỉ còn 17,3% tổng kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu. Tăng trưởng GDP khá, ở mức 6,78%. Việt Nam vẫn đứng trong số các
nước tăng trưởng khá trong khu vực châu Á – vùng kinh tế đầu tầu của thế giới
Hầu hết các chỉ số tăng trưởng của cả 3 ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đều
tăng khá so với năm 2009 (lần lượt công nghiệp: 7,7%/5,57%; nông nghiệp:
2,78%/3,74% và dịch vụ: 7,52%/6,64%), kéo theo tăng trưởng GDP: 6,78%/5,32% cùng
cặp so sánh năm 2010/2009 – Nghĩa là, thị trường tài chính đã từng bước đi đúng
địa chỉ để kích hoạt cho nền kinh tế dần hồi phục sau suy giảm.
Tính đến thời điểm này, tổng giá trị vốn hoá của thị trường cổ phiếu niêm yết đã
đạt trên 300 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 20 tỷ USD và bằng khoảng 31%
GDP. Riêng vốn hoá của thị trường trái phiếu đạt trên 80.000 tỷ đồng, bằng 8%
GDP. Đó là những con số vượt trội, khi đến cuối năm 2006, tổng giá trị vốn hoá
thị trường cổ phiếu niêm yết chỉ khoảng 14 tỷ USD, chiếm 22,7% GDP.
Hiện tại, thị trường đã có 55 công ty chứng khoán hoạt động với vốn điều lệ bình
quân khoảng 90 tỷ đồng; dự kiến đến cuối năm là khoảng 100 công ty. Ngoài ra
còn có 18 công ty quản lý quỹ, 61 tổ chức lưu ký.
Về số lượng nhà đầu tư tham gia, hiện có trên 200.000 tài khoản đã được mở,
trong đó có 4.400 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài; tăng 7 lần so với năm
2005 và 1,5 lần so với năm 2006. Có 206 tổ chức đầu tư nước ngoài đăng ký tham

gia thị trường và lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ước đạt khoảng 5 tỷ USD.
1.2. Từ khu vực nước ngoài :
a. Vốn ODA :
Những năm gần đây, kinh tế Việt Nam liên tục có những bước đột phá ấn tượng.
Làm nên thành công này, bên cạnh nỗ lực không ngừng của Chính phủ, cộng đồng
doanh nghiệp còn phải kể đến các nguồn vốn từ nước ngoài, trong đó có sự hỗ trợ
đắc lực về nguồn vốn ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam.
Thực tế cho thấy, kể từ khi bắt đầu nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam vào năm
1991, 20 năm qua, ngay cả trong giai đoạn khó khăn nhất, Nhật Bản vẫn luôn là
nhà tài trợ song phương ODA lớn nhất cho Việt Nam. Từ năm 1992 - 2003, viện
trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam đạt khoảng 8,7 tỉ USD, chiếm khoảng 30%
tổng vốn ODA của cộng đồng quốc tế cam kết dành cho Việt Nam, trong đó viện
trợ không hoàn lại khoảng 1,2 tỉ USD.
Trong năm tài khóa 2007, tổng cộng Việt Nam nhận được khoản viện trợ ODA là
640 triệu USD, trong đó viện trợ không hoàn lại là 18 triệu USD, viện trợ dưới
dạng hợp tác kỹ thuật là 74 triệu USD và viện trợ vốn vay là 548 triệu USD. Năm
2008, kinh tế Nhật Bản vấp phải nhiều khó khăn, trong khi ODA của Nhật Bản
dành cho quốc tế nói chung đã giảm nhiều nhưng ODA cam kết theo kế hoạch
dành cho Việt Nam vẫn lên đến con số 1,1 tỉ USD. Ngày 31/3/2009, với số tiền
900 triệu USD cho tài khóa 2008 được ký đã nâng tổng số tiền cam kết của các
nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2008 lên con số 6 tỉ USD (so với 5 tỉ USD của năm
2007). Với con số này, ODA Nhật Bản dành cho Việt Nam năm 2008 vừa qua đã
đạt mức kỷ lục cao nhất từ trước đến nay. Năm 2009, bất chấp suy thoái kinh tế,
Nhật Bản vẫn dành cho Việt Nam lượng vốn ODA kỷ lục là 1,5 tỷ USD. Năm
2010, con số này là 1,8 tỷ USD. Và nay, dù đang đối mặt muôn vàn khó khăn, do
ảnh hưởng của thảm họa động đất, sóng thần, cam kết đó vẫn không thay đổi. Năm
2011, vốn cam kết được Chính phủ Nhật đưa ra tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà
tài trợ (CG) hồi cuối năm ngoái là 1,76 tỷ USD.
Tháng 6/2011, Chính phủ Nhật Bản đã ký Công hàm trao đổi khoản tín dụng ưu
đãi đợt 1 tài khóa 2011 với tổng trị giá 40,946 tỷ yên (tương đương 508 triệu

