Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Những bài thuốc quý từ “Cây ổi sau nhà” pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.67 KB, 3 trang )

Những bài thuốc quý từ “Cây ổi sau nhà”
Lương y VÕ HÀ
Chống mất nước, giữ ấm người và bảo vệ khí hoá của Tỳ Vị là những yêu
cầu cơ bản của việc chữa tiêu chảy cấp. Nước sắc búp ổi và uống nước
cháo gạo lức rang có thể đáp ứng tốt quá trình nầy.
Ổi là một loại cây ăn quả quen thuộc. Hình ảnh “Cây ổi sau nhà” đã trở
thành một biểu tượng đặc trưng cho miền quê Việt Nam. Cây ổi không chỉ
che mát, tạo thêm nét đa dạng cho vườn cây ăn quả của gia đình mà còn
là một nguồn dược liệu phong phú cho nhiều trường hợp cấp cứu khác
nhau.
Mô tả.
Cây ổi còn được gọi là phan thạch lựu, tên khoa học Psidium guyjava L.,
thuộc họ Sim Myrtaceae. Ổi là mộ loại cây nhỡ, cao từ 3 đến 6 mét. Cành
nhỏ có cạnh vuông. Lá mọc đối, hình bầu dục, có cuống ngắn, phiến lá có
lông mịn ở mặt dưới. Hoa có màu trắng, mọc ra từ kẻ lá. Quả mọng, có
phần vỏ quả dày ở phần ngoài. Ổi có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu
Mỹ, lan sang châu Á, châu Phi. Hiện nay, ở nước ta có nhiều loại ổi. Ổi
mọc hoang ở khắp nơi từ vùng đồng bằng đến đồi núi. Ổi cũng thường
được trồng để ăn quả.
Dược tính.
Nghiên cứu về thành phần dinh dưỡng của ổi cho biết quả ổi có hàm
lượng các sinh tố A, C, acid béo omega 3, omega 6 và nhiều chất xơ[i].
Ổi là một trong những loại rau quả có tỷ lệ sinh tố C rất cao, mỗi 100g có
thể có đến 486mg Sinh tố C[ii]. Sinh tố C tập trung cao nhất ở phần vỏ
ngoài, càng gần lớp vỏ ngoài, lượng sinh tố càng cao. Do đó, khi ăn ổi,
nên rửa sạch và ăn cả vỏ. Quả ổi là một nguồn thực phẩm ít calori nhưng
giàu chất dinh dưỡng và có nhiều chất chống oxy hoá thuộc 2 nhóm
carotenoids và polyphenols. Theo những nghiên cứu khoa học về những
chất chống oxy hoá[iii], vị chua và chát trong nhiều loại rau quả, bao gồm
lá ổi, quả ổi là do độ đậm đặc của những loại tanin có tính chống oxy hoá
gây ra. Tương tự như quy luật màu càng sậm như vàng, tía, đỏ càng có


nhiều chất chống oxy hoá, vị càng chát, càng đắng, càng chua độ tập
trung của những chất nầy cũng càng nhiều. Ngoài sinh tố A, C, quả ổi còn
có quercetin, một chất có tính chống oxy hoá cực mạnh có tác dụng
kháng viêm, chống dị ứng trong nhiều chứng viêm nhiễm mãn tính như
suyển, dị ứng, tim mạch, thấp khớp, lỡ loét, ung thư.
Một tính chất quan trọng của ổi thường được sử dụng làm thuốc là tác
dụng thu liễm, se da, co mạch, làm giảm sự xuất tiết và giảm sự kích
thích ở màng ruột. Tác dụng nầy được dùng rộng rải trong nhiều chứng
tiêu chảy, thổ tả hoặc kiết lỵ. Trong nhiều trường hợp rối loạn thuộc loại
này, điều cơ bản là chống mất nước, giữ ấm người, bảo vệ khí hóa của
Tỳ Vị. Búp ổi, lá ổi là một vị thuốc đáp ứng rất tốt cho yêu cầu se da, giảm
xuất tiết và cả giảm kích thích để làm dịu các triệu chứng cấp. Uống
thêm nước cháo gạo lức rang có thêm vài lát gừng nướng và một
chút muối vừa bảo đảm yêu cầu bổ sung nước, vừa giữ ấm trung tiêu và
kích thích tiêu hoá là những biện pháp đơn giản, ở trong tầm tay, nhưng
có thể giải quyết được hầu hết các trường hợp.
Kinh nghiệm dân gian nhiều nơi đã dùng lá ổi giã nát hoặc nước sắc lá ổi
để làm thuốc sát trùng, chống nấm, chữa các trường hợp lở loét lâu lành,
làm giảm sốt, chữa đau răng, chữa ho, viêm họng. Nghiên cứu của Trần
thanh Lương và các cộng sự[iv] cho biết tác dụng chống nhiễm khuẩn và
nhiễm nấm là do 2 hoạt chất Beta-caryophyllene và Alpha-caryophyllene.
Ở Ấn Độ, người ta còn dùng nước sắc lá ổi để chữa viêm thận, động kinh.
Có thể thấy hiệu quả chữa bệnh ở đây là do tác dụng tổng hợp của 3 yếu
tố (1) thu liễm (2) sát trùng (3) kháng viêm.
Theo y học cổ truyền, quả ổi có tính mát, vị ngọt, chua, hơi chát, không
độc, có tác dụng sáp trường, chỉ tả, thường dùng để sát trùng, rửa vết
thương, trị tiêu chảy.
Sau đây là một số cách sử dụng ổi phổ biến.
Chữa vết thương do chấn thương hoặc trùng, thú cắn.
Búp ổi non nhai nát, đấp vào vết thương.

