Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu triết học " LIÊN HỆ MẬT THIẾT VỚI QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN CỘI NGUỒN SỨC MẠNH CỦA ĐẢNG TA " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.19 KB, 8 trang )

LIÊN HỆ MẬT THIẾT VỚI QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN CỘI NGUỒN
SỨC MẠNH CỦA ĐẢNG TA

ĐOÀN VĂN KHÁI (*)
Quan tâm xây dựng, củng cố và không ngừng tăng cường mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng Cộng sản với nhân dân là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng
Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, là cội nguồn tạo nên sức mạnh của Đảng. Để
nâng cao sức mạnh và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình, trong mối quan hệ
với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam cần: luôn chăm lo đầy đủ đến lợi ích,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thật sự tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân; đồng thời, tiếp tục xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh. Đó là cơ sở tạo nên sức mạnh để Đảng vượt qua mọi khó khăn, thách
thức; lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.

V.I.Lênin - lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp vô sản Nga và giai cấp vô sản thế giới -
khẳng định rằng, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản, nhưng
Đảng Cộng sản cũng "chỉ là một bộ phận nhỏ của giai cấp vô sản và giai cấp vô
sản lại cũng chỉ là một bộ phận nhỏ trong quần chúng nhân dân"(1); nó chỉ làm
tròn sứ mệnh lịch sử của mình khi biết gắn bó chặt chẽ với quần chúng và dẫn
dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Nói về vai trò của quần chúng nhân dân đối với
sự nghiệp của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một mệnh đề chứa đựng tư
tưởng lớn và rất sâu sắc: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu
cũng xong.
Thật vậy, nếu không có sự đồng tình ủng hộ, chung sức, chung lòng của quần
chúng nhân dân thì Đảng Cộng sản không thể có được sức mạnh, cách mạng vô
sản không thể thành công và nếu không có sự lãnh đạo, tổ chức của Đảng Cộng
sản thì quần chúng nhân dân cũng không có được đường hướng chính trị đúng
đắn để chỉ đạo, dẫn dắt cuộc đấu tranh cách mạng của mình. Lịch sử phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự thành công của Đảng Cộng sản và các cuộc cách mạng vô sản là nhờ đã thắt


chặt được mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng. Nói tóm lại, sự gắn bó máu thịt,
liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân lao động là quy luật tồn tại, phát triển
và hoạt động của Đảng Cộng sản, là cội nguồn sức mạnh vô địch của Đảng, là
nhân tố bảo đảm cho sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Vì vậy,
không ngừng củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng cầm quyền và quần
chúng nhân dân là một nguyên tắc bất di bất dịch của chủ nghĩa Mác - Lênin về
xây dựng Đảng. V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh tính tất yếu khách quan cũng
như sự cần thiết phải tăng cường, mở rộng mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng,
đặc biệt là sự cần thiết phải lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân vào công
cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Ông cho rằng, đối với một
Đảng Cộng sản đang lãnh đạo đất nước thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, "một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với
quần chúng" và "đó là một tai hoạ thực sự".
Đáng tiếc là, vào những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX,
tai hoạ mà V.I.Lênin từng cảnh báo đã xảy ra với Đảng Cộng sản Liên Xô - một
Đảng lớn với 20 triệu đảng viên. Như nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, lý giải,
Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó, trên thực tế, đã dường như chia thành hai Đảng:
một Đảng thuộc "đẳng cấp thượng lưu" của tầng lớp quan liêu, tham nhũng, đặc
quyền, đặc lợi "ăn trên, ngồi trốc", bị nhân dân oán ghét; một Đảng của những
đảng viên thường đã trở thành một khối thờ ơ, thụ động, mất niềm tin vào chủ
nghĩa xã hội, vào Đảng Cộng sản. Vì mất niềm tin, đông đảo đảng viên thường và
quần chúng nhân dân Liên Xô đã thờ ơ với Đảng, không đứng lên bảo vệ Đảng khi
Đảng lâm nguy, khi Đảng bị giải tán, bị cấm hoạt động. Bài học thất bại vì mất
dân, mất chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản Liên Xô thật quá đắt giá, rất đáng
để cho tất cả các Đảng Cộng sản đã mất quyền lãnh đạo, chưa cầm quyền hoặc
đang cầm quyền trên thế giới phải suy ngẫm để tự rút ra bài học cho chính mình.
Nhìn lại quá trình Đảng ta lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công cuộc trường
chinh giành lại độc lập tự do cho đất nước, cho dân tộc, chúng ta thấy Đảng đã
luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, tạo thành một khối thống nhất không gì lay
chuyển được và đó chính là cội nguồn sức mạnh vô địch của Đảng ta. Tuy nhiên,