USD)dành cho Việt Nam. Khoản tài trợ ưu đãi trên được cung cấp giúp Chính phủ
Việt Nam triển khai 2 chương trình là: Dự án xây dựng đường cao tốc Bắc - Nam
(đoạn Thành phố Hồ Chí Minh - Dầu Giây 25,034 tỷ yên) và Dự án xây dựng
đường cao tốc Bắc - Nam (đoạn Đà Nẵng - Quảng Ngãi 15,912 tỷ yên). Với
40,946 tỷ yên ODA vốn vay được ký kết, cam kết ODA (bao gồm viện trợ không
hoàn lại và tín dụng ưu đãi) của Chính phủ Nhật Bản dành cho Việt Nam đạt
khoảng 1.685 tỷ yên. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, Chính phủ Nhật Bản thông
qua Bộ Ngoại giao Nhật Bản và Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam đã có thông
báo bằng văn bản xác nhận, sẽ tiếp tục duy trì ODA cho Việt Nam, tiếp tục là nhà
tài trợ song phương ODA lớn nhất. Điều đó có nghĩa, khoản tài trợ ODA trị giá
150 tỷ yên (tương đương hơn 1,8 tỷ USD) của năm tài khóa 2010 sẽ tiếp tục được
thực hiện trong năm 2011.
Từ năm 2007, ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam ưu tiên hàng đầu vào 3 lĩnh
vực: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; Cải thiện đời sống dân cư và các lĩnh vực xã
hội; Hoàn thiện thể chế, pháp luật. Ba lĩnh vực này cũng phù hợp với những mục
tiêu chính mà Chính phủ Việt Nam đang đặt ra trong kế hoạch phát triển và xoá
đói, giảm nghèo.
Thông qua các nguồn ODA, Nhật Bản đã giúp Việt Nam xây dụng nhiều công
trình hạ tầng kinh tế – xã hội. Điểm qua các công trình xây dựng trọng điểm trên
cả nước đã và đang thực hiện, khá nhiều công trình có sự hỗ trợ tài chính của
Chính phủ Nhật. Trong đó có cả những công trình được xem là niềm tự hào của
Việt Nam như: Cầu Bãi Cháy, Nhà ga hành khách quốc tế mới sân bay Tân Sơn
Nhất, Đường cao tốc Đông Tây Sài Gòn, Đường hầm Hải Vân, Nhà máy nhiệt
điện Phả Lại, Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ, dự án cải thiện môi trường nước ở Hà
Nội và Tp.HCM Ngoài ra, thông qua các nguồn ODA, Nhật Bản cũng cung cấp
một số lượng đáng kể học bổng để đào tạo đại học và sau đại học cho các sinh
viên và cán bộ khoa học – kỹ thuật của Việt Nam. Một số lượng lớn chuyên gia và
người tình nguyện Nhật Bản hiện đang hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực phát
triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo. Đặc biệt thông qua ODA, Nhật
Bản còn hỗ trợ Việt Nam trong nhiều sáng kiến hợp tác trong khuôn khổ ASEAN,

ASEM, Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng…

×