Chữa vết loét lâu lành ở chân, tay.
Búp ổi, lá ổi non khoảng 100g, sắc đặc, ngâm tay hoặc chân bị loét vào
nước sắc lúc thuốc còn ấm. Mỗi ngày ngâm khoảng 2 hoặc 3 lần.
Chữa đau răng hoặc vết lở ở miệng.
Có thể dùng một trong 3 cách
- Nhai hoặc giã nát búp ổi non xát nhẹ vào nướu hoặc vào chỗ
lở.
- Thêm một chút nước ấm và một tí muối vào khoảng 7 búp ổi
non. Giã nát. Dùng một que tăm có bông gòn ở đầu thấm vào
nước thuốc đã giã ra để lăn hoặc chà nhẹ vào nướu hoặc chổ lở.
- Lá ổi non khoảng 100g, sắc đặc. Dùng nước sắc để súc miệng
và ngậm vài phút trước khi nhả ra.
Chữa ho, sốt, viêm họng.
Lá ổi non 20g đến 40g phơi khô, sắc uống.
Chữa tiêu chảy cấp.
Búp ổi 20g, Vỏ măng cụt 20g, Gừng nướng 10g, Gạo rang 20g Sắc uống.
Bách chiến tán chống dịch tiêu chảy cấp.
Bách chiến tán là phương thuốc của Lương Y Lê Minh Xuân[v]để
chữa những trường hợp tiêu chảy hoặc thổ tả do Tỳ Vị hư yếu gặp
phải phong độc hoặc ăn phải thức ăn bị nhiễm khuẩn.
Búp ổi 200g, Vỏ cây sung 500g, Vỏ quít 20g, Gừng già 100g, Hạt
cau già 10g, Nhục đậu khấu 150g. Các vị thuốc xắt nhỏ, phơi khô,
tán bột, phân vào những gói nhỏ, mỗi gói 6g. Người lớn dùng mỗi
ngày 3 lần, mỗi lần một gói.
Chữa tiểu đường loại 2.
Phần vỏ của quả ổi có nhiều chất xơ, sinh tố C và những chất chống oxy
hoá có tác dụng kháng viêm và ổn định đường huyết rất tốt cho các bệnh
nhân bệnh tiểu đường loại 2. Không ăn phần ruột có nhiều hạt và chỉ số
đường cao. Liều dùng trung bình 150g mỗi ngày. Người già có thể xắt
nhỏ, xay và ép lấy nước uống. Tuy nhiên, nước ép sẽ mất bớt đi sinh tố

và chất xơ.
Chữa băng huyết.
Quả ổi sao khô, đốt tồn tính, tán bột. Mỗi ngày dùng 2 lần, mỗi lần khoảng
8g.
Lưu ý. Không dùng ổi cho những người đang bị táo bón. Ruột ổi có thể
làm nhuận trường nhưng chất chát trong lá ổi và vỏ ổi có thể gây táo bón.

×