trong thời kỳ hoà bình, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa với
mục tiêu cụ thể là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh",
bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận, ở nơi này nơi kia, lúc này lúc
khác, Đảng cũng đã phạm những sai lầm, khuyết điểm không nhỏ trong quan hệ
với dân. Đại hội Đảng lần thứ IX đã nhận đinh: "Tình trạng mất dân chủ, tệ quan
liêu, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu dân, lãng phí còn nặng, đang là lực cản
của sự phát triển và gây bất bình trong nhân dân"(2). "Tình trạng tham nhũng,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ
thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống
còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến"(3). Thực
trạng này đang làm suy giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và mối
dây liên hệ giữa Đảng với dân cũng không khỏi bị ảnh hưởng xấu.
Vấn đề đặt ra là, làm thế nào và bằng cách nào để duy trì, tăng cường, củng cố
mối liên hệ gắn kết giữa đảng cầm quyền với quần chúng nhân dân cho thật bền
vững? Thực ra, Đảng và dân là hai chủ thể trong một mối quan hệ, nên muốn
quan hệ bền chặt thì cả hai chủ thể đều phải hết sức cố gắng, tự giác xây đắp mối
quan hệ đó. Nhưng, với tư cách là đội tiên phong, là đảng cầm quyền, trách
nhiệm xây dựng mối liên hệ bền vững giữa Đảng với quần chúng nhân dân trước
hết thuộc về Đảng. Trong những năm qua, Đảng ta cũng đã và đang tích cực thực
hiện nhiệm vụ then chốt được đề ra từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ ba (khoá VII) là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thật sự xứng đáng là
đội tiên phong, là người lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp xây dựng đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Kết quả mà Đảng đạt được là khả quan,
nhưng còn chưa đáp ứng được kỳ vọng của nhân dân. Vì vậy, để duy trì, củng cố
và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, Đảng phải chú trọng làm thật
tốt những việc chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, Đảng cần chăm lo đầy đủ đến lợi ích, đời sống tinh thần và vật chất
của quần chúng nhân dân; nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa quan trọng của vấn đề
này. Trong hoàn cảnh hoà bình, việc chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao

động là một trong những hoạt động trọng tâm của Đảng cầm quyền, là vấn đề
quyết định sự tín nhiệm và sự gắn bó của quần chúng đối với Đảng. Một khi đời
sống được cải thiện về chất, lợi ích hợp pháp và chính đáng của nhân dân lao
động được tôn trọng, được bảo vệ, người lao động sẽ gắn bó mật thiết với Đảng
và Nhà nước, với chế độ, sẽ cố gắng lao động, sản xuất, công tác tốt hơn. Đáng
tiếc là, những năm gần đây, do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và xu thế
toàn cầu hoá, tình trạng phân hoá giàu - nghèo gia tăng nhanh chóng; trong khi
một bộ phận không nhỏ dân cư nước ta chưa được bảo đảm những nhu cầu thiết
yếu và tối thiểu (nước sạch, lương thực, nhà ở, ) thì số lượng những cán bộ có
chức quyền, có tài sản nhiều tỷ đồng và cuộc sống vương giả lại ngày càng nhiều
lên; số lượng các vụ tham nhũng, làm thất thoát tài sản công trị giá hàng chục,
hàng trăm tỷ đồng cũng nhiều thêm nhưng lại chưa có biện pháp ngăn chặn,
trừng trị có hiệu quả. Điều đó làm cho quần chúng nhân dân cảm thấy thật sự xót
xa và đau lòng. Vì vậy, một mặt, Đảng phải có những biện pháp cụ thể, thiết thực
và tích cực để cải thiện đời sống cho nhân dân, từ việc tạo việc làm cho người
lao động đến việc chăm lo bảo vệ, nâng cao sức khoẻ, bảo đảm giáo dục, thực
hiện an sinh xã hội, an toàn, công bằng xã hội, Mặt khác, phải trừng trị nghiêm
khắc những kẻ tham nhũng, làm giàu bất chính, xâm phạm lợi ích của nhân dân,
bất kể chúng là ai, giữ chức vụ gì. Nếu Đảng làm được như vậy thì quần chúng
sẽ tin tưởng, gắn bó, ủng hộ Đảng nhiều hơn và do đó, sức mạnh của Đảng sẽ
được nhân lên nhiều lần.
Thứ hai, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đây là
một chủ trương mang tầm chiến lược của Đảng. Có thể hình dung xã hội như
một cơ thể sống; trong đó, mỗi cá nhân vừa là thành viên, là bộ phận cấu thành,
lại vừa là chủ thể hành động. Những chủ thể này hoạt động có hiệu quả nhiều
hay ít phụ thuộc vào các nhân tố chủ quan và khách quan, trong đó có hệ thống
các cơ chế, chính sách, biện pháp, phát huy quyền làm chủ, tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của mỗi thành viên. Do đó, vấn đề quan trọng đặt ra là, không
để quyền làm chủ của nhân dân trở thành lời nói suông, khẩu hiệu suông, mà
phải tạo điều kiện thực tế, có cơ chế cụ thể cho nhân dân thực hiện quyền làm

chủ của mình. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (khoá
VIII) chỉ rõ: "Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân
dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục hoàn thiện
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm trong sạch, vững mạnh
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội
chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà
nước"(4). Cụ thể hoá tinh thần đó, Bộ Chính trị (khoá VIII) đã chỉ ra Chỉ thị số
30-CT/TW "Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” (18 – 2 –
1998). Qua tám năm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, quyền làm chủ của nhân
dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước đã được tôn trọng và phát huy, mang
lại nhiều thành tựu quan trọng về nhiều mặt. Chính vì vậy, Chỉ thị trên được
đánh giá là "khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời kỳ
mới"(5).
Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, quyền làm chủ của nhân dân trong
xây dựng và quản lý đất nước còn chưa được thật sự tôn trọng ở một số cấp,
ngành và địa phương. Chẳng hạn, chủ trương "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra" đã thực sự trở thành khẩu hiệu hành động chưa? Đã mấy ai biết được
thu nhập, tổng giá trị tài sản của các cán bộ trung, cao cấp của Đảng và gia đình
họ, những người cư trú trên địa bàn mình? "Việc công khai về tài chính, hợp
đồng kinh tế, chương trình dự án, đấu thầu, mua bán vật tư có giá trị cao vẫn
còn hình thức, thiếu công khai, minh bạch. Quy định về lấy ý kiến nhân dân
trước khi ban hành các chủ trương, chính sách, các dự án đầu tư quan trọng ở cơ
sở chưa được thực hiện nghiêm túc Việc tổ chức cho nhân dân tham gia xây
dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể và góp ý cho cán bộ, đảng viên ở không ít nơi
tiến hành một cách hình thức Đội ngũ cán bộ chủ chốt chưa thực hiện đều đặn
việc đối thoại trực tiếp, tự kiểm điểm trước dân và nghe dân góp ý phê bình xây
dựng. Chế độ tự phê bình chưa được thực hiện rộng rãi"(6). Điều đó có nghĩa là
chúng ta còn rất nhiều việc phải làm, phải chấn chỉnh để Đảng gần dân hơn, dân gắn
bó với Đảng hơn.
Thứ ba, điều quan trọng nhất là vấn đề xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta luôn ý thức sâu sắc trách nhiệm của mình
trước đất nước, dân tộc và nhân dân. Để làm tròn trách nhiệm, Đảng phải thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức mạnh về
mọi mặt. Ngay từ Đại hội VI (12 - 1986), Đảng đã đề chủ trương phải đổi mới tư
duy, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ và đổi mới phong cách công tác. Đến Đại
hội VII (6 - 1991), Đảng tiếp tục đề ra chủ trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (khoá VII) họp vào tháng 6 năm
1992 đã cụ thể hoá chủ trương trên và nhấn mạnh: lúc này, xây dựng kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Từ đó đến nay, Đảng ta đã rất chú trọng
thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Thực tế cho thấy,
quần chúng nhân dân nhìn nhận về Đảng, đánh giá về Đảng trước hết và phần
nhiều là thông qua phẩm chất, đạo đức, tư cách, lối sống của cán bộ, đảng viên,
chứ chưa phải là năng lực công tác hay sự tài giỏi của họ. Có thể nói, phẩm chất
đạo đức, tư cách, lối sống của cán bộ, đảng viên là vấn đề có ảnh hưởng quyết
định đến uy tín, đến danh dự của Đảng và tác động trực tiếp đến mối liên hệ giữa
Đảng và nhân dân. Chính vì vậy mà Đảng ta luôn nhấn mạnh rằng, việc nâng cao
phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, đấu tranh kiên quyết
chống tệ quan liêu, cửa quyền, nạn tham nhũng, hối lộ là một trong những nhiệm
vụ cấp bách và chủ yếu của công tác xây dựng Đảng.
Trong nhiều năm qua, cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, cuộc
đấu tranh chống tệ quan liêu, nạn tham nhũng và ngăn chặn tình trạng thất thoát,
lãng phí nói riêng đã tạo được một số chuyển biến tích cực. Nhiều vụ án lớn liên
quan đến sự thoái hoá, biến chất, đến tham nhũng của một số cán bộ Đảng cao
cấp đã được đưa ra xét xử công khai. Tuy nhiên, nếu như Đại hội IX đánh giá
rằng, trong công tác xây dựng Đảng, chúng ta "chưa ngăn chặn và đẩy lùi được
sự suy thoái về tư tưởng, chính trị và đạo đức, lối sống", "tình trạng tham nhũng,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng"(7), thì đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ chín (khoá IX) - Hội nghị kiểm điểm nửa nhiệm kỳ đầu thực hiện
Nghị quyết Đại hội IX - họp vào tháng 01 năm 2004 vẫn phải đánh giá rằng, "tình

trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn và đẩy lùi, chủ nghĩa cá nhân có
chiều hướng phát triển"(8) và điều này làm cho nhân dân bất bình, lo lắng.
Tóm lại, sự gắn bó máu thịt, liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân là cội
nguồn sức mạnh của Đảng, là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng
Cộng sản, là nhân tố đảm bảo sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cách mạng.
Để nuôi dưỡng và phát huy nguồn sức mạnh đó, Đảng phải giải quyết một loạt
nhiệm vụ, trong đó cần làm tốt ba việc lớn kể trên. Đó là một trong những điều
kiện quan trọng để Đảng luôn có sức mạnh và vượt qua những nguy cơ, thách
thức; đồng thời, lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa
đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.r

(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Ngoại thương.
(1) V.I.Lênin. Toàn tập, t.43. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.274.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.156.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.76.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.41 - 42.
(5) Tòng Thị Phóng. Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta
trong thời kỳ mới. Tạp chí Cộng sản, số 21, 11 - 2004, tr.3.
(6) Tòng Thị Phóng. Sđd., tr.7.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.76, 138.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương khoá IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.64.